-
Thông tin
-
Quiz
Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài | Ngữ Văn 12
Trên cánh đồng văn chương Việt Nam, có nhà văn độc canh bằng một loại thể. Tiêu biểu cho khuynh hướng này phải kể đến nhà văn Kim Lân – nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với cuộc sống nông thôn thuần hậu (nói như Nguyên Hồng) lại có nhà văn thâm canh tăng vụ bằng nhiều loại thể. Tiêu biểu ta phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Tính đến nay sự nghiệp của Tô Hoài đã già nửa thế kỷ. Ông là tác giả của khoảng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo với nhiều thể loại phong phú và đa dạng. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 12 634 tài liệu
Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài | Ngữ Văn 12
Trên cánh đồng văn chương Việt Nam, có nhà văn độc canh bằng một loại thể. Tiêu biểu cho khuynh hướng này phải kể đến nhà văn Kim Lân – nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với cuộc sống nông thôn thuần hậu (nói như Nguyên Hồng) lại có nhà văn thâm canh tăng vụ bằng nhiều loại thể. Tiêu biểu ta phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Tính đến nay sự nghiệp của Tô Hoài đã già nửa thế kỷ. Ông là tác giả của khoảng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo với nhiều thể loại phong phú và đa dạng. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 12 634 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:










Tài liệu khác của Ngữ Văn 12
Preview text:
SỨC SỐNG TIỀM TÀNG CỦA NHÂN VẬT MỊ
🌺Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài. 🌺Bài làm:
Trên cánh đồng văn chương Việt Nam, có nhà văn độc canh bằng một
loại thể. Tiêu biểu cho khuynh hướng này phải kể đến nhà văn Kim Lân – nhà
văn cả đời đi về với đất, với người, với cuộc sống nông thôn thuần hậu (nói như
Nguyên Hồng) lại có nhà văn thâm canh tăng vụ bằng nhiều loại thể. Tiêu biểu
ta phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Tính đến nay sự nghiệp của Tô Hoài đã già nửa
thế kỷ. Ông là tác giả của khoảng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo với nhiều
thể loại phong phú và đa dạng. Nhưng nhắc đến Tô Hoài trước Cách mạng
tháng Tám, người yêu văn không thể không nhắc tới "Dế mèn phiêu lưu kí"; sau
Cách mạng tháng Tám với tập "Truyện Tây Bắc" gồm ba truyện ngắn: "Cứu đất
cứu Mường", "Mường Giơn giải phóng" và "Vợ chồng A Phủ". Những năm gần
đây người ta lại xôn xao nhắc đến ông với "Cát bụi chân ai" và tiểu thuyết "Ba
người khác". Đến nay "Vợ chồng A Phủ" vẫn là cái mốc thách thức của nhà văn
Tô Hoài. Truyện được giải thưởng văn nghệ 1954-1955 là một truyện ngắn xuất
sắc viết về đề tài miền núi Tây Bắc. Tác phẩm được đưa vào trong chương trình
giảng dạy như một kiệt tác của Tô Hoài. Truyện xoay quanh cuộc đời của người
con gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp nết na được Tô Hoài phát hiện và thể hiện với
sức sống tiềm tàng bất diệt. Đó là Mị – nhân vật chính trong tác phẩm này.
Thông qua sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài bộc lộ là một nhà văn nhân đạo,
nhân văn, sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sê- khốp đã từng nói: "Một người
nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy". Và Tô Hoài là một nhà văn như thế.
Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tô
Hoài sáng tác theo xu hướng hiện thực, thiên về phản ánh những sự thật của
cuộc sống đời thường trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy chất thơ,
bộc lộ vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với
những phong tục tập quán độc đáo của nhiều vùng đất khác nhau, có sự gần gũi,
gắn bó với cuộc sống và con người miền núi khiến những tác phẩm viết về đề
tài miền núi trở thành mảng sáng tác quan trọng và có giá trị của Tô Hoài.
