lOMoARcPSD| 40551442
ĐỀ BÀI TẬP NHÓM
Đề s20: Hãy sưu tầm một bản án của Tán liên quan đến việc tuyên bố di chúc
không hợp pháp mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định
của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu chung:
Yêu cầu:
1. Từ bản án, quyết định đã sưu tầm được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng
tình huống dài tối đa 1 trang A4 (giãn dòng 1.5, cỡ chữ 14, không giãn đoạn,
không giãn chữ).
2. Hãy chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quyết định hoặc bản án sơ thẩm mà
nhóm đã sưu tầm và giải thích vì sao nhóm lại cho rằng chưa phù hợp?
3. Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy
định của pháp luật.
4. Từ việc phân tích vụ án, nhóm hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật hiện hành.
MỤC LỤC
I. MỞ
ĐẦU………………………………………………………………………..1
II. NỘI
DUNG…………………………………………………………………….1
1. Tóm tắt nội dung vụ việc từ bản án số
29/2020/DSST………………………...1
2. Những điểm chưa phù hợp trong bản án và quyết
định…………………………3
lOMoARcPSD| 40551442
2.1. Việc bà K để lại toàn bộ di sản làm thờ
cúng…………………………………3
2.2. Nhận định của Toà án về tính hợp pháp của di chúc của bà
K1…….………...5
3. Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp theo quy định
phápluật hiện
hành…………………………………………………………………………..6
3.1. Phân chia di sản thành từng phần hợp
lí………………………………………6
3.2. Yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét lại nội dung và tính hợp pháp về di
chúccủa bà K1 và đưa ra cách xử lí phù hợp theo quy định pháp
luật……………………...7
4. Kiến nghị hoàn thiện quy định
pháp luật hiện hành…………………………….8
4.1.Nhật xét chung về quy định pháp luật hiện hành……………………………...8
4.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành…………………………..9
Kết luận……………………………………………………………………...10
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………...….12
Phụ lục………………………………………………………………………..13
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GCN
Giấy chứng nhận
lOMoARcPSD| 40551442
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
BLDS
Bộ luật Dân sự
UBND
Uỷ ban Nhân dân
lOMoARcPSD| 40551442
I. LỜI MỞ ĐẦU
Di chúc chính là sự biểu thị ý nguyện của cá nhân nhằm chuyển giao tài sản mà h
sở hữu cho người khác sau khi chết. Thông qua việc lập di chúc, người lập có thể chủ
động sắp xếp, phân chia di sản theo mong muốn cá nhân, đồng thời góp phần bảo đảm
quyền lợi của những người thừa kế, hạn chế tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh giữa các
chủ thể liên quan sau khi người để lại di sản qua đời. Với vai trò sở để xác lập
quyền thừa kế một cách hợp pháp và minh bạch, di chúc mang ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc bảo đảm quyền định đoạt đối với tài sản, cũng như tạo ra sự ổn định
cho các mối quan hệ dân sự phát sinh trong lĩnh vực thừa kế. Xuất phát ttầm quan
trọng cũng như ý nghĩa to lớn của di chúc, Bộ luật dân sự của nước ta đã quy định cụ
thể tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện các điều kiện để đảm bảo hiệu
lực của di chúc. Tuy nhiên, vẫn còn một số lỗ hổng trong vấn đề di chúc. Vấn đề về di
chúc không hợp pháp vẫn đang một trong những vấn đề bất cập hiện nay, gây ra
nhiều tranh cãi trái chiều trong quá trình xét xử các vụ án liên quan. Những vụ việc
như vậy không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, còn
đặt ra những yêu cầu cấp thiết về việc làm rõ và hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp
luật liên quan đến di chúc thừa kế. Dựa trên những thực tế này, nhóm quyết định
chọn đề tài số 20: Hãy sưu tầm một bản án của Tòa án liên quan đến việc tuyên bố
di chúc không hợp pháp mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy
định của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu chung”
Sau đây nhóm sẽ sử dụng bản án số 29/2020/DS-ST ngày 10/09/2020 của Tòa án
nhân dân Quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng về tranh chấp yêu cầu tuyên bố di chúc
không hợp pháp làm cơ sở để phân tích, đánh giá và trình bày quan điểm pháp của
nhóm.
II. NỘI DUNG
Câu 1: Tóm tắt nội dung vụ việc từ bản án số 29/2020/DS-ST.
lOMoARcPSD| 40551442
Em gái ông Đ là bà K, sinh năm 1961 có tạo lập được một khối tài sản là quyền sở
hữu nhà QSDĐ theo GCN quyền sở hữu nhà QSDĐ số phát hành
3402032004, hồ sơ gốc số 65365 do UBND thành phố Đ cấp ngày
18/3/2003. Năm 2009, trước khi chết, K để lại di chúc cho mẹ bà K1 với nội
dung: Để lại toàn bộ nhà và đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển nhượng,
tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho bà K1 quản lý sử dụng. Tại thời điểm sau khi
K chết, ông Đ người trực tiếp giữ GCN quyền sở hữu nhà QSDĐ số
3402032004 do UBND thành phố Đ cấp ngày 18/3/2003 nhưng ông H không biết nên
ngày 19/01/2015, ông H đã làm đơn xin trình báo mất giấy tờ liên quan đến nhà và
đất ở tại thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13 có xác nhận của Công an phường X. Ngày
25/4/2015, K1 nộp đơn đăng cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Đ nên ngày 25/11/2015
Sở tài nguyên môi trường thành phố Đ ban hành Quyết định số 712/QĐ-STNMT
ngày 25/11/2015 về việc hủy GCN quyền sở hữu n QSDĐ số phát hành
3402032004 do UBND thành phố Đ cấp cho K ngày 18/3/2003. Ngày 24/6/2015,
bà K1 đã thực hiện thủ tục kê khai nhận di sản thừa kế của bà K. Ngày 25/11/2015, bà
K1 được Sở tài nguyên và môi trường thành phố Đ cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu n
ở và tài sản gắn liền với đất số CA 569590 ngày 25/11/2015.
