Đề 1: Cảm nhận bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
A.
Mở i
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm tập thơ “Bạch Vân quốc ngữ thi
tập”: Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ lớn nhất Việt Nam thế kỉ XVI với những
sáng tác ghi dấu mốc lớn trên con đường phát triển lịch s văn học. “Bạch vân
quốc ngữ thi tập tập thơ Nôm nổi tiếng của ông.
- Giới thiệu bài t “Nhàn” (xuất sứ, hoàn cảnh sáng tác, nội dung): là bài thơ
Nôm số 73 trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”, làm khi tác giả cáo quan v
ẩn, nói về cuộc sống thanh nhàn nơi thôn triết sống của tác giả.
- Trích dẫn
B.
Thân i
I.
Phân tích nội dung:
1.
Hai câu đề: V đẹp cuộc sống am Bạch Vân
- Mai, quốc, cần câu: những dụng cụ lao động cần thiết, quen thuộc của
người nông dân.
- Phép liệt kết hợp với số từ một”: Gợi hình ảnh người nông dân đang điểm
lại công cụ làm việc của mình mọi thứ đã sẵn sàng.
- Nhịp t 2-2-3 thong thả đều đặn
Tâm thế nhà thơ: Nhà t đã chọn một lối sống thanh nhàn trái ngược với lối
sống bồ chen chúc bên ngoài. Qua đây, ta cũng thấy được thái độ ngông với
cuộc đời, với thói đời của nhà thơ
- Trạng thái “thơ thẩn”: trạng thái thanh nhàn trong tâm, buông bỏ lợi danh
- Cụm từ phủ định “dầu ai”: Mặc kệ cho ai chọn lối sống o
→Thể hiện sự đối lập trong tâm thế, trong sự lựa chọn lối sống của nhà thơ
- “ai”: Chỉ người đời nói chung, ngoài ra trong bài thơ để chỉ những người
bon chen trong vòng danh lợi
Cuộc sống ung dung, tự tại, giản dị, không chạy đua theo người đời trong
triết nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2.
Hai câu thực: Lối sống vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ
- Nghệ thuật đối: ta người, dại khôn: Nhấn mạnh quan niệm sống mang tính
triết lí, thâm trầm của nhà thơ.
- Nghệ thuật thể hiện:
+ Cách nói ngược Ta dại người khôn”: Từng xuất hiện trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều, thể hiện triết sống đối lập của tác giả. Dại thực
chất khôn bởi nơi quê mùa con người mới được sống an nhiên, thanh thản.
Khôn thực chất dại bởi chốn quan trường con người không được sống chính
nh.
+ “Nơi vắng vẻ”: Tượng trưng cho chốn yên tĩnh, thưa người,nhịp sống
yên bình, êm ả, hòa hợp với thiên nhiên.
+ “Chốn lao xao”: Tượng trưng cho chốn ồn ào, đông đúc huyên náo, tấp
nập, cuộc sống bồ, bon chen, giành giật, đố kị. đây chỉ chốn quan trường.
Ta thấy được vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ cùng với quan niệm sống “lánh
đục về trong”, từ bỏ danh lợi của ông. Nhà thơ thể hiện thái độ tự tin vào sự lựa
chọn của bản thân hóm hỉnh mỉa mai quan niệm sống bon chen của thiên hạ.
3.
Hai câu luận: Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm chốn quê nhà.
- Sự xuất hiện của cả bốn mùa trong năm: Xuân, hạ, thu, đông. Thể hiện tác giả
cuộc sống gắn bó, hài hòa với tự nhiên của tác giả.
- Việc ăn uống: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Đây đều những n ăn thôn
quê dân giã, giản dị nguồn gốc t nhiên, thể tự cung tự cấp.
- Chuyện sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Nói lên thói quen sinh hoạt hòa
mình với tự nhiên, thoải mái, sự kết nối, quấn quýt giữa con người với thiên
nhiên.
- Cách ngắt nhịp 4/3 rất nhịp nhàng cùng kết hợp với cách điệp cấu trúc câu, gợi
nên thư thái nhip nhàng, thong thả của chính tác giả.
Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của thi nhân tuy đạm bạc rất thanh cao.
Đạm bạc những thức ăn q mùa dân như măng trúc, giá đỗ, sinh hoạt
cũng như mọi người, cũng tắm hồ, tắm ao nhưng cuộc sống này không hề khắc
khổ, đạm bạc thanh nhã, chan hoà với thiên nhiên
4.
Hai câu kết: Triết lí sống nhàn
- Sử dụng điển tích giấc mộng đêm hòe: Coi phú quý tựa như một giấc chiêm
bao
Thể hiện sự tự thức tỉnh, tự cảnh tỉnh mình đời, khuyên mọi người nên
xem nhẹ vinh hoa phù phiếm.
- Động từ “nhìn xem”: đậm thế đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Triết sống Nhàn: Biết từ bỏ những thứ vinh hoa p phiếm đó chỉ một
giấc mông, khi con người nhắm mắt xuôi tay mọi thứ trử nên nghĩa, chỉ
tâm hồn, nhân cách mới tồn tại mãi mãi.
Thể hiện vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Coi khinh danh lợi, cốt
cách thanh cao, tâm hồn trong sáng.
II.
Nghệ thuật
- Ngôn ngữ mộc mạc, trong sáng, giản dị, dễ hiểu.
- Hình ảnh t gần gũi, khước từ hình ảnh ước lệ của văn học trung đại
- Sự phá cách trong thể t Đường luật, sử dụng sáng tạo điển tích điển cố
nhiều biện pháp tu từ
- Nhịp t chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng, hóm hỉnh
III.
Đánh giá, mở rộng
- Bài thơ bức chân dung của Bạch Vân với cuộc sống ẩn dật, thanh nhàn
xa dời danh lợi với chốn quan trường ganh đua, thối nát; sống hòa hợp với thiên
nhiên, cây cỏ giữ gìn cốt cách, tâm hồn mình trong sạch, thanh cao.
- Đặt trong hoàn cảnh khi hội phong kiến đang những biểu hiện suy vi,
con người ta ganh đua bị cuốn trong vòng danh lợi đấu đá, quan điểm sống
nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang những yếu tố tích cực. Đó cách một con
người trung trực, thẳng thắn, yêu nước lựa chọn để giữ nhân cách của mình
trong hội chao đảo, xuống dốc về đạo đức.
- Liên hệ: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết sống Nhàn n thể hiện sâu sắc
trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,..
C.Kết bài
Khái quát giá trị nội dung giá trị nghệ thuật của bài thơ: Với cách sử dụng
ngôn ngữu giản dị giàu triết cùng cách nói đối lập, bài thơ đã dựng nên
chân dung cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm: hào hợp với thiên
nhiên, cốt cách thanh cao, không màng danh lợi.