Truyện ngắn Vợ chồng A phủ được sáng tác năm 1952 in trong tập truyện Tây
Bắc (1953). Vợ chồng A phủ không chỉ là truyện ngắn hay nhất trong tập
Truyện Tây Bắc nói riêng, trong mảng sáng tác của Tô Hoài về đề tài miền núi
nói chung mà còn là một tác phẩm có giá trị của văn xuôi Việt Nam hiện đại khi
phản ánh chân thực và sinh động con đường của nhân dân miền núi cao Tây Bắc đi theo cách Mạng.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi,
Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, trai làng vì mê tiếng sao
mà ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Sức
quyến rũ mạnh mẽ của tiếng sáo cho thấy cái tài và cái tình của người thổi sáo.
Có lẽ, Mị đã gửi bao tình cảm, biết bao khát khao vào tiếng sáo ấy khiến vẻ đẹp
trong tâm hồn nhạy cảm, trong trái tim thiết tha yêu sống của cô đã thông qua
tiếng sáo mà làm rung động mê đắm lòng người. Mị là người con gái có tính
cách mạnh mẽ, tự chủ. Cũng như nhiều cô gái khác, Mị khao khát yêu và có
người yêu theo sự lựa chọn của trái tim mình. Trước món nợ của cha mẹ và ý
định bắt Mị về làm dâu gạt nợ của nhà thống lí, Mị tha thiết xin được ở nhà
cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ, Mị khóc xin cha “đừng bán con
cho nhà giàu” – cô muốn tự quyết định số phận của mình mà không chấp nhận
biến mình thành thứ hàng hóa gả bán cho nhà giàu. Mị vốn là cô gái có trái tim
vị tha, nhân hậu. Ở nhà với cha mẹ, Mị là người con rất hiếu thảo, nết na, chăm
chỉ. Mị tự nguyện làm việc trả nợ thay cho bố mẹ; khi bị bắt về làm con dâu gạt
nợ cho nhà thống lí, không chịu nổi kiếp sống đọa đày đau khổ Mị muốn tự giải
thoát bằng cái chết, vậy mà vì thương bố, sợ làm liên lụy đến bố, Mị lại gạt
nước mắt, chấp nhận quay về nhà thống lí, chấp nhận sống tiếp cuộc đời nô lệ
nhọc nhằn, khổ ải, cuộc sống đáng sợ hơn cả cái chết.
Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp,
yêu đời nay đã hoàn toàn an phận trong cuộc sống nô lệ, sống mà như chết ấy?
Không, ngòi bút của nhà văn không chỉ hướng vào cái ảm đạm, nét mặt u tối
của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng, để khơi gợi
nó lên. Tô Hoài đã đi sâu vào tận cùng ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân
vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, của
khát khao hạnh phúc. Như dưới lớp tro dày nguội lạnh kia vẫn ủ chút than hồng,
chỉ chờ một ngọn gió thổi đến là lại bùng lên. Trong truyện ngắn Chí Phèo, ngòi
bút nhân đạo của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao còn khơi bùng lên những
khát vọng hạnh phúc và lương thiện ở Chí Phèo, một kẻ tưởng như không còn
đời sống tâm linh của con người với một hình thái không còn là nhân dạng nữa.
Và Tô Hoài cũng góp thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức mạnh.
Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người miền Tây Bắc khi mùa
xuân đến đã được miêu tả trong những đoạn văn thật trữ tình, giàu chất thơ để
làm nền cho sự hồi sinh sức sống của nhân vật. Đó là cảnh những đứa trẻ con
tinh nghịch đốt những lều canh nương để sưởi lửa, hình ảnh những cái váy hoa
đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ; sắc vàng ửng
của cỏ gianh trong gió và rét dữ dội, hình ảnh những đám trai gái đánh pao, chơi
quay, thổi khèn, thổi sáo say sưa; đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình
lửng lơ ngoài đầu núi. Những âm thanh, màu sắc, hình ảnh ấy đã tạo nên bức
tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, nồng nàn, rạo rực tình yêu, tràn trề sức sống. Đó
là những yếu tố ngoại cảnh góp phần gọi dậy những khát vọng tình yêu và hạnh
phúc vẫn âm ỉ đâu đó trong lòng Mị.
Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị là chi tiết Mị
nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bổi hổi. Người đàn bà vô cảm thờ ơ với tất cả,
nay không chỉ chú ý lắng nghe tiếng sáo từ xa vọng lại, cô còn hình dung ra
bóng người lấp ló đầu núi thổi sáo gọi bạn tình, còn nhận ra sắc thái thiết tha,
bổi hổi của tiếng sáo, thậm chí người đàn bà âm thầm câm lặng ấy đã nhẩm
thầm bài hát của người đang thổi. Bằng cách ấy, cô đã trở về với quá khứ, nhớ
lại những giai điệu ngọt ngào từ thuở xa xôi, đã bắt đầu mở lòng mình để đón
nhận và hòa vào âm thanh nồng nàn của tình yêu gửi trong tiếng sáo. Sau đó, Mị
lén lấy rượu ra uống. cảnh Mị uống rượu được miêu tả thật tinh tế, thể hiện chân
thực những biến đổi âm thầm mà dữ dội trong tâm hồn người đàn bà tưởng như
đã nguội tắt sức sống. Cô uống ừng ực từng bát- uống như để say, để quên,
uống như một người đang chết khát; uống như muốn dùng cái men say của rượu
để dìm đi những nuối tiếc, khát khao và phẫn uất đột ngột bùng cháy trong lòng;
uống như muốn mượn cái đắng cay của rượu làm vơi đi những cay đắng trong
lòng Mị uống rượu và lại nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Từ văng
vẳng không chỉ gợi tả tiếng sáo ở xa, đó còn là những âm thanh của hoài niệm
đưa Mị trở về với tiếng sáo và bài hát của người bạn tình năm xưa, khiến Mị
như trở lại với cô gái xinh đẹp tài hoa thuở nào, uống chiếc lá trên môi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo. Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo
Mị. người đàn bà tưởng như không còn sợi dây liên hệ với cả hiện tại và quá
khứ, không thiết nghĩ đến tương lai, nay lịm mặt – sống về ngày trước với bao
nhiêu khát vọng tình yêu, khát vọng tuổi trẻ. Ảo giác của quá khứ mãnh liệt đến
mức gần như xóa mờ những bất hạnh của hiện tại khiến Mị thấy phơi phới trở
lại, lòng đột nhiên vui sướng, mị bất ngờ nhận ra mình trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.
Ý thức được mình hãy còn trẻ, lòng cũng như trẻ lại, Mị bỗng muốn được đi
chơi, được tới những đám vui, những cuộc vui, hòa vào không khí rạo rực của
mùa xuân, của tình yêu, hạnh phúc. Nhưng ý muốn được đi chơi trong đêm hội
mùa xuân như mọi người đàn bà khác ở Hồng Ngài lại khiến Mị nhớ ra bao
nhiêu năm nay, A Sử không bao giờ cho Mị đi chơi, mà Mị cũng chẳng thiết đi.
Nhớ đến điều đó, Mị cũng đồng thời nhận thức sâu sắc tình trạng phi lí trong
cuộc hôn nhân của mình khi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải
ở với nhau. Cái thực tế đau khổ mà cô đã quen, đã thờ ơ chấp nhận đến mức
không còn tưởng đến sự chết nữa, nay bỗng trở nên phi lí tới không thể chấp
nhận. Mị đột ngột muốn chết, nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, mị sẽ ăn
cho chết ngay... chết để không phải nhớ lại quá khứ và những ước mơ, khao
khát của mình, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Muốn chết là biểu hiện mãnh
liệt nhất, dữ dội nhất của sự thức tỉnh lòng ham sống, lòng khát khao hạnh phúc,
niềm khát khao ấy tạo ra sự xung đột gay gắt với tình trạng vô nghĩa lý của thực
tại. khi bắt đầu nhận ra sự xung đột gay gắt với tình trạng vô nghĩa của thực tại.
khi bắt đầu nhận ra nỗi cay đắng, phẫn uất trong lòng mình, cảm thấy không thể
tiếp tục chấp nhận kiếp sống tủi cực đau đớn, cũng có nghĩa là Mị đã thoát ra
khỏi tình trạng lầm lũi vô cảm suốt bao năm nay.
Vậy mà, dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy, quá
khứ vẫn nồng nàn tha thiết trong nỗi nhớ của Mị với hơi rượu tỏa, tiếng sáo rập
rờn, tiếng chó sủa xa xa... Mị phải sống trong giằng xé đau đớn giữa những khát
khao cháy bỏng vừa hồi sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu ngay trong
sợi dây trói và căn buồng giam đầy bóng tối. Sức sống cùng những khát vọng đã
trở lại và cũng đã bị vùi lấp tàn nhẫn, nhưng sau đêm hội mùa xuân ấy, có lẽ nó
sẽ còn mãi ám ảnh, thao thức trong lòng Mị, dù chỉ là mơ hồ, xa thoảng. Sau
bao nhiêu năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của mình, đã
thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Khi đã nhận ra sự khổ
ải, cảm nhận về sự khổ ải sẽ càng thấm thía. Từ nay, có lẽ Mị sẽ không thể yên
ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình để tiếp tục sống cảnh
trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu trong tuổi trẻ
đã hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi bùng lên lần thứ hai.
Sau đêm tình mùa xuân năm ấy, thái độ và dáng vẻ bên ngoài của Mị
dường như quay về với con người cũ, nhẫn nhục và vô cảm. Tuy nhiên, sức
sống vẫn âm ỉ tiềm tàng đâu đó trong lòng Mị, đó là điều mà thậm chí chính Mị
cũng chưa tự nhận ra. Có lẽ cô vẫn nghĩ lòng mình đã chết hẳn và không thể
ngờ sức sống mãnh liệt ấy sẽ trở về với cô trong một đêm đông lạnh lẽo ở Hồng
Ngài. Sự vô cảm với nỗi đau của cả người khác và chính mình được thể hiện
trong những chi tiết miêu tả thái độ, tâm tư của Mị khi hàng đêm ra sưởi lửa, hơ
tay ở bếp lửa gần nơi A Phủ bị nhà thống lí bắt trói đứng ở cây cọc ngoài trời.
Có tới mấy đêm, Mị thờ ơ, không đoái hoài đến cảnh một người con trai bị trói,
bị đói và rét đang chờ chết bên cạnh mình. Mị cũng ý thức được sự vô cảm của
mình khi thản nhiên thổi lửa, hơ tay bên cạnh một người sắp chết, thậm chí cô
còn nghĩ rằng nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Thật ra thì
cô không chỉ thờ ơ với nỗi khổ của A Phủ, bản thân mình bị A Sử đánh ngã
xuống cửa, cô còn dửng dưng, không thấy bất bình, chẳng hề sợ hãi, đêm sau,
Mị vẫn ra ngồi sưởi như đêm trước.
Nhưng một cái gì đó chưa chết hẳn trong lòng Mị mới đột ngột thức dậy
trong một đêm khi ngẫu nhiên Mị quay sang và nhìn thấy dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Một người con trai khỏe
mạnh, cường tráng bây giờ hốc hác thê thảm với hai hõm má đã xám đen khi bị
trói đứng chờ chết. Một người con trai ngang tàng mạnh mẽ bây giờ phải lặng lẽ
khóc, dòng nước mắt không thể kiềm chế vì quá cay đắng, không thể che dấu vì
không thể tự lau đi được. Dòng nước mắt đàn ông lấp lánh trong ánh lửa khiến
nỗi thống khổ, sự đau đớn và bất lực cùng cực của con người trở nên hiện hữu
sống động. Cảnh tượng ấy làm Mị nhớ lại cảnh mình cũng từng bị trói, cũng
từng khóc cay đắng, nước mắt cũng chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết
lau đi được. Nỗi đau đớn, tủi cực của mình trong quá khứ đã giúp Mị nhận ra
nỗi đau của chính mình, sự đồng cảnh đã dắt dẫn cho trái tim vô cảm thờ ơ của
Mị trở về với những sự đồng cảm đầu tiên. Hình dung ra cái chết của mình nếu
tiếp tục bị trói như thế; nhớ tới cái chết của người đàn bà ngày trước ở nhà
thống lí; nghĩ đến cái chết của A Phủ sắp tới – Mị bất chợt nhận ra tất cả những
cái chết ấy đều có nguyên nhân từ sự tàn bạo của cha con nhà thống lí Pá Tra,
lòng thương thân thức dậy tình thương người, lòng nhân hậu dẫn đến sự căm
hờn, phẫn uất: chúng nó thật độc ác! Với bản thân mình, Mị có vẻ như đã cam
chịu: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây, nhưng trong lòng Mị lại phảng phất nghĩ về sự vô lí trong
cái chết của A Phủ: người kia việc gì phải chết thế. Sau bao nhiêu năm tháng
sống trong sự thờ ơ vô cảm, có lẽ đây là ý nghĩ đầu tiên Mị dành cho người
khác, bất bình thay cho người khác. Xúc cảm của trái tim nhân hậu vị tha tiếp
tục đậm nét hơn khi Mị nhận ra tình cảnh của A Phủ: chỉ đêm mai là người kia
chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết... Những từ chết xuất hiện liên tiếp
trong tâm trí Mị cũng là một biểu hiện rõ nhất của niềm ham sống một lần nữa
đã trở lại với Mị, trở lại với sự kinh hoàng về cái chết, với mỗi phẫn uất về cái
chết của những con người hiền lành lương thiện, những con người cùng cảnh
ngộ. Nghĩ tới việc nếu A Phủ trốn thoát, Mị phải chết thay, Mị cũng không thấy
sợ. Như vậy, nguyên nhân khiến Mị cởi trói cho A Phủ không phải vì sợ liên lụy
mà là sự thúc đẩy của cảm giác bất bình, phẫn uất, do sự thức tỉnh của lòng
nhân hậu, thương người, sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ, là sự
cùng dậy tự phát, đột ngột mà quyết liệt trong sự bức bách khắc nghiệt của hoàn
cảnh. Dẫu vậy, khi rút sao cắt dây trói cho A Phủ, Mị vẫn như đang làm theo sự
mách bảo của tiềm thức mơ hồ tồn tại trong một tấm lòng nhân hậu vẫn chưa
hoàn toàn bị hủy hoại, vì thế nên khi gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị
cũng hốt hoảng, có lẽ lúc ấy, lí trí của Mị mới chợt nhận ra tiềm thức thức đã
xui khiến cô làm một việc thật ghê gớm!
Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng đồng thời thoát ra khỏi trạng thái vô cảm,
lặng lẽ, trái tim nhân hậu hồi sinh thì đồng thời khát vọng sống cũng hồi sinh.
Mị đã không còn vô cảm với nỗi đau khổ của người khác thì cũng đến lúc
không thể tiếp tục vô cảm với nỗi đau khổ của chính mình. Có lẽ, sau giây phút
đứng lặng trong bóng tối, nhìn A Phủ lao vụt đi, hình ảnh một con người trên bờ
vực của cái chết đang mạnh mẽ thoát ra khỏi chốn địa ngục trần gian, tìm cho
mình sự sống khiến Mị đột ngột hiểu điều mình cần phải làm ngay bấy giờ,
ngay lập tức, đó là tự giải thoát đời mình khỏi sự thống trị, đày ải, trói buộc tàn
bạo của cường quyền và thần quyền trong suốt bao năm qua. Sau đó, tác giả đã
miêu tả những hành động của Mị trong những câu văn ngắn cùng những động
từ mạnh mẽ, gấp gáp: Mị cũng vụt chạy ra... Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp... Mị
nói, thở... không còn những dòng độc thoại nội tâm, dường như những hành
động của Mị nhanh hơn cả lý trí, những hành động chịu sự chi phối của khát
vọng sống vốn luôn tồn tại đâu đó trong tiềm thức, khát vọng sống đã đột ngột
thức dậy mãnh liệt và bất ngờ trong lòng Mị. Người đàn bà lặng lẽ, vô hồn, vô
cảm ấy đang hối hả tự cứu mình, người đàn bà câm lặng như tảng đá ấy đã cất
lên tiếng nói xin được giải thoát: A Phủ cho tôi đi; người đàn bà hơn một lần
muốn chết ấy nay khẩn thiết mong được sống, mong được theo A Phủ bởi nỗi
kinh hoàng trước cái chết: ở đây thì chết mất. Khát vọng sống mãnh liệt đã thức
tỉnh hoàn toàn như sự thức tỉnh khát vọng tuổi trẻ, tình yêu trong đêm tình mùa
xuân và không còn dừng lại ở ảo giác hay khát khao mà đã trở thành những
hành động quyết liệt, triệt để chống lại số phận, chống lại vòng cương tỏa độc
ác của cha con nhà thống lí, giành lại cho mình quyền được sống, quyền được tự
do. Thành công của vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt
là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Vợ chồng A Phủ cũng là thiên truyện tràn
đầy chất thơ khi thể hiện những rung cảm của nhà văn trước vẻ đẹp của thiên
nhiên, cuộc sống, con người, đồng thời có khả năng truyền được cảm xúc ấy
đến người đọc. Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài mang tính truyền thống
nhưng cũng rất uyển chuyển, sáng tạo từ cách giới thiệu nhân vật đặc biệt ấn
tượng với cốt truyện vừa liền mạch theo trình tự thời gian vừa đan xen những
hồi ức, pha trộn giữa quá khứ và hiện tại, giữa những mơ hồ của tiềm thức với
những lộn xộn chồng chéo của tâm tư..., nhờ thế mà mạch truyện biến đổi sinh
động hấp dẫn mà vẫn mạch lạc. nhiều đoạn được sử dụng thứ ngôn ngữ nửa trực
tiếp giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp trong đời sống nội tâm của nhân vật, vừa tạo
được sự đồng cảm giữa nhà văn, nhân vật và người đọc. Ngôn ngữ của Tô Hoài
giản dị, phong phú, đầy sáng tạo. Lời văn mượt mà, sâu lắng, trữ tình, giàu tính
tạo hình và sức truyền cảm sâu sắc. Ngôn ngữ vừa có sự vận dụng cách nói hồn
nhiên, giàu hình ảnh của người miền núi, vừa giữ được tính chuẩn mực của
ngôn ngữ văn học. Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt
sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời
cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu
như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ
lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị nô lệ
hóa hoàn toàn. Lần thứ nhất, Mị nhận được sự tác động theo chiều hướng tích
cực từ ngoại cảnh, bản thân Mị chỉ định giải thoát trong chốc lát. Lần thứ hai
không có sự hỗ trợ từ ngoại cảnh, sự trỗi dậy ở lần thứ hai mạnh mẽ quyết liệt
hơn. Mị đã giải thoát mình khỏi sự giằng buộc của cả cường quyền lẫn thần
quyền. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với
sự trỗi dậy của kí ức, khát vọng sống tự do đã khiến Mị chạy theo người mà
mình vừa cứu, Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình.
Hành động táo bạo và đầy bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng
khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Trong
lòng Mị luôn tiềm ẩn cả sức sống tiềm tàng, khát khao được hưởng hạnh phúc,
càng bị vùi dập thì khát khao trong Mị càng trỗi dậy, với hành động này Mị đã
chiến thắng số phận. Nàng Kiều bị xô đẩy vào cuộc sống thanh lâu ô nhục, đã
bao lần cố sức vùng vẫy thoát ra, và tấm lòng nhớ cha mẹ, nhớ người yêu vẫn
tha thiết đau đớn suốt ngần ấy năm trời lưu lạc. Nhân vật Tám Bính của Nguyên
Hồng, sống cuộc đời một “Bỉ vỏ” dưới đáy xã hội, bị khinh khi săn đuổi nhưng
vẫn không nguôi khát khao một cuộc sống lương thiện trong sạch. Chỉ có điều
là những tác giả văn học quá khứ đã không tìm ra con đường giải thoát cho
những nạn nhân đau khổ ấy trong tác phẩm của họ, còn cô Mị - cũng như nhiều
nhân vật khác trong tác phẩm văn học cách mạng hiện đại thì đã tìm thấy con
đường giải phóng thực sự , tìm thấy sự thực hiện những ước vọng chân chính
của mình trong quá trình đến với cách mạng, dưới ánh sáng của Đảng.
Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị đã cho chúng ta một lần nữa lại thấy
được Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi
nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm
thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng
bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và
ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn
sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân
lý muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó
dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Lại nhớ đến một ý của Hêghen:
phải đẩy tới chóp đỉnh của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình vẻ mới hiện ra.
Những trang văn đẹp lời đẹp ý bậc nhất trong truyện ngắn này có lẽ thảy đều
diễn đạt cái sự sống nhiều hình vẽ trên chóp đỉnh mâu thuẫn đó.