




Preview text:
Đảo là gì ? Quy định về biển, đảo theo pháp luật hiện nay 1. Khái niệm về đảo ?
Đảo là phần đất có nước bao quanh mọi phía (ở giữa đại dương, biển, hồ
hoặc sông). Trên thực địa, có đảo nổi - khi thuỷ triều lên cao nhất vẫn không
bị ngập nước, có đảo chìm - khi nước thuỷ triều lên thì bị ngập. Đảo có thể
nằm riêng biệt, có thể nằm cạnh nhau tạo thành những quần đảo (như quần
đảo Philippin có tới trên 7.000 hòn đảo lớn nhỏ tạo thành). Tuỳ theo vị trí tọa
lạc, có thể chia đảo thành ba loại: đảo lục địa, đảo của đới chuyển tiếp từ lục
địa đến đại dương và đảo đại dương. Ngoài ra, tuỳ theo lịch sử hình thành,
đảo có thể được phân thành 2 loại: đảo núi lửa và đảo san hô. Đảo núi lửa
xuất hiện do kết quả hoạt động của núi lửa ở đáy biển. Đảo san hô được hình
thành do sản phẩm của các quần thể san hô, đá vôi san hô.
Chế độ pháp lí của đảo tuỳ thuộc vào vị trí của đảo: nằm ở ven bờ hay ngoài
khơi. Đối với đảo ven bờ thì có thể lấy làm mốc xác định đường cơ sở. Vùng
nước giữa bờ biển và đảo là nội thuỷ. Đối với đảo nằm ngoài khơi (trừ đảo
hoang, không có người ở, không đời sống kinh tế riêng) cũng có lãnh hải,
vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa (theo chế độ pháp lí
như đối với lục địa). Ngoài đảo tự nhiên, còn có đảo nhân tạo với chế độ
pháp lÍ riêng. Theo Công ước luật biển năm 1982, các đảo nhân tạo trên biển
không có lãnh hải riêng mà chỉ có một vành đai an toàn rộng 500m với điều
kiện không ảnh hưởng Ä đến việc quy định ranh giới lãnh hải, thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven bờ.
2. Quy định về biển theo pháp luật Việt Nam
2.1. Nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển theo pháp luật
- Quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp
luật Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc
tế khác mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và
quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
- Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước
khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế.
2.2. Chính sách quản lý và bảo vệ biển
- Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển,
đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển.
- Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng,
khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo một cách bền vững phục
vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng
thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát
triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững
các vùng biển phù hợp với điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu
quốc phòng, an ninh; tăng cường thông tin, phổ biến về tiềm năng, chính
sách, pháp luật về biển.
- Khuyến khích và bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân trên các vùng biển,
bảo hộ hoạt động của tổ chức, công dân Việt Nam ngoài các vùng biển Việt
Nam phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên, pháp luật quốc tế, pháp luật của quốc gia ven biển có liên quan.
- Đầu tư bảo đảm hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm
soát trên biển, nâng cấp cơ sở hậu cần phục vụ cho các hoạt động trên biển,
đảo và quần đảo, phát triển nguồn nhân lực biển.
- Thực hiện các chính sách ưu tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo
và quần đảo; chế độ ưu đãi đối với các lực lượng tham gia quản lý và bảo vệ
các vùng biển, đảo và quần đảo.
2.3. Chế độ pháp lý ở thềm lục địa theo quy định của pháp luật
- Định nghĩa: Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp
liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của
lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của
rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ
sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính
từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá
200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không
quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
Chế độ pháp lý ở thềm lục địa:
- Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên.
- Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền,
không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác
tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
- Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định
việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
- Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử
dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam
theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của
Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt
Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
2.4. Chế độ pháp lý ở đảo và quần đảo theo pháp luật
- Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất
này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ
phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có
liên quan chặt chẽ với nhau.
- Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
- Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng
thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
- Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống
kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
- Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của các đảo, quần đảo được xác định theo quy định tại các điều 9, 11,
13, 15 và 17 của Luật Biển Việt Nam và được thể hiện bằng hải đồ, bản kê
toạ độ địa lý do Chính phủ công bố.
- Nhà nước thực hiện chủ quyền trên đảo, quần đảo của Việt Nam.
- Chế độ pháp lý đối với vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được thực hiện theo
quy định tại các điều 10, 12, 14, 16 và 18 của Luật Biển Việt Nam 2012.
3. Chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi quốc gia,
dân tộc. Với vị trí, đặc điểm của một quốc gia ven biển, có đường bờ biển dài
3.260 km từ Bắc xuống Nam dọc theo bờ biển phía Đông- Đông Nam và Tây
Nam, vùng biển Việt Nam rộng lớn với hàng nghìn đảo lớn nhỏ, đặc biệt có
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trên Biển Đông có vị trí chiến
lược quan trọng. Từ hàng nghìn năm nay, biển, đảo đã gắn liền với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam trước sau
như một khẳng định nhất quán chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Lập trường này được thể hiện trong Luật Biên giới
quốc gia năm 2003, Luật Biển Việt Nam năm 2012, Tuyên bố 1977 về lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, Tuyên bố 1982 về đường
cơ sở dùng để tính lãnh hải của Việt Nam, Nghị quyết của Quốc hội năm
1994 phê chuẩn công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS 1982) và Nhà nước ta cũng trở thành thành viên của hàng loạt
điều ước quốc tế liên quan đến biển và đại dương. Công ước 1982 quy định:
Nội thủy là các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải. Theo
quy định tại Điều 3 của Công ước 1982, chiều rộng lãnh hải không vượt quá
12 hải lý kể từ đường cơ sở. "Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở
rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc
gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi
là lãnh hải (merterritoriale). Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên
lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất của biển này" (Phần II, Điều 2).
Hiện nay Việt Nam đang quản lý 21 đảo nổi và đảo chìm ở quần đảo Trường
Sa. Việc tuần tra kiểm soát trên vùng biển của quần đảo được tổ chức chặt
chẽ. Các hoạt động nghiên cứu thăm dò, khai thức tài nguyên thủy sản được
đẩy mạnh. Nhà nước đã đầu tư xây dựng nhiều trạm đèn biển tại đảo Đá Tây,
Đá Lát, An Bang và Tiên Nữ. Trạm khí tượng Trường Sa hoạt động liên tục
cung cấp các số liệu khoa học phục vụ cho ngành khí tượng thủy văn trong
nước và quốc tế. Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương
luôn dành cho hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sự quan tâm và động
viên to lớn. Hàng năm đại diện các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã
tổ chức các chuyến công tác ra Trường Sa, thăm hỏi động viên quân và dân
Trường Sa. Thông qua những chuyến đi chứa chan tình cảm và trách nhiệm,
đã góp phần truyền cảm hứng và niềm tự hào về biển, đảo Việt Nam trong
lòng mỗi người dân. Để từ đó, lòng yêu nước, tình yêu biển, đảo lại được
nhân lên, tiếp thêm sức mạnh hành động bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của đất nước
Document Outline
- Đảo là gì ? Quy định về biển, đảo theo pháp luật h
- 1. Khái niệm về đảo ?
- 2. Quy định về biển theo pháp luật Việt Nam
- 2.1. Nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển theo pháp l
- 2.2. Chính sách quản lý và bảo vệ biển
- 2.3. Chế độ pháp lý ở thềm lục địa theo quy định c
- 2.4. Chế độ pháp lý ở đảo và quần đảo theo pháp lu
- 3. Chủ quyền biển đảo của Việt Nam