Bài m
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ
phong kiến Việt Nam: - Mạc xưng hùng, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến,
ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa
bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo tốt đẹp qua những bài t giàu chất
triết về nhân tình thế thái, bằng thái đ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn bài
thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn thanh
cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen danh lợi:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu cho ta về cuộc sống nhàn tản am Bạch
Vân, tránh xa khỏi nơi thị phi, mặc kệ người đời:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui t nào”
Cách dùng số t danh từ trong câu thơ mở đầu đem đến cảm nhận về
Nguyễn Bỉnh Khiêm như một lão nông tri điền thực thụ. Dụng cụ mai, quốc, cần
câu đều được chuẩn bị sẵn sàng, chu đáo, kết hợp với số từ “một” gợi thế
sẵn sàng, ung dung, nhàn tản của con người muốn đã tìm thấy niềm vui trong
cảnh nhàn. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành
hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy, điểm cho cái thơ
thẩn khác đời của nhà thơ thôi.. Đằng sau những liệt của nhà thơ, ta nhận
ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân n của một con
người chọn cuộc đời ẩn làm l sống của riêng mình. câu t thứ hai, cụm từ
“thơ thẩn” trạng thái thanh nhàn trong tâm, buông bỏ lợi danh, kết hợp với
cụm từ phủ định “dầu ai” nghĩa mặc kệ cho ai chọn lối sống nào đã thể hiện
sự đối lập trong tâm thế, trong sự lựa chọn lối sống của nhà thơ. Mặc kệ người
chìm đắm trong thú vui xa hoa nơi lầu son gác tía, cầu cho mình danh lợi phù
phiếm chốn phồn hoa đô thị, ta vẫn nhàn tản tự do sống cuộc sống thanh bạch
giữa núi rừng bạt ngàn. Đây chính cuộc sống ung dung, tự tại, giản dị, không
chạy đua theo người đời trong triết nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng
Trình đã nhìn thấy t cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả,
một triết nhân sinh vững bền.
Sang đến hai câu thực, ta thấy “nhàn” vượt lên trên danh lợi để giữ lấy
cốt cách thanh cao:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao
Hai câu thực một cách phân biệt ràng giữa nhà thơ với những ai,
những vui t nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời.
Nhà thơ sử dụng hép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: vắng vẻ đối lập với
lao xao, ta đối lập với người, dại đối lập với khôn. Nơi vắng vẻ nơi mình thích
thú, được sống thoải mái, khác xa chốn quan trường hiểm c vinh liền nhục.
Đó nơi không chuyện cầu cạnh, bon chen, nơi thiên nhiên tươi xanh,
mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. Chốn lao xao chốn cửa quyền trống
giong cờ mở, đường hoạn l tấp nập ngựa xe, chốn chợ lợi đường danh
huyên náo, nơi con người chen chúc đẩy, giẫm đạp lên nhau để giành giật
quyền lợi, nơi nhiều nguy hiểm khôn lường. Còn một bên dại của ta,
một bên khôn của người. Đằng sau những đối cực ấy những ngụ ý tạo thành
phản đ khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ
nhiều lần đã định nghĩa dại - khôn bằng cách nói ngược này “Khôn hiểm độc
khôn dại/Dại vốn hiền lành ấy dại khôn”. Mượn cách nói ấy, nhà t chứng tỏ
được một chỗ đứng cao hơn đối lập với bọn người mờ mắt bụi p hoa
giữa chốn lao xao. Hai động từ “tìm”, “đến” cũng những từ ý nghĩa mấu
chốt trong câu thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm không chọn một lối đi dễ dàng, một con
đường dương quang chói lọi như người đời, chấp nhận đi trên cây cầu độc
mộc k khăn, độc để giữ được sự trong sạch. Nhưng không giống lối nói
ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một mình ta say” đầy u
uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng l sâu cay,
phê phán vào cả một hội chạy theo danh lợi, bằng thế của một bậc chính
nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại.
Trở về với cuộc sống thuần phác, chân chất, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục
cụ thể hóa bằng một đời sống tinh thần l lối sinh hoạt hòa hợp với thiên
nhiên. Ông nương theo quy luật đất trời, thuận theo thời tiết bốn mùa:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn g
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong vinh hoa, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng
một tấm lòng a hợp với tự nhiên. Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt giản dị
không kém phần t vị nơi thôn với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhà t
nói về chuyện sinh hoạt hằng ngày như chuyện ăn, chuyện tắm, tuy cực đơn
nhưng thích thú chỗ mùa nào cũng sẵn, chẳng phải nhọc công tìm kiếm về
mặt tinh thần, cuộc sống giản dị như thế cho phép con người được tự do, tự tại,
không cần phải luồn cúi, cầu cạnh kẻ khác, không cần phải theo đuổi công danh,
phú quý, không bị bó, ràng buộc vào bất cứ khuôn phép nào.Nhưng gạt sang
một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ đích thực của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với t nhiên một cách sang trọng bằng tất c cái
hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng
trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao
của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên
một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiện lương của mình.
Nhãn quan tỏ tường i nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung
nhất hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” để “tỉnh” ông tỉnh táo
hơn bao giờ hết:
“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao."
Thi nhân đã nhắc đến giấc mộng dưới cây hòe của Thuần Vu Phần để
thức tỉnh một chân lí: của cải, vật chất chỉ ảo mộng, như một giấc chiêm
chiêm bao, bất chợt đến rồi lại bất chợt đi. Phải trải qua tất cả cảnh đời, trường
đời như thế rồi. Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy
vốn gần với đạo Lão - Trang, phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời
đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy
theo công danh phú quý vốn ông căm ghét lên án trong rất nhiều bài t về
nhân tình thế thái của mình “Ơ thể mới hay người bạc ác/Giàu thì tìm đến, k
thì lui” (Thói đời) Phú q đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ
cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau sống. Bởi thế,
thể hiểu thái độ nhìn xem p quý tựa chiêm bao cũng cách nhà thơ chọn
lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc thanh
cao của người bình dân đáng quý đáng trọng đem lại sự thanh thản cũng n
giữ cho nhàn cách không bị hoen vẩn đục trong hội chạy theo thế lực kim
tiền. Cội nguồn triết của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống
lành vững tốt đẹp của nhân dân.
“Nhàn” bài t không chỉ thành công về nội dung mà còn gây ấn tượng
về nghệ thuật. Bài t sử dụng thể t Thất ngôn bát Đường luật với sự p
cách đầy độc đáo, phát huy cao độ các phép đối tạo nên sự đăng đối, cân xứng
cho từng câu, từng cặp câu. Hình ảnh thơ gần gũi, khước từ hình ảnh ước l của
văn học trung đại. Ngôn ngữ tiếng Việt mộc mạc, giản dị nhưng rất giàu sức gợi.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình triết sâu xa đã tạo nên sự thâm
trầm, sâu lắng cho bài thơ, giọng điệu vẻ tếu táo, vui đùa, tự nhận mình
"ta dại" còn "người khôn". Nhịp thơ chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng,
hóm hỉnh. Tất cả đã tạo n thành ng cho tác phẩm”Nhàn”, giúp tác phẩm còn
sống mãi giữa dòng chảy thời gian,
Nhàn chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại, một nét
tưởng văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt của tầng lớp trí thức.
Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, điều kiện
dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ, đem lại những thú vui lành mạnh cho con người,
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn
tránh vất vả, cực nhọc v thể chất, quay lưng với hội, chỉ lo cho cuộc sống
nhàn tản của bản thân, ông cho rằng sống nhàn xa lánh nơi quyền quý, danh
lợi ông gọi chốn lao xao. Nhàn sống hòa hợp với tự nhiên, về với tự
nhiên để tu tâm dưỡng tính. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân không nhàn tâm,
lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh
hội phong kiến đương thời đã những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan
niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.
Như vậy với 8 câu thơ, bài t “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến
người đọc ngưỡng mộ khâm phục cốt cách, tinh thần phong thái của ông.
Bài thơ đã bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc
sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một hội phong kiến trên
con đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của
một con người chân chính.
Đề 3: Triết lý, quan điểm sống “Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài
Nhàn
I.
Mở bài
Giới thuyết v quan niệm sống “nhàn” trong văn học trung đại: Nhàn triết
sống, phạm trù tưởng k phổ biến của con người trung đại, mỗi người lại
cách thể hiện riêng.
Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm sống Nhàn của ông:
Sống thuận theo lẽ tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, cuộc sống bình dị, lánh
đục về trong, xem nhẹ vinh hoa phú quý, sống trong sạch.
II.
Thân i
1.
Nội dung
a, Nhan đề.
“Nhàn” nghĩa nhàn hạ, rỗi rãi, thảnh thơi. Đây là trạng thái khi con người
ít hoặc không việc phải làm, phải suy nghĩ.
“Nhàn: được biểu hiện hai phương diện: Nhàn thân sự rảnh rỗi chân tay,
thể xác nhàn tâm sự thư thái, thảnh thơi trong tâm hồn.
Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn tâm, chứ không
phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi (trong bài Cảnh ngày hè) nhàn thân chứ
không nhàn tâm.
b, Nhàn sự thảnh thơi, ung dung trong lòng với t điền viên
Những hình ảnh bình dị, thân thuộc: mai, quốc, cần câu: Chỉ nhữung công việc
lao động cụ thể của người nông dân quê đào đất, v xới, câu
Số từ “một” được lặp lại kết hợp với phép liệt kê: Thể hiện công việc lao động
bận rộn, vất vả thường xuyên
Câu thơ đầu cho ta biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm quê nhà với
những công việc nặng nhọc, vất vả lấm láp
“Thơ thẩn”: Dáng vẻ ung dung, tự tại
Cụn từ “dầu ai vui thú nào”: Phủ nhận những thú vui đời thường người đời
ganh nhau theo đuổi.
Tâm thế của tác giả: Vui vẻ, xem những công việc nặng nhọc ấy thú vui
điền viên.
Quan niệm sống nhàn: Dù thân bận rộn, cực nhọc nhưng tâm hồn luôn ung
dung, tự tại, thư thái.
c, Nhàn quan niệm sống lánh đục về trong
Phép đối: Ta người, dại khôn, nơi vắng vẻ chốn lao xao: Nhấn mạnh
quan niệm triết sống của tác giả.
Phép ẩn dụ:
+ Nơi vắng vẻ: Chốn làng quê yên bình, tĩnh tại, chốn bình yên của tâm hồn
+ Chốn lao xao: Chốn quan trường bon chen, ngổn ngang tranh giành, đấu đá.
Cách nói ngược: Ta dại người khôn: Cái dại của một nhân cách thanh cao
cái khôn của những con người vụ lợi
Cách nói hóm hỉnh pha chút mỉa mai, vừa để răn mình vừa để dạy đời.
Quan niệm sống nhàn: Xa lánh chốn quan trường với những bon chen danh
lợi, trở về với cuộc sống thôn giản dị, bình yên.
d, Nhàn là sống thuận theo lẽ tự nhiên
Xuất hiện bức tranh 4 mùa: Xuân hạ thu đông: Gợi về thiên nhiên làng
quê Bắc bộ.
Thức ăn: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá: Thức ăn đơn sơ, giản dị, sẵn trong
tự nhiên, mùa nào thức đấy
Sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: Sinh hoạt theo s thay đổi của thiên
nhiên, sống hòa vào cùng thiên nhiên, thanh cao, giản dị.
Cách ngắt nhịp 4/3 rất nhịp nhàng, cùng giọng điệu vui tươi thoải mái: Gợi
nhịp sống thong dong, ung dung.
Quan niệm sống nhàn: Sống thuận theo tự nhiên, hưởng thụ những sẵn
trong thiên nhiên, không mưu cầu, bon chen.
e, Triết lí sống nhàn.
Sử dụng điển tích điển cố Thuần Vu Phần: Nhận ra p quý chỉ giấc mộng
chiêm bao không thật.
Động từ nhìn xem”: Tâm thế ngẩng cao đầu, đứng cao hơn người đầy tự tin
của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Quan niệm sống nhàn: Coi vinh hoa phú quý chỉ giấc mộng phù du, cái tồn
tại duy nhất nhân cách, tâm hồn của con người.
2.
Nghệ thuật
- Ngôn ngữ mộc mạc, trong sáng, giản dị, dễ hiểu.
- Hình ảnh t gần gũi, khước từ hình ảnh ước lệ của văn học trung đại
- Sự phá ch trong thể thơ Đường luật, sử dụng sáng tạo điển ch điển cố
nhiều biện pháp tu từ
- Nhịp thơ chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng, hóm hỉnh
3.
Đánh giá, m rộng
- Bài thơ bức chân dung của Bạch Vân với cuộc sống ẩn dật, thanh nhàn
xa dời danh lợi với chốn quan trường ganh đua, thối nát; sống hòa hợp với thiên
nhiên, cây cỏ giữ gìn cốt cách, tâm hồn mình trong sạch, thanh cao.
- Liên hệ: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết sống Nhàn n thể hiện sâu sắc
trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,..
- Đưa ra bài học cho con người: Đừng đua chen theo vòng danh lợi hãy tìm
đến cuộc sống thành thơi, thanh thản.
III.
Kết i
Khái quát triết sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bài m
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ
phong kiến Việt Nam: - Mạc xưng hùng, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến,
ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa
bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo tốt đẹp qua những bài t giàu chất
triết về nhân tình thế thái, bằng thái đ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn bài
thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn thanh
cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen danh lợi:
“Một mai, một cuốc, một cần u,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Trong văn học trung đại: Nhàn triết sống, phạm trù tưởng khá
phổ biến của con người trung đại, mỗi người lại cách thể hiện riêng. Người
soạn sách giáo khoa đã để nhan đề bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Nhàn”
bởi đây quan niệm, triết quan trọng xuyên suốt bài thơ. “Nhàn” nghĩa
nhàn hạ, rỗi rãi, thảnh thơi. Đây trạng thái khi con người ít hoặc không
việc phải làm, phải suy nghĩ. Nhàn thường được biểu hiện hai phương
diện: nhàn thân sự rảnh rỗi chân tay, thể xác nhàn tâm sự thư thái, thảnh
thơi trong tâm hồn. Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn
tâm, chứ không phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi (trong bài Cảnh ngày hè)
nhàn thân chứ không nhàn tâm.
Bài thơ “Nhàn” ta đang nói đã được mở đầu bằng một giọng hồn nhiên rất
gây ấn tượng, diễn tả nhàn sự thảnh thơi, ung dung trong lòng với thú điền
viên:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui t nào.”
Ta cảm tưởng n thấy trước mắt hình ảnh nhà t đang chuẩn bị mai,
cuốc, cần câu đi ra đồng. Kiểu ngắt nhịp 2/2/3 cùng việc lặp liên tiếp số đếm
một câu thứ nhất gây ấn tượng rất về một tâm trạng rộn ràng, vui sướng
cùng với sự bận rộn nghênh ngô rất đỗi "trẻ thơ” - cái trẻ thơ của người đạt
đạo. Quả thật nhà thơ vui sướng được làm cái mình thích, thấy cái thích
của mình một g trị hiển nhiên để đánh giá được nó, người ta không thể
vận dụng những tiêu chí phàm tục của thiên hạ. Từ một” được nhân ba lần như
muốn dừng lên một cõi tồn tại riêng đầy sinh thú, thật đáng sống, khiến một khi
đã hòa mình vào đó nhà thơ dám chấp tất cả, dầu ai vui thú nào. Tính chất của
lối sống chính cõi tồn tại này đòi hỏi đã được thâu tóm trong từ thơ thẩn với
chút thoáng "khiêu khích" và hàm ý tự tôn - tự tôn theo một cách riêng gắn liền
với việc cố ý hay giả vờ đánh giá thấp mình.
Đến hai câu thực, ý tự tôn được thể hiện hơn thông qua sự đối lập giữa
ta người trên vấn đề xác định đích nhắm tới của cuộc đời, nhàn được coi
quan niệm sống “lánh đục về trong”:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Cùng với sự đối lập ta - người sự đối lập dại - khôn, ta dại người
khôn. Bề ngoài, vấn đề dại khôn vẻ đã được nhìn nhận thuận theo cách nhìn
nhận sự việc của người đời, nhưng thực chất đã được soi chiếu từ một góc độ
mới. Nói cách khác, nhà thơ đã mượn các từ “dại”, “khôn” sẵn rồi thay đổi
nội hàm của chúng, mục đích để khơi dậy sự đối thoại hay ý thức phản tỉnh
người đọc. "Chứng kiến" cung cách ng xử của nhà thơ, người ta hẳn phải nhận
ra rằng nhiều điều cần được suy nghĩ lại. Tại sao sau khi đã thấy cái dại
của bản thân, nhà thơ vẫn cứ khăng khăng giữ lại cái dại ấy "nhường" hẳn cái
khôn cho thiên hạ? Ý thức của nhà thơ, tưởng thể diễn dịch ra là: ừ, nếu cho
việc tìm nơi vắng vẻ là dại thì ta xin cứ dại, ta không thể nào hòa được vào chốn
lao xao, nơi con người khả năng bị nhiễm bẩn, không còn giữ được sự trong
sạch t chủ... Đối lập với cụm từ chốn lao xao được hiểu theo nghĩa n trên,
cụm từ nơi vắng vẻ cũng mang một nghĩa khác với nghĩa thông thường. Nơi
vắng vẻ môi trường sống thuần khiết, đó con người không chỉ được nhàn
nhã quan trọng hơn được sống với mình, điều kiện để tu tâm dưỡng
tính, để tìm được sự hòa hợp với tự nhiên, tìm tới cái t nhiên. Nơi vắng vẻ
không nhất thiết phải một vùng trời đất sẵn do thiên nhiên tạo ra. Nhiều khi,
một không gian ước lệ do tự ta xác định cho mình, bằng thái độ của mình.
Ai cũng có thể sống nhàn, m được t nhàn. Nhàn hoàn toàn không phải một
xa xỉ phẩm chỉ dành cho những kẻ điều kiện tìm đến non xanh nước biếc.
Ngay giữa cuộc đời phồn tạp, cái nhàn vẫn thể đến cùng người thực sự muốn
nhàn biết cách sống nhàn.
Trong hai câu t luận, cuộc sống vui thú điềm viên được khắc họa nét,
đồng thời triết “nhàn” được thể hiện như việc thuận theo tự nhiên:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng
một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân
Hạ Thu Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh k đất trời để gột rửa bao
lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu
biểu cho quan niệm “độc thiện kỳ thân” của các nhà nho, đồng thời nét gần
gũi với triết “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang
một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ đích thực của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với t nhiên một cách sang trọng bằng tất c cái
hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng
trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao
của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên
một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình.
Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự
khẳng định:
“Rượu, đến cội y, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Hai câu thơ cuối sử dụng điển Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ
dưới gốc cây hòe, thấy mình bay đến Đại Hòe An quốc, được quốc vương
đất ấy cho làm quận thú Nam Kha, tỉnh dậy thấy mình nằm trơ khấc dưới cành
hòe phía nam, bên cạnh tổ kiến ch một con kiến chúa. Cái điển ấy gợi những
ý nghĩa bi quan về cuộc đời - cuộc đời chẳng khác một giấc mộng. Bởi thế,
thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng cách nhà thơ chọn lựa
con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc thanh cao
của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ
cho nhân cách không bị hoen vẩn đục trong hội chạy theo thế lực kim tiền.
Cội nguồn triết của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành
vững tốt đẹp của nhân dân.Có nhiều cách triết v chữ nhàn. Cách của Nguyễn
Bỉnh Khiêm một trong s đó. Bài thơ Nhàn đã được viết ra với nỗi lòng nhiều
trăn trở, với i tâm chưa thực sự nhàn. Nghịch thay, với toàn bộ đặc điểm đó,
lại tác dụng lớn trong việc hướng người ta tới miền thanh tĩnh của tâm hồn,
cũng nghĩa bồi đắp thêm cho con người ý thức tu thân.
“Nhàn” bài thơ không chỉ thành công về nội dung còn gây ấn tượng
về nghệ thuật. Bài t sử dụng thể t Thất ngôn bát Đường luật với sự p
cách đầy độc đáo, phát huy cao độ các phép đối tạo nên sự đăng đối, cân xứng
cho từng câu, từng cặp câu. Hình ảnh thơ gần gũi, khước từ hình ảnh ước lệ của
văn học trung đại. Ngôn ngữ tiếng Việt mộc mạc, giản dị nhưng rất giàu sức gợi.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình triết sâu xa đã tạo nên sự thâm
trầm, sâu lắng cho bài thơ, giọng điệu vẻ tếu táo, vui đùa, tự nhận mình
"ta dại" còn "người khôn". Nhịp t chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng,
hóm hỉnh. Tất cả đã tạo nên thành công cho tác phẩm ”Nhàn”, giúp tác phẩm
còn sống mãi giữa dòng chảy thời gian,
Nhàn chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại, một nét
tưởng văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt của tầng lớp t thức.
Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, điều kiện
dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ, đem lại những thú vui lành mạnh cho con người,
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn
tránh vất vả, cực nhọc v thể chất, quay lưng với hội, chỉ lo cho cuộc sống
nhàn tản của bản thân, ông cho rằng sống nhàn xa lánh nơi quyền quý, danh
lợi ông gọi chốn lao xao. Nhàn sống hòa hợp với tự nhiên, về với tự
nhiên để tu tâm dưỡng tính. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân không nhàn tâm,
lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh
hội phong kiến đương thời đã những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan
niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.
Như vậy với 8 câu thơ, bài t “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến
người đọc ngưỡng mộ khâm phục cốt cách, tinh thần phong thái của ông.
Bài thơ đã bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc
sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một hội phong kiến trên
con đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của
một con người chân chính.

Preview text:

Đề 1: Cảm nhận bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm A. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và tập thơ “Bạch Vân quốc ngữ thi
tập”: Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn nhất Việt Nam thế kỉ XVI với những
sáng tác ghi dấu mốc lớn trên con đường phát triển lịch sử văn học. “Bạch vân
quốc ngữ thi tập là tập thơ Nôm nổi tiếng của ông.
- Giới thiệu bài thơ “Nhàn” (xuất sứ, hoàn cảnh sáng tác, nội dung): là bài thơ
Nôm số 73 trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”, làm khi tác giả cáo quan về ở
ẩn, nói về cuộc sống thanh nhàn nơi thôn dã và triết lí sống của tác giả. - Trích dẫn B. Thân bài I. Phân tích nội dung:
1. ​ Hai câu đề: Vẻ đẹp cuộc sống ở am Bạch Vân
- Mai, quốc, cần câu: Là những dụng cụ lao động cần thiết, quen thuộc của người nông dân.
- Phép liệt kê kết hợp với số từ “một”: Gợi hình ảnh người nông dân đang điểm
lại công cụ làm việc của mình và mọi thứ đã sẵn sàng.
- Nhịp thơ 2-2-3 thong thả đều đặn
→ Tâm thế nhà thơ: Nhà thơ đã chọn một lối sống thanh nhàn trái ngược với lối
sống xô bồ chen chúc bên ngoài. Qua đây, ta cũng thấy được thái độ ngông với
cuộc đời, với thói đời của nhà thơ
- Trạng thái “thơ thẩn”: trạng thái thanh nhàn ở trong tâm, buông bỏ lợi danh
- Cụm từ phủ định “dầu ai”: Mặc kệ cho ai chọn lối sống nào
→Thể hiện sự đối lập trong tâm thế, trong sự lựa chọn lối sống của nhà thơ
- “ai”: Chỉ người đời nói chung, ngoài ra trong bài thơ là để chỉ những người
bon chen trong vòng danh lợi
⇒ Cuộc sống ung dung, tự tại, giản dị, không chạy đua theo người đời trong
triết lí nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2. ​ Hai câu thực: Lối sống và vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ
- Nghệ thuật đối: ta – người, dại – khôn: Nhấn mạnh quan niệm sống mang tính
triết lí, thâm trầm của nhà thơ. - Nghệ thuật thể hiện:
+ Cách nói ngược “Ta dại – người khôn”: Từng xuất hiện trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều, thể hiện triết lý sống đối lập của tác giả. Dại thực
chất là khôn bởi ở nơi quê mùa con người mới được sống an nhiên, thanh thản.
Khôn thực chất là dại bởi chốn quan trường con người không được sống là chính mình.
+ “Nơi vắng vẻ”: Tượng trưng cho chốn yên tĩnh, thưa người,nhịp sống
yên bình, êm ả, hòa hợp với thiên nhiên.
+ “Chốn lao xao”: Tượng trưng cho chốn ồn ào, đông đúc huyên náo, tấp
nập, cuộc sống xô bồ, bon chen, giành giật, đố kị. Ở đây chỉ chốn quan trường.
⇒ Ta thấy được vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ cùng với quan niệm sống “lánh
đục về trong”, từ bỏ danh lợi của ông. Nhà thơ thể hiện thái độ tự tin vào sự lựa
chọn của bản thân và hóm hỉnh mỉa mai quan niệm sống bon chen của thiên hạ.
3. ​ Hai câu luận: Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở chốn quê nhà.
- Sự xuất hiện của cả bốn mùa trong năm: Xuân, hạ, thu, đông. Thể hiện tác giả
có cuộc sống gắn bó, hài hòa với tự nhiên của tác giả.
- Việc ăn uống: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Đây đều là những món ăn thôn
quê dân giã, giản dị và có nguồn gốc tự nhiên, có thể tự cung tự cấp.
- Chuyện sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Nói lên thói quen sinh hoạt hòa
mình với tự nhiên, thoải mái, có sự kết nối, quấn quýt giữa con người với thiên nhiên.
- Cách ngắt nhịp 4/3 rất nhịp nhàng cùng kết hợp với cách điệp cấu trúc câu, gợi
nên thư thái nhip nhàng, thong thả của chính tác giả.
⇒ Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của thi nhân tuy đạm bạc mà rất thanh cao.
Đạm bạc là những thức ăn quê mùa dân dã như măng trúc, giá đỗ, sinh hoạt
cũng như mọi người, cũng tắm hồ, tắm ao nhưng cuộc sống này không hề khắc
khổ, đạm bạc mà thanh nhã, chan hoà với thiên nhiên
4. ​ Hai câu kết: Triết lí sống nhàn
- Sử dụng điển tích giấc mộng đêm hòe: Coi phú quý tựa như một giấc chiêm bao
→ Thể hiện sự tự thức tỉnh, tự cảnh tỉnh mình và đời, khuyên mọi người nên
xem nhẹ vinh hoa phù phiếm.
- Động từ “nhìn xem”: Tô đậm thế đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm
⇒ Triết lí sống Nhàn: Biết từ bỏ những thứ vinh hoa phù phiếm vì đó chỉ là một
giấc mông, khi con người nhắm mắt xuôi tay mọi thứ trử nên vô nghĩa, chỉ có
tâm hồn, nhân cách mới tồn tại mãi mãi.
⇒ Thể hiện vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Coi khinh danh lợi, cốt
cách thanh cao, tâm hồn trong sáng. II. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ mộc mạc, trong sáng, giản dị, dễ hiểu.
- Hình ảnh thơ gần gũi, khước từ hình ảnh ước lệ của văn học trung đại
- Sự phá cách trong thể thơ Đường luật, sử dụng sáng tạo điển tích điển cố và nhiều biện pháp tu từ
- Nhịp thơ chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng, hóm hỉnh
III. Đánh giá, mở rộng
- Bài thơ là bức chân dung của Bạch Vân Cư sĩ với cuộc sống ẩn dật, thanh nhàn
xa dời danh lợi với chốn quan trường ganh đua, thối nát; sống hòa hợp với thiên
nhiên, cây cỏ và giữ gìn cốt cách, tâm hồn mình trong sạch, thanh cao.
- Đặt trong hoàn cảnh khi mà xã hội phong kiến đang có những biểu hiện suy vi,
con người ta ganh đua và bị cuốn trong vòng danh lợi đấu đá, quan điểm sống
nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang những yếu tố tích cực. Đó là cách một con
người trung trực, thẳng thắn, yêu nước lựa chọn để giữ nhân cách của mình
trong xã hội chao đảo, xuống dốc về đạo đức.
- Liên hệ: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết lí sống Nhàn còn thể hiện sâu sắc
trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,. C.Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ: Với cách sử dụng
ngôn ngữu giản dị mà giàu triết lí cùng cách nói đối lập, bài thơ đã dựng nên
chân dung cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm: hào hợp với thiên
nhiên, cốt cách thanh cao, không màng danh lợi. Bài làm
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ
phong kiến Việt Nam: Lê - Mạc xưng hùng, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến,
ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa
bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất
triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài
thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh
cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu cho ta về cuộc sống nhàn tản ở am Bạch
Vân, tránh xa khỏi nơi thị phi, mặc kệ người đời:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Cách dùng số từ và danh từ trong câu thơ mở đầu đem đến cảm nhận về
Nguyễn Bỉnh Khiêm như một lão nông tri điền thực thụ. Dụng cụ mai, quốc, cần
câu đều có được chuẩn bị sẵn sàng, chu đáo, kết hợp với số từ “một” gợi tư thế
sẵn sàng, ung dung, nhàn tản của con người muốn và đã tìm thấy niềm vui trong
cảnh nhàn. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành
hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy, tô điểm cho cái thơ
thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận
ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con
người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Ở câu thơ thứ hai, cụm từ
“thơ thẩn” là trạng thái thanh nhàn ở trong tâm, buông bỏ lợi danh, kết hợp với
cụm từ phủ định “dầu ai” nghĩa là mặc kệ cho ai chọn lối sống nào đã thể hiện
sự đối lập trong tâm thế, trong sự lựa chọn lối sống của nhà thơ. Mặc kệ người
chìm đắm trong thú vui xa hoa nơi lầu son gác tía, cầu cho mình danh lợi phù
phiếm chốn phồn hoa đô thị, ta vẫn nhàn tản tự do sống cuộc sống thanh bạch
giữa núi rừng bạt ngàn. Đây chính là cuộc sống ung dung, tự tại, giản dị, không
chạy đua theo người đời trong triết lí nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng
Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả,
một triết lí nhân sinh vững bền.
Sang đến hai câu thực, ta thấy “nhàn” là vượt lên trên danh lợi để giữ lấy cốt cách thanh cao:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai,
những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời.
Nhà thơ sử dụng hép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: vắng vẻ đối lập với
lao xao, ta đối lập với người, dại đối lập với khôn. Nơi vắng vẻ là nơi mình thích
thú, được sống thoải mái, khác xa chốn quan trường hiểm hóc vinh liền nhục.
Đó là nơi không có chuyện cầu cạnh, bon chen, là nơi thiên nhiên tươi xanh,
mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. Chốn lao xao là chốn cửa quyền trống
giong cờ mở, là đường hoạn lộ tấp nập ngựa xe, là chốn chợ lợi đường danh
huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để giành giật
quyền lợi, là nơi có nhiều nguy hiểm khôn lường. Còn có một bên là dại của ta,
một bên là khôn của người. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành
phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ
nhiều lần đã định nghĩa dại - khôn bằng cách nói ngược này “Khôn mà hiểm độc
là khôn dại/Dại vốn hiền lành ấy dại khôn”. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ
được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa
giữa chốn lao xao. Hai động từ “tìm”, “đến” cũng là những từ có ý nghĩa mấu
chốt trong câu thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm không chọn một lối đi dễ dàng, một con
đường dương quang chói lọi như người đời, mà chấp nhận đi trên cây cầu độc
mộc khó khăn, cô độc để giữ được sự trong sạch. Nhưng không giống lối nói
ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một mình ta say” đầy u
uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay,
phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính
nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại.
Trở về với cuộc sống thuần phác, chân chất, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục
cụ thể hóa bằng một đời sống tinh thần và lề lối sinh hoạt hòa hợp với thiên
nhiên. Ông nương theo quy luật đất trời, thuận theo thời tiết bốn mùa:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong vinh hoa, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng
một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt giản dị mà
không kém phần thú vị nơi thôn dã với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhà thơ
nói về chuyện sinh hoạt hằng ngày như chuyện ăn, chuyện tắm, tuy cực kì đơn
sơ nhưng thích thú ở chỗ mùa nào cũng sẵn, chẳng phải nhọc công tìm kiếm về
mặt tinh thần, cuộc sống giản dị như thế cho phép con người được tự do, tự tại,
không cần phải luồn cúi, cầu cạnh kẻ khác, không cần phải theo đuổi công danh,
phú quý, không bị gò bó, ràng buộc vào bất cứ khuôn phép nào.Nhưng gạt sang
một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái
hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng
trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao
của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên
là một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiện lương của mình.
Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung
nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:
“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao."
Thi nhân đã nhắc đến giấc mộng dưới cây hòe của Thuần Vu Phần để
thức tỉnh một chân lí: của cải, vật chất chỉ là ảo mộng, như một giấc chiêm
chiêm bao, bất chợt đến rồi lại bất chợt đi. Phải trải qua tất cả cảnh đời, trường
đời như thế rồi. Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy
vốn dĩ gần với đạo Lão - Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời
đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy
theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về
nhân tình thế thái của mình “Ơ thể mới hay người bạc ác/Giàu thì tìm đến, khó
thì lui” (Thói đời) Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là
cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bởi thế,
có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn
lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh
cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như
giữ cho nhàn cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim
tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống
lành vững tốt đẹp của nhân dân.
“Nhàn” là bài thơ không chỉ thành công về nội dung mà còn gây ấn tượng
về nghệ thuật. Bài thơ sử dụng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật với sự phá
cách đầy độc đáo, phát huy cao độ các phép đối tạo nên sự đăng đối, cân xứng
cho từng câu, từng cặp câu. Hình ảnh thơ gần gũi, khước từ hình ảnh ước lệ của
văn học trung đại. Ngôn ngữ tiếng Việt mộc mạc, giản dị nhưng rất giàu sức gợi.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và triết lí sâu xa đã tạo nên sự thâm
trầm, sâu lắng cho bài thơ, dù giọng điệu có vẻ tếu táo, vui đùa, tự nhận mình là
"ta dại" còn "người khôn". Nhịp thơ chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng,
hóm hỉnh. Tất cả đã tạo nên thành công cho tác phẩm”Nhàn”, giúp tác phẩm còn
sống mãi giữa dòng chảy thời gian,
Nhàn là chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại, là một nét tư
tưởng và văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức.
Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, có điều kiện
dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ, đem lại những thú vui lành mạnh cho con người,
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn
tránh vất vả, cực nhọc về thể chất, quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống
nhàn tản của bản thân, ông cho rằng sống nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh
lợi mà ông gọi là chốn lao xao. Nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, về với tự
nhiên để tu tâm dưỡng tính. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm,
lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh xã
hội phong kiến đương thời đã có những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan
niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.
Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến
người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông.
Bài thơ đã bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc
sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên
con đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của
một con người chân chính.
Đề 3: Triết lý, quan điểm sống “Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài Nhàn I. Mở bài
– Giới thuyết về quan niệm sống “nhàn” trong văn học trung đại: Nhàn là triết lí
sống, là phạm trù tư tưởng khá phổ biến của con người trung đại, mỗi người lại có cách thể hiện riêng.
– Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và quan niệm sống Nhàn của ông:
Sống thuận theo lẽ tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, cuộc sống bình dị, lánh
đục về trong, xem nhẹ vinh hoa phú quý, sống trong sạch. II. Thân bài 1. Nội dung a, Nhan đề.
– “Nhàn” có nghĩa là nhàn hạ, rỗi rãi, thảnh thơi. Đây là trạng thái khi con người
có ít hoặc không có việc gì phải làm, phải suy nghĩ.
– “Nhàn: được biểu hiện ở hai phương diện: Nhàn thân – sự rảnh rỗi chân tay,
thể xác và nhàn tâm – sự thư thái, thảnh thơi trong tâm hồn.
→ Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn tâm, chứ không
phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi (trong bài Cảnh ngày hè) nhàn thân chứ không nhàn tâm.
b, Nhàn là sự thảnh thơi, ung dung trong lòng với thú điền viên
– Những hình ảnh bình dị, thân thuộc: mai, quốc, cần câu: Chỉ nhữung công việc
lao động cụ thể của người nông dân quê đào đất, vụ xới, câu cá
– Số từ “một” được lặp lại kết hợp với phép liệt kê: Thể hiện công việc lao động
bận rộn, vất vả thường xuyên
→ Câu thơ đầu cho ta biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà với
những công việc nặng nhọc, vất vả lấm láp
– “Thơ thẩn”: Dáng vẻ ung dung, tự tại
– Cụn từ “dầu ai vui thú nào”: Phủ nhận những thú vui đời thường mà người đời ganh nhau theo đuổi.
→ Tâm thế của tác giả: Vui vẻ, xem những công việc nặng nhọc ấy là thú vui điền viên.
⇒ Quan niệm sống nhàn: Dù thân bận rộn, cực nhọc nhưng tâm hồn luôn ung dung, tự tại, thư thái.
c, Nhàn là quan niệm sống lánh đục về trong
– Phép đối: Ta – người, dại – khôn, nơi vắng vẻ – chốn lao xao: Nhấn mạnh
quan niệm và triết lí sống của tác giả. – Phép ẩn dụ:
+ Nơi vắng vẻ: Chốn làng quê yên bình, tĩnh tại, chốn bình yên của tâm hồn
+ Chốn lao xao: Chốn quan trường bon chen, ngổn ngang tranh giành, đấu đá.
– Cách nói ngược: Ta dại – người khôn: Cái dại của một nhân cách thanh cao và
cái khôn của những con người vụ lợi
→ Cách nói hóm hỉnh pha chút mỉa mai, vừa để răn mình vừa để dạy đời.
⇒ Quan niệm sống nhàn: Xa lánh chốn quan trường với những bon chen danh
lợi, trở về với cuộc sống thôn dã giản dị, bình yên.
d, Nhàn là sống thuận theo lẽ tự nhiên
– Xuất hiện bức tranh 4 mùa: Xuân – hạ – thu – đông: Gợi về thiên nhiên làng quê Bắc bộ.
– Thức ăn: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá: Thức ăn đơn sơ, giản dị, có sẵn trong
tự nhiên, mùa nào thức đấy
– Sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: Sinh hoạt theo sự thay đổi của thiên
nhiên, sống hòa vào cùng thiên nhiên, thanh cao, giản dị.
– Cách ngắt nhịp 4/3 rất nhịp nhàng, cùng giọng điệu vui tươi thoải mái: Gợi
nhịp sống thong dong, ung dung.
⇒ Quan niệm sống nhàn: Sống thuận theo tự nhiên, hưởng thụ những gì có sẵn
trong thiên nhiên, không mưu cầu, bon chen. e, Triết lí sống nhàn.
– Sử dụng điển tích điển cố Thuần Vu Phần: Nhận ra phú quý chỉ là giấc mộng chiêm bao không có thật.
– Động từ “nhìn xem”: Tâm thế ngẩng cao đầu, đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm
⇒ Quan niệm sống nhàn: Coi vinh hoa phú quý chỉ là giấc mộng phù du, cái tồn
tại duy nhất nhân cách, tâm hồn của con người. 2. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ mộc mạc, trong sáng, giản dị, dễ hiểu.
- Hình ảnh thơ gần gũi, khước từ hình ảnh ước lệ của văn học trung đại
- Sự phá cách trong thể thơ Đường luật, sử dụng sáng tạo điển tích điển cố và nhiều biện pháp tu từ
- Nhịp thơ chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng, hóm hỉnh
3. Đánh giá, mở rộng
- Bài thơ là bức chân dung của Bạch Vân Cư sĩ với cuộc sống ẩn dật, thanh nhàn
xa dời danh lợi với chốn quan trường ganh đua, thối nát; sống hòa hợp với thiên
nhiên, cây cỏ và giữ gìn cốt cách, tâm hồn mình trong sạch, thanh cao.
- Liên hệ: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết lí sống Nhàn còn thể hiện sâu sắc
trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,.
- Đưa ra bài học cho con người: Đừng đua chen theo vòng danh lợi mà hãy tìm
đến cuộc sống thành thơi, thanh thản. III. Kết bài
– Khái quát triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài làm
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ
phong kiến Việt Nam: Lê - Mạc xưng hùng, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến,
ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa
bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất
triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài
thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh
cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Trong văn học trung đại: Nhàn là triết lí sống, là phạm trù tư tưởng khá
phổ biến của con người trung đại, mỗi người lại có cách thể hiện riêng. Người
soạn sách giáo khoa đã để nhan đề bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là “Nhàn”
bởi đây là quan niệm, là triết lý quan trọng xuyên suốt bài thơ. “Nhàn” có nghĩa
là nhàn hạ, rỗi rãi, thảnh thơi. Đây là trạng thái khi con người có ít hoặc không
có việc gì phải làm, phải suy nghĩ. Nhàn thường được biểu hiện ở hai phương
diện: nhàn thân – sự rảnh rỗi chân tay, thể xác và nhàn tâm – sự thư thái, thảnh
thơi trong tâm hồn. Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn
tâm, chứ không phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi (trong bài Cảnh ngày hè)
nhàn thân chứ không nhàn tâm.
Bài thơ “Nhàn” ta đang nói đã được mở đầu bằng một giọng hồn nhiên rất
gây ấn tượng, diễn tả nhàn là sự thảnh thơi, ung dung trong lòng với thú điền viên:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”
Ta có cảm tưởng như thấy trước mắt hình ảnh nhà thơ đang chuẩn bị mai,
cuốc, cần câu đi ra đồng. Kiểu ngắt nhịp 2/2/3 cùng việc lặp liên tiếp số đếm
một ở câu thứ nhất gây ấn tượng rất rõ về một tâm trạng rộn ràng, vui sướng
cùng với sự bận rộn và nghênh ngô rất đỗi "trẻ thơ” - cái trẻ thơ của người đạt
đạo. Quả thật nhà thơ vui sướng vì được làm cái mình thích, vì thấy cái thích
của mình có một giá trị hiển nhiên mà để đánh giá được nó, người ta không thể
vận dụng những tiêu chí phàm tục của thiên hạ. Từ “một” được nhân ba lần như
muốn dừng lên một cõi tồn tại riêng đầy sinh thú, thật đáng sống, khiến một khi
đã hòa mình vào đó là nhà thơ dám chấp tất cả, dầu ai vui thú nào. Tính chất của
lối sống mà chính cõi tồn tại này đòi hỏi đã được thâu tóm trong từ thơ thẩn với
chút thoáng "khiêu khích" và hàm ý tự tôn - tự tôn theo một cách riêng gắn liền
với việc cố ý hay giả vờ đánh giá thấp mình.
Đến hai câu thực, ý tự tôn được thể hiện rõ hơn thông qua sự đối lập giữa
ta và người trên vấn đề xác định đích nhắm tới của cuộc đời, nhàn được coi là
quan niệm sống “lánh đục về trong”:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
Cùng với sự đối lập ta - người là sự đối lập dại - khôn, ta dại mà người
khôn. Bề ngoài, vấn đề dại khôn có vẻ đã được nhìn nhận thuận theo cách nhìn
nhận sự việc của người đời, nhưng thực chất nó đã được soi chiếu từ một góc độ
mới. Nói cách khác, nhà thơ đã mượn các từ “dại”, “khôn” có sẵn rồi thay đổi
nội hàm của chúng, mục đích là để khơi dậy sự đối thoại hay ý thức phản tỉnh ở
người đọc. "Chứng kiến" cung cách ứng xử của nhà thơ, người ta hẳn phải nhận
ra rằng có nhiều điều cần được suy nghĩ lại. Tại sao sau khi đã thấy rõ cái dại
của bản thân, nhà thơ vẫn cứ khăng khăng giữ lại cái dại ấy và "nhường" hẳn cái
khôn cho thiên hạ? Ý thức của nhà thơ, tưởng có thể diễn dịch ra là: ừ, nếu cho
việc tìm nơi vắng vẻ là dại thì ta xin cứ dại, ta không thể nào hòa được vào chốn
lao xao, nơi con người có khả năng bị nhiễm bẩn, không còn giữ được sự trong
sạch và tự chủ. . Đối lập với cụm từ chốn lao xao được hiểu theo nghĩa như trên,
cụm từ nơi vắng vẻ cũng mang một nghĩa khác với nghĩa thông thường. Nơi
vắng vẻ là môi trường sống thuần khiết, ở đó con người không chỉ được nhàn
nhã mà quan trọng hơn là được sống với mình, có điều kiện để tu tâm dưỡng
tính, để tìm được sự hòa hợp với tự nhiên, tìm tới cái tự nhiên. Nơi vắng vẻ
không nhất thiết phải là một vùng trời đất có sẵn do thiên nhiên tạo ra. Nhiều khi,
nó là một không gian ước lệ do tự ta xác định cho mình, bằng thái độ của mình.
Ai cũng có thể sống nhàn, tìm được thú nhàn. Nhàn hoàn toàn không phải là một
xa xỉ phẩm chỉ dành cho những kẻ có điều kiện tìm đến non xanh nước biếc.
Ngay giữa cuộc đời phồn tạp, cái nhàn vẫn có thể đến cùng người thực sự muốn
nhàn và biết cách sống nhàn.
Trong hai câu thơ luận, cuộc sống vui thú điềm viên được khắc họa rõ nét,
đồng thời triết lý “nhàn” được thể hiện như việc thuận theo tự nhiên:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng
một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân
– Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao
lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu
biểu cho quan niệm “độc thiện kỳ thân” của các nhà nho, đồng thời có nét gần
gũi với triết lí “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang
một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái
hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng
trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao
của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên
là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình.
Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:
“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Hai câu thơ cuối có sử dụng điển Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ
dưới gốc cây hòe, mơ thấy mình bay đến Đại Hòe An quốc, được quốc vương
đất ấy cho làm quận thú Nam Kha, tỉnh dậy thấy mình nằm trơ khấc dưới cành
hòe phía nam, bên cạnh tổ kiến chỉ có một con kiến chúa. Cái điển ấy gợi những
ý nghĩa bi quan về cuộc đời - cuộc đời chẳng khác gì một giấc mộng. Bởi thế, có
thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa
con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao
của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ
cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền.
Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành
vững tốt đẹp của nhân dân.Có nhiều cách triết lí về chữ nhàn. Cách của Nguyễn
Bỉnh Khiêm là một trong số đó. Bài thơ Nhàn đã được viết ra với nỗi lòng nhiều
trăn trở, với cái tâm chưa thực sự nhàn. Nghịch lí thay, với toàn bộ đặc điểm đó,
nó lại có tác dụng lớn trong việc hướng người ta tới miền thanh tĩnh của tâm hồn,
cũng có nghĩa là bồi đắp thêm cho con người ý thức tu thân.
“Nhàn” là bài thơ không chỉ thành công về nội dung mà còn gây ấn tượng
về nghệ thuật. Bài thơ sử dụng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật với sự phá
cách đầy độc đáo, phát huy cao độ các phép đối tạo nên sự đăng đối, cân xứng
cho từng câu, từng cặp câu. Hình ảnh thơ gần gũi, khước từ hình ảnh ước lệ của
văn học trung đại. Ngôn ngữ tiếng Việt mộc mạc, giản dị nhưng rất giàu sức gợi.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và triết lí sâu xa đã tạo nên sự thâm
trầm, sâu lắng cho bài thơ, dù giọng điệu có vẻ tếu táo, vui đùa, tự nhận mình là
"ta dại" còn "người khôn". Nhịp thơ chậm, thong thả, giọng điệu nhẹ nhàng,
hóm hỉnh. Tất cả đã tạo nên thành công cho tác phẩm ”Nhàn”, giúp tác phẩm
còn sống mãi giữa dòng chảy thời gian,
Nhàn là chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại, là một nét tư
tưởng và văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức.
Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, có điều kiện
dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ, đem lại những thú vui lành mạnh cho con người,
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn
tránh vất vả, cực nhọc về thể chất, quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống
nhàn tản của bản thân, ông cho rằng sống nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh
lợi mà ông gọi là chốn lao xao. Nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, về với tự
nhiên để tu tâm dưỡng tính. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm,
lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh xã
hội phong kiến đương thời đã có những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan
niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.
Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến
người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông.
Bài thơ đã bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc
sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên
con đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của
một con người chân chính.
Document Outline

  • Đề 1: Cảm nhận bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiê
  • I. Phân tích nội dung:
  • II. Nghệ thuật
  • C.Kết bài
  • Bài làm
  • Đề 3: Triết lý, quan điểm sống “Nhàn của Nguyễn Bỉ
  • 2. Nghệ thuật
  • III.Kết bài
  • Bài làm