Năm 2015, ông H dẫn K1 đi lập di chúc với nội dung: Để lại toàn bộ nhà
đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh
và giao cho ông H quản sử dụng. Đến ngày 03/8/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai tại quận K chỉnh lý biến động sang tên cho ông H. Nay ông Đ yêu cầu
Tòa án tuyên bố di chúc của K1 không hợp pháp; Yêu cầu hủy phần chỉnh biến
động do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại quận K chỉnh lý ngày 03/8/2017, và
cấm ông H cùng ông D thực hiện bất kỳ thay đổi nào đối với tài sản tranh chấp
không sự đồng ý của tất cả các thành viên trong gia đình. Trái lại, bị đơn, ông H,
thông qua người đại diện của mình, khẳng định tính hợp pháp của cả hai di chúc, cho
rằng K vẫn minh mẫn khi lập di chúc năm 2009 di chúc của bà K1 được lập đúng
lOMoARcPSD| 40551442
theo quy định của pháp luật, đồng thời việc đăng ký đất đai cũng được thực hiện một
cách hợp lệ.
Tòa án đã Chấp nhận yêu cầu khởi kiện "Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố di chúc
không hợp pháp" của nguyên đơn ông Đ, tuyên bố di chúc do K1 không hợp
pháp. Kiến nghị Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ - Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai tại quận K, thành phố Đ điều chỉnh biến động phù hợp với kết quả giải quyết
của Tòa án theo quy định của pháp luật, đồng thời tuyên mức án phí phải nộp đối
với các nguyên đơn và bị đơn.
2. Chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong bản án và quyết định theo
quanđiểm của nhóm và giải thích tại sao.
2.1. Việc bà K để lại toàn bộ di sản làm thờ cúng.
Theo nguyên văn di chúc, bà Trần Thị K có ghi rõ:
“Nay tôi lập di chúc này để lại toàn bộ ngôi nhà đất nói trên dùng làm nhà thờ
tự, không được chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho mẹ tôi có tên
sau đây quản lý sử dụng:
Nguyễn Thị K1, sinh năm 1927, Chứng minh nhân dân số: 200486xxx cấp
tại Công an Quảng Nam Đà Nẵng ngày 01/8/1927. Nơi thường trú: Tổ 28, phường X,
quận K, thành phố Đ.
Trường hợp ngôi nhà đất nói trên nằm trong diện quy hoạch giải tỏa thì mẹ tôi -
Nguyễn Thị K1 người nhận tiền đền mua đất xây dựng ngôi nhà để thờ tự.
Ngoài ra, các cháu nội ngoại xa, nếu nguyện vọng thì được lại ngôi nhà trên,
thuận lợi cho việc học hành của các cháu.”
Có thể thấy rằng, bà K đã thể hiện rõ ý chí để lại toàn bộ căn nhà và QSDĐ
liên quan cho mục đích thờ cúng, đồng thời chỉ định bà K1 là người quản lý và sử
dụng tài sản này sau khi bà qua đời. Bà K cũng thể hiện rõ di nguyện của mình là tài
sản này không được chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh – tức là giới hạn
lOMoARcPSD| 40551442
mọi quyền định đoạt tài sản này để bảo đảm tài sản được sử dụng đúng theo mục đích
thờ tự lâu dài.
Theo Điều 163 BLDS 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ giá các quyền
tài sản. Trong đó, quyền sử dụng đất được xem là một loại quyền tài sản, do đó có thể
được định đoạt trong di chúc. Căn cứ theo khoản 3 Điều 648 BLDS 2005, người lập di
chúc quyền sau: "Dành một phần tài sản trong khối di sản đdi tặng, thờ cúng.".
Quy định này thể hiện ràng rằng, pháp luật cho phép cá nhân lập di chúc dành một
phần di sản của mình đphục vụ cho việc thờ cúng sau khi qua đời. Tuy nhiên, điểm
quan trọng ở đây là pháp luật chỉ cho phép để lại “một phần” tài sản cho mục đích thờ
cúng, chứ không cho phép nhân để lại toàn bộ di sản vào mục đích này. Mặc
trong thực tiễn, pháp luật chưa đưa ra một tỷ lệ cụ thể nào cho khái niệm "một phần",
nhưng việc để lại toàn bộ tài sản (như trường hợp của bà K) cho mục đích thờ cúng rõ
ràng đã vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật hiện hành. Việc dành toàn bộ tài
sản để làm nhà thờ tự đồng nghĩa với việc không để lại phần di sản nào cho những
người thừa kế khác, điều này thể dẫn đến xung đột quyền lợi vi phạm quy định
về quyền thừa kế hợp pháp của các chủ thể liên quan.
Dưới góc độ hiệu lực pháp của di chúc, điểm b khoản 1 Điều 652 BLDS 2005
quy định một trong các điều kiện để di chúc hợp pháp là: "Nội dung di chúc không trái
pháp luật, đạo đức hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.”. Từ
đây có thể thấy rằng, mặc dù di chúc của bà K có mục đích hợp lý là dùng tài sản làm
nơi thờ cúng tổ tiên, nhưng việc để lại toàn bộ di sản cho mục đích này thể bị xem
vi phạm điều cấm gián tiếp do trái với giới hạn tại khoản 3 Điều 648 BLDS. Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý rằng đây là vấn đề còn có thể tranh cãi về mặt áp dụng luật, bởi
vì pháp luật hiện nay chưa xác định cụ thể như thế nào là “một phần”. Vì vậy, di chúc
này thể bị coi là chưa phợp với quy định pháp luật, tuy không hoàn toàn bị
hiệu. Tóm lại, di chúc của K đã thể hiện ý chí mong muốn để lại toàn bộ tài
sản cho mục đích thờ cúng, thể hiện sự tôn kính đối với truyền thống gia đình. Tuy
nhiên, việc để lại toàn bộ di sản cho mục đích này đã vượt quá giới hạn pháp luật
cho phép. Theo quy định tại khoản 3 Điều 648 BLDS 2005, nhân chỉ được phép
lOMoARcPSD| 40551442
dành một phần tài sản cho việc thờ cúng. Vì vậy, nội dung di chúc trên được đánh giá
chưa phù hợp với pháp luật, thể bị Tòa án điều chỉnh nếu tranh chấp phát
sinh trong quá trình phân chia di sản.
2.2. Nhận định của Toà án về tính hợp pháp của di chúc của bà K1.
Theo nhận định của toà án: “Việc bà K1 để lại di chúc cho ông H là một hình thức
định đoạt phần di sản thừa kế do K để lại không phù hợp với điểm b khoản 2 Điều
639 BLDS 2005. Do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, tuyên bố di chúc của bà K1 lập ngày 01/12/2015 là không hợp pháp.” Việc toà án
cho rằng di chúc của bà K1 là không hợp pháp do “Việc bà K1 để lại di chúc cho ông
H là một hình thức định đoạt phần di sản thừa kế do bà K để lại là không phù hợp với
điểm b khoản 2 Điều 639 BLDS 2005”. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm nhận
định này là chưa hợp lí vì:
Thứ nhất, trên thực tế việc bà K1 đã được Sở tài nguyên và môi trường thành phố
Đ cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CA 569590 ngày
25/11/2015 sau khi K1 đã hoàn tất thủ tục khai nhận di sản thừa kế nên K1
quyền sở hữu nhà, QSDĐ vì thế K1 hoàn toàn quyền sử dụng, định đoạt đối
với di sản K để lại theo Điều 168 Luật đất đai 2013: Người sử dụng đất được
thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp
vốn quyền sử dụng đất khi Giấy chứng nhận...”. vậy, việc cho rằng “định đoạt
phần di sản do K để lại” không phù hợp, bởi tại thời điểm lập di chúc, tài sản
không còn là di sản của bà K, mà đã là tài sản của bà K1. Nhưng, việc bà K1 được Sở
tài nguyên và môi trường thành phố Đ cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất số CA 569590 ngày 25/11/2015 điểm còn bất cập trên thực tế,
việc K để lại toàn bộ di sản dùng làm thờ cúng theo khoản 1 Điều 670 BLDS
2005, trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế nên K1 hoàn toàn không quyền định
đoạt đối với ngôi nhà đất dùng làm thờ cúng, cũng thế Sở tài nguyên môi
trường thành phố Đ không thẩm quyền cấp GCNQSHN SDĐ của ngôi nhà đất
nói trên cho bà K1.
lOMoARcPSD| 40551442
Thứ hai, theo điểm b khoản 2 điều 639 BLDS 2005 quy định rằng: người đang
chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật này có nghĩa vụ
phải thông báo về di sản cho những người thừa kế”. Nhưng tại khoản 2 Điều 638 BLDS
2005 quy định: Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản di sản
những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho
đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”. Mà trong di chúc của bà
K1 có nội dung: “Nay tôi lập di chúc này để lại toàn bộ ngôi đất nói trên dùng làm nhà
thờ tự, không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho con
trai tôi H, sinh ngày 15/8/1952, có CMND số 200109142 do Công an Đà Nẵng cấp
ngày 30/6/2009, thường trú tại tổ 33, phường X, quận K, thành phố Đ được quyền quản
lý, sử dụng không ai được tranh giành hay khiếu nại. Trong trường hợp nhà đất nói
trên nằm trong diện quy hoạch giải tỏa thì con trai tôi H – là người nhận tiền đền
mua đất xây nhà để thờ tự.” thế ông H đã là người được bà K1 chỉ định người
quản lí, sử dụng. vậy việc viện dẫn điểm b khoản 2 Điều 639 BLDS 2005 cho nhận
định của Tán là không phù hợp. Từ đó, nhóm cho rằng nhận định về tính hợp pháp
về di chúc của bà K1 của T án là chưa hợp lí.
3. Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định
củapháp luật.
3.1. Phân chia di sản thành từng phần hợp lí.
Trên cơ sở di chúc của bà K, từ việc bà K để lại toàn bộ di sản làm thờ tự, nhóm
đưa ra hướng giải quyết theo quy định của pháp luật hiện hành cho vấn đề này như
sau. Thứ nhất, phân chia hợp lý di sản thành các phần. Dựa trên Điều 626 và trên tinh
thần của Điều 645 BLDS 2015, để hài hòa giữa nguyện vọng thờ cúng, ý chí của người
lập di chúc quyền lợi của các thừa kế, chia di sản thành hai phần tài sản như sau:
Một phần dùng để thờ tự (ví dụ: nhà thờ, đất thờ tự, tài sản thiêng liêng). Phần còn lại
chia cho các thừa kế nhân (ví dụ: tiền, đất, tài sản khác...). Mặt khác, có thể áp dụng
nguyên tắc bảo vệ người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Theo khoản 1
Điều 644 BLDS 2015, những người sau đây vẫn được hưởng hai phần ba suất của một
lOMoARcPSD| 40551442
người thừa kế theo pháp luật, đó con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành
niên không khả năng lao động. Nếu di chúc dành toàn bộ di sản cho việc thờ
cúng mà không đảm bảo quyền lợi cho những người này, phần di sản thờ cúng thể
được trích ra để bảo vệ quyền lợi cho họ. Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể
về tỷ lệ của di sản dùng vào việc thờ cúng vậy nên tỷ lệ "một phần" tài sản dành cho
thờ cúng nên được Tòa án xác định phù hợp, căn cứ vào giá trị di sản, phong tục, nhu
cầu thực tế thờ cúng. Phần còn lại sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.
3.2. Yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét lại nội dung và tính hợp pháp về di
chúc của bà K1 và đưa ra cách xử lí phù hợp theo quy định pháp luật.
Để giải quyết hợp lý, cần xác minh nội dung di chúc của K cũng như xem
xét thực tế việc thờ cúng hiện nay: Nếu hiện không có ai thực hiện việc thờ cúng hoặc
không còn nhu cầu sử dụng tài sản cho mục đích thờ cúng, thì phần di sản này có thể
được chia thừa kế, theo khoản 5 Điều 221, Điều 234 của BLDS 2015 thì ông Trần
H là người thừa kế duy nhất đối với tài sản là nhà và đất tại thửa đất số 137, tờ bản đồ
số 13, địa chỉ: Tổ 30B phường X, quận K, thành phố Đ theo di chúc lập ngày
01/12/2015 của bà K1 được Phòng Công chứng X thành phố Đ công chứng số 15076
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/12/2015 thủ tục đăng biến động đối với tài sản này
được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Ngược lại, nếu tài sản vẫn đang được
dùng đúng mục đích thờ cúng, thì GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở này phải được thu
hồi làm lại thủ tục từ đầu đối với ngôi nhà đất nói trên K1 không quyền
định đoạt với ngôi nhà đất này và giao tài sản cho người được chỉ định trông coi hoặc
do các thừa kế thỏa thuận, trong trường hợp này thì căn cứ Điều 645 của Bộ luật dân
sự năm 2015 thì ông H hiện người đang quản hợp pháp đối với nhà đất tại
428A/14 V, tổ 30, phường X, quận K, thành phố Đ nên yêu cầu giao cho ông Trần H
là người quản lý đối với di sản thừa kế này.
Việc tuyên bố toàn bộ di chúc của bà K1 là không hợp pháp là thiếu cơ sở pháp lý
và không bảo đảm nguyên tắc tôn trọng ý chí của người lập di chúc theo quy định của
pháp luật dân sự. Trong khi lập luận và căn cứ chứng minh vi phạm về tính hợp pháp
lOMoARcPSD| 40551442
về di chúc K1 của Tán chưa thuyết phục như nhóm đã trình bày trên, việc
tuyên bố vô hiệu toàn bộ di chúc không hợp thể gây thiệt hại cho người được
chỉ định trong di chúc cũng như làm phát sinh những tranh chấp không đáng có. Do
đó, Tòa án cần xem xét lại vụ việc một cách toàn diện, khách quan để bảo đảm quyền
định đoạt tài sản của người lập di chúc được tôn trọng và thực thi đúng theo quy định
của pháp luật.
4. Từ việc phân tích vụ án, nhóm đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định
phápluật hiện hành.
4.1.Nhật xét chung về quy định pháp luật hiện hành.
Hiện nay, pháp luật chỉ quy định người lập di chúc quyền để lại “một phần” di
sản để làm thờ cúng nhưng lại không đưa ra bất kỳ căn cứ định lượng hay nguyên tắc
đánh giá cụ thể nào để xác định thế nào “một phần” hợp lý. Sự hồ trong quy định
này đã gây ra không ít khó khăn cho cơ quan xét xử khi giải quyết các tranh chấp thừa
kế, đặc biệt là trong các trường hợp người lập di chúc để lại toàn bộ hoặc phần lớn tài
sản cho việc thờ cúng. Do không có tiêu chí ràng, c Tòa án thể đưa ra ch hiểu
phán quyết khác nhau trong những vụ việc tương tự, từ đó dẫn đến án lệ không
thống nhất, gây ảnh hưởng đến sự công bằng hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật.
Điều này cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật theo hướng c
thể hóa giới hạn phần tài sản dành cho thờ cúng, tạo cơ sở rõ ràng để Tòa án áp dụng
thống nhất và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các đồng thừa kế.
Bên cạnh đó, một số chủ thể áp dụng pháp luật còn thiếu trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ hoặc không đảm bảo tính khách quan, dẫn đến việc áp dụng pháp luật
thiếu chính xác, gây thiệt hại cho nhân, tổ chức. Ngoài ra, một số quy định pháp luật
còn chung chung, thiếu rõ ràng, dễ gây hiểu lầm hoặc khó thực thi trong thực tế.
4.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành.
Để tránh việc lạm dụng di chúc để gạt bỏ quyền thừa kế hợp pháp của những người
thân thích dưới danh nghĩa "thờ cúng", đặc biệt trong các gia đình có nhiều người thừa
lOMoARcPSD| 40551442
kế nhưng tài sản được để lại hoàn toàn cho việc thờ cúng và đhài hòa giữa quyền định
đoạt của người lập di chúc với quyền lợi của những người thừa kế, cũng như đảm bảo
tính hợp lý và đạo đức hội. Thiết nghĩ, các nhà làm luật phải dự liệu những
kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện nay. Từ những đòi hỏi trên thực tế về vấn
đề này, nhóm chúng em xin đề xuất sửa khoản 3 Điều 626 BLDS 2015 về phần di sản
dùng cho việc thờ cúng:
3. nhân quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng hoặc thờ
cúng. Việc để lại toàn bộ di sản cho thờ cúng chỉ hiệu lực nếu được tất cả những
người thừa kế hợp pháp đồng ý, phần tài sản dùng để thờ cúng không được vượt quá
một phần hai tổng giá trị di sản, nếu vượt quá thì phần vượt quá sẽ không có hiệu lực
và sẽ được xử lí theo quy định pháp luật.
Một phần di sản dùng vào việc thờ cúng được xác định căn cứ vào cách chia di
sản của người chết thành nhiều phần bằng nhau, nếu chọn cách chia thành một trăm
phần, theo đó một phần không thể lớn hơn năm mươi phần trăm của tổng giá trị di sản
của người lập di chúc để lại. Nếu phần di sản dùng vào việc thờ cúng lớn hơn năm
mươi phần trăm tổng giá trị di sản của người lập di chúc để lại thì đó là phần lớn mà
không thể hiểu là một phần.[1]
Việc sửa đổi quy định về phần di sản dùng vào việc thờ cúng có ý nghĩa rất quan
trọng trong thực tiễn pháp lý và đời sống xã hội. Trước hết, nó giúp ngăn chặn hành vi
lợi dụng danh nghĩa "thờ cúng" để loại bỏ các đồng thừa kế hợp pháp khác, từ đó bảo
vệ tốt hơn quyền lợi của những người quyền thừa kế, đặc biệt con, cháu, hoặc
những người đang phụ thuộc vào di sản. Bên cạnh đó, việc quy định rõ giới hạn phần
tài sản dành cho thờ cúng cũng tránh được tình trạng lãng phí hoặc sử dụng di sản
không đúng mục đích. Về mặt tố tụng, sửa đổi này stạo điều kiện cho các tòa án áp
dụng pháp luật một cách thống nhất, hợp lý hơn: không cần tuyên hiệu toàn bộ di
chúc nếu chỉ có một phần vượt quá giới hạn hợp lý, chỉ hiệu phần sai phạm, bảo
vệ ý chí thực sự của người lập di chúc. Đồng thời, quy định rõ ràng về phạm vi tài sản
thờ cúng cũng giúp người dân hiểu rõ hơn giới hạn hợp pháp, từ đó chủ động cân đối
phần tài sản để lại cho việc thờ cúng phần để lại cho người thân. Điều này không
lOMoARcPSD| 40551442
chỉ góp phần bảo đảm công bằng trong phân chia di sản mà còn giúp giảm thiểu nguy
tranh chấp, mâu thuẫn gia đình sau khi chia thừa kế, giữ gìn được tình cảm sự ổn
định trong nội bộ gia đình sau khi người để lại di sản qua đời.
Cuối cùng, chủ thể áp dụng pháp luật cần nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy
định của pháp luật hiện hành và cũng cần phải cần đánh giá chứng cứ một cách khách
quan, toàn diện và khoa học, đảm bảo đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn và
tính công tâm trong hoạt động xét xử. Quan trọng hơn, Hội đồng Thẩm phán TANDTC
cần tiến tới việc phát triển, xây dựng những án lệ mang tính chuẩn mực, hợp tình hợp
đối với những vụ việc thực tiễn phát sinh tại Tòa án về vấn đề di chúc không hợp
pháp.
III. KẾT LUẬN
Pháp luật dân sự yếu tố quan trọng quyết định giao dịch dân sự nói chung
việc xác lập, thực hiện quyền thừa kế nói riêng, bởi đây những quan hệ dân sự phổ
biến trong đời sống hiện nay của nhân dân ta. Trong thực tiễn, tranh chấp về hiệu lực
của di chúc là một trong những dạng tranh chấp thường gặp phức tạp, thể kéo dài
qua nhiều cấp xét xử với những quan điểm không thống nhất, gây ra những tranh luận,
thậm chí dẫn đến những phán quyết chưa thật sự thỏa đáng. Thông qua nghiên cứu bản
án thẩm số 29/2020/DS-ST ngày 10/09/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng liên quan đến tranh chấp yêu cầu tuyên bố di chúc không hợp pháp.
Bằng những hiểu biết còn hạn chế nhóm đã chỉ ra những điểm chưa thật sự hợp trong
việc áp dụng pháp luật và phân tích lập luận của Hội đồng xét xử theo quan điểm của
nhóm. Đồng thời, nhóm cũng đề xuất phương pháp giải quyết tranh chấp phù hợp hơn
với các quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành thực tiễn xét xử. Không thể phủ nhận
tính hiệu quả của hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế, tuy nhiên
những bất cập, thiếu thống nhất trong cách hiểu và vận dụng pháp luật vẫn còn tồn tại,
ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Do vậy, nhóm mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị bổ sung nhằm góp phần hoàn
thiện các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc xác định hiệu lực pháp
lOMoARcPSD| 40551442
của di chúc. Bài làm của nhóm chúng em tuy đã sự tìm hiểu suy luận càng
nhưng vẫn còn những thiếu sót nhất định. Nhóm 01 mong nhận được sự góp ý từ
thầy cô bộ môn Luật dân sự 1 để có thêm kinh nghiệm, phát huy những bài tập nhóm
sau này tốt hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
lOMoARcPSD| 40551442
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản quy phạm pháp luật:
Bộ luật Dân sự 2015, luật số 91/2015/QH13
Bộ luật Dân sự 2005, luật số 33/2005/QH11
Luật Đất Đai 2013, luật số 45/2013/QH13
2. Sách tham khảo:
[1]. TS. Đinh Trung Tụng(Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015, Quyển
2, (Bình luận phần thứ ba, phần thứ tư và phần phần thứ năm), NXB Tư pháp, tr 398.
lOMoARcPSD| 40551442
V. PHỤ LỤC
*** Trích dẫn Bản án 29/2020/DS-ST của Toà án Nhân dân quận Thanh Khê - Thành phố Đà Nẵng
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 29/2020/DS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU
TUYÊN BỐ DI CHÚC LÀ KHÔNG HỢP PHÁP
Trong ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng, Tòa án xét xử thẩm công khai vụ án thụ số 227/2019/TLST-DS
ngày 23/12/2019 về việc "Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố di chúc là không hợp pháp"
theo Quyết định đưa ván ra xét xử số 227/2020/QĐXXST-DS ngày 22/6/2020; Quyết
định hoãn phiên tòa số 45/2020/QĐST-DS ngày 16/7/2020 và Quyết định hoãn phiên
tòa số 56/2020/QĐST-DS ngày 14/8/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Tấn Đ, sinh năm 1956; Địa chỉ: K97/8 đường X, tổ 21,
phường N, quận L, thành phố Đ (có mặt).
- Bị đơn: Ông Trần H, sinh năm 1952; Địa chỉ: K428A/14 đường V, phường X, quận
K, thành phố Đ. Ông H ủy quyền cho ông Đào Ngọc T, sinh năm 1997; Địa chỉ: Số
71 đường L, quận K, thành phố Đ đại diện tham gia tố tụng (theo Giấy ủy quyền
ngày 10/01/2019), (ông T có mặt).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Thị Xuân P – Luật
sư Công ty Luật TNHH K– Chi nhánh Đà Nẵng; Địa chỉ: Phường A, quận C, thành
phố Đà Nẵng (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Trần Thanh H1; sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ 3, thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Q
(vắng mặt).
+ Ông Trần S; sinh năm 1968; Địa chỉ: Thôn 3, đội 17, xã L, huyện T, tỉnh Q (có
mặt).
lOMoARcPSD| 40551442
+ Bà Trần Thị T; sinh năm 1971; Địa chỉ: Tổ 2, thôn S, xã N, huyện T, tỉnh Q (có
mặt).
+ Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ; Địa chỉ: Tầng 15 Tòa nhà T, số
24 đường P, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật ông Tô Văn H, chức vụ:
Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Thành Q, chức vụ: Giám đốc
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại quận K (vắng mặt).
+ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận K, thành phố Đ; địa chỉ: Số
503 đường V, quận K, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật ông Nguyễn
Thành Q, chức vụ: Giám đốc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại quận K (vắng
mặt).
+ Phòng Công chứng X, thành phố Đ; địa chỉ: Số 209 đường P, quận K, thành phố
Đ (có đơn xin xét xử vắng mặt).
+ Ông Trần Trương Quang D, sinh năm 1983; Địa chỉ: 45/26 đường D, phường T,
quận K, thành phố Đ (có mặt).
- Người làm chứng:
+ Bà Tạ Thị H3, sinh năm 1949; Địa chỉ: Tổ 30, phường X, quận K, thành phố Đ (có
đơn xin xét xử vắng mặt).
+ Bà Châu Thị V, sinh năm 1976; Địa chỉ: Tổ 28, phường X, quận K, thành phố Đ
(có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai, các Biên bản hòa giải và tại phiên a hôm
nay, Nguyên đơn là ông Trần Tấn Đ trình bày:
Sinh thời, em gái tôi là bà Trần Thị K, sinh năm 1961 có tạo lập được một khối tài
sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 3402032004 do Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp ngày 18/3/2003, có diện
tích đất 38,4m2, thuộc thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13 tại địa chỉ Tổ 30B, phường X,
lOMoARcPSD| 40551442
quận K, thành phố Đ. Năm 2009, trước khi chết, em tôi có để lại di chúc cho mẹ tôi
với nội dung: Để lại toàn bộ nhà và đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho mẹ tôi quản lý sử dụng. Bản thân
tôi là người trực tiếp giữ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
nói trên nhưng ông Trần H đã tự ý dẫn mẹ tôi làm báo mất sổ để cấp sổ mới đứng tên
mẹ tôi theo di chúc của em gái tôi và đã được Sở tài nguyên và môi trường thành phố
Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CA569590 ngày
25/11/2015. Đến ngày 01/12/2015, ông H dẫn mẹ tôi là bà Nguyễn Thị K1 đi lập di
chúc với nội dung: Để lại toàn bộ nhà và đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán,
chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho ông Trần H quản lý sử
dụng. Đến ngày 03/8/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại quận K chỉnh lý
biến động sang tên cho ông Trần H. Sau đó ông H đã sắm ổ khóa mới, khóa cửa lại và
không cho anh em chúng tôi vào nhà để thắp hương cho ông bà tổ tiên. Anh em
chúng tôi rất bất bình với việc làm sai trái của ông H, làm cho anh em gây gỗ, bất
đồng trong cuộc sống, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Nay tôi yêu cầu Tòa án
giải quyết những vấn đề sau:
- Yêu cầu tuyên bố di chúc của bà Nguyễn Thị K1 lập ngày 01/12/2015 tại
Phòng Công chứng X thành phố Đ công chứng số 15076 TP/CC-SCC/HĐGD là
không hợp pháp.
- Yêu cầu hủy phần chỉnh lý biến động với nội dung "Để thừa kế cho ông Trần
H (sinh năm: 1952, CMND số: 200109142, địa chỉ thường trú: Phường X, quận K,
thành phố Đ); theo hồ sơ số 253491.TK.001" do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai tại quận K chỉnh lý ngày 03/8/2017 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 569590 do Sở tài nguyên
và môi trường thành phố Đ cấp ngày 25/11/2015.
Vì những lý do sau:
lOMoARcPSD| 40551442
+ Thời điểm bà Nguyễn Thị K1 lập di chúc vào ngày 01/12/2015 thì bà K1 đang bị
bệnh hiểm nghèo, được điều trị tại Bệnh viện ung bướu thành phố Đà Nẵng nên bà
K1 không được minh mẫn và không làm chủ được hành vi của mình.
+ Nội dung di chúc của bà Trần Thị K là để lại toàn bộ di sản của bà K để làm nhà
thờ tự, không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp và giao cho bà Nguyễn
Thị K1 quản lý sử dụng nhưng bà K1 đã để lại thừa kế di sản cho ông Trần H. Theo
tôi đây là một hình thức tặng cho tài sản nên không phù hợp với nội dung di chúc của
bà K. Đồng thời, khi bà K1 lập di chúc không có mặt đông đủ và có sự thống nhất
của các con của bà K1.
+ Để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị K1 thì
ông Trần H đã làm thủ tục báo mất, trong khi đó tôi là người trực tiếp giữ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất số 3402032004 ngày 18/3/2003
mang tên bà Trần Thị K. Do vậy, hành vi báo mất giấy tờ của ông Trần H là vi phạm
pháp luật.
Đối với ngôi nhà và đất tại thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13, địa chỉ: K428A/14 V,
phường X, quận K, thành phố Đ, tôi yêu cầu ông Trần H và ông Trần Trương Quang
D từ nay và mãi mãi về sau không được tự ý sửa chữa nhà và chuyển nhượng nếu
không được sự đồng ý của tất cả anh em trong gia đình.
* Tại Bản tự khai, các Biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy
quyền của bị đơn – ông Trần H là ông Đào Ngọc T trình bày:
Sinh thời, bà Trần Thị K có tạo lập tài sản gồm nhà và đất tại thửa đất số 137, tờ bản
đồ số 13, địa chỉ: Tổ 30B phường X, quận K, thành phố Đ, đã được Ủy ban nhân dân
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất số
3402032004 ngày 18/3/2003.
Đến ngày 22/5/2009, bà K đã lập di chúc chứng thực tại Phòng Công chứng Y thành
phố Đ với nội dung là để lại toàn bộ di sản của bà K để làm nhà thờ tự, không được
bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp và giao cho bà Nguyễn Thị K1 quản lý sử
dụng.
lOMoARcPSD| 40551442
Sau khi bà K mất thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất số
3402032004 ngày 18/3/2003 bị mất nên ngày 19/01/2015, ông H đã làm đơn xin trình
báo mất giấy tờ liên quan đến nhà ở và đất ở tại thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13 và
có xác nhận của Công an phường X. Ngày 25/4/2015, bà K1 nộp đơn đề nghị đăng ký
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Đ nên ngày 25/11/2015 Sở tài
nguyên và môi trường thành phố Đ ban hành Quyết định số 712/QĐ-STNMT ngày
25/11/2015 về việc "hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất
số 3402032004 do Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp cho bà Trần Thị K ngày
18/3/2003".
Ngày 24/6/2015, trên cơ sở bản di chúc mà bà K đã lập, bà Nguyễn Thị K1 đã thực
hiện thủ tục kê khai nhận di sản thừa kế của bà K. Ngày 25/11/2015, bà K1 được Sở
tài nguyên và môi trường thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 569590 ngày 25/11/2015.
Ngày 01/12/2015, tại Phòng Công chứng X thành phố Đ bà K1 đã lập di chúc với nội
dung để lại toàn bộ ngôi nhà và đất này để làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp và giao cho con trai là ông Trần H quản lý sử dụng.
Trên cơ sở di chúc của bà Nguyễn Thị K1 lập được Phòng Công chứng X thành phố
Đ công chứng số 15076 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/12/2015 thì ông Trần H đã
đăng ký biến động đất đai và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại quận K
chỉnh lý biến động đất đai trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CA 569590 do Sở tài nguyên và môi trường thành
phố Đ cấp ngày 25/11/2015 với nội dung: "Để thừa kế cho ông Trần H (sinh năm:
1952, CMND số: 200109142, địa chỉ thường trú: Phường X, quận K, thành phố Đ);
theo hồ sơ số 253491.TK.001" vào ngày 03/8/2017.
Từ những cơ sở trên, chúng tôi có ý kiến như sau:
+ Thứ nhất, đối với di chúc của bà Trần Thị K lập ngày 22/5/2009 được Phòng Công
chứng Y thành phố Đ công chứng số 6456, quyển số /TP/CC- SCC/HĐGD ngày

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40551442 ĐỀ BÀI TẬP NHÓM
Đề số 20: Hãy sưu tầm một bản án của Toà án liên quan đến việc tuyên bố di chúc
không hợp pháp mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định
của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu chung: Yêu cầu:
1. Từ bản án, quyết định đã sưu tầm được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng
tình huống dài tối đa 1 trang A4 (giãn dòng 1.5, cỡ chữ 14, không giãn đoạn, không giãn chữ).
2. Hãy chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quyết định hoặc bản án sơ thẩm mà
nhóm đã sưu tầm và giải thích vì sao nhóm lại cho rằng chưa phù hợp?
3. Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật.
4. Từ việc phân tích vụ án, nhóm hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành. MỤC LỤC I. MỞ
ĐẦU………………………………………………………………………..1 II. NỘI
DUNG…………………………………………………………………….1 1.
Tóm tắt nội dung vụ việc từ bản án số
29/2020/DSST………………………...1 2.
Những điểm chưa phù hợp trong bản án và quyết
định…………………………3 lOMoAR cPSD| 40551442
2.1. Việc bà K để lại toàn bộ di sản làm thờ
cúng…………………………………3
2.2. Nhận định của Toà án về tính hợp pháp của di chúc của bà K1…….………...5 3.
Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp theo quy định phápluật hiện
hành…………………………………………………………………………..6
3.1. Phân chia di sản thành từng phần hợp
lí………………………………………6
3.2. Yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét lại nội dung và tính hợp pháp về di
chúccủa bà K1 và đưa ra cách xử lí phù hợp theo quy định pháp
luật……………………...7 4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật
hiện hành…………………………….8
4.1.Nhật xét chung về quy định pháp luật hiện hành……………………………...8
4.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành…………………………..9
Kết luận……………………………………………………………………...10
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………...….12
Phụ lục………………………………………………………………………..13
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT GCN Giấy chứng nhận lOMoAR cPSD| 40551442 QSDĐ
Quyền sử dụng đất BLDS Bộ luật Dân sự UBND Uỷ ban Nhân dân lOMoAR cPSD| 40551442 I. LỜI MỞ ĐẦU
Di chúc chính là sự biểu thị ý nguyện của cá nhân nhằm chuyển giao tài sản mà họ
sở hữu cho người khác sau khi chết. Thông qua việc lập di chúc, người lập có thể chủ
động sắp xếp, phân chia di sản theo mong muốn cá nhân, đồng thời góp phần bảo đảm
quyền lợi của những người thừa kế, hạn chế tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh giữa các
chủ thể liên quan sau khi người để lại di sản qua đời. Với vai trò là cơ sở để xác lập
quyền thừa kế một cách hợp pháp và minh bạch, di chúc mang ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc bảo đảm quyền định đoạt đối với tài sản, cũng như tạo ra sự ổn định
cho các mối quan hệ dân sự phát sinh trong lĩnh vực thừa kế. Xuất phát từ tầm quan
trọng cũng như ý nghĩa to lớn của di chúc, Bộ luật dân sự của nước ta đã quy định cụ
thể và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện các điều kiện để đảm bảo hiệu
lực của di chúc. Tuy nhiên, vẫn còn một số lỗ hổng trong vấn đề di chúc. Vấn đề về di
chúc không hợp pháp vẫn đang là một trong những vấn đề bất cập hiện nay, gây ra
nhiều tranh cãi trái chiều trong quá trình xét xử các vụ án liên quan. Những vụ việc
như vậy không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, mà còn
đặt ra những yêu cầu cấp thiết về việc làm rõ và hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp
luật liên quan đến di chúc và thừa kế. Dựa trên những thực tế này, nhóm quyết định
chọn đề tài số 20: “ Hãy sưu tầm một bản án của Tòa án liên quan đến việc tuyên bố
di chúc không hợp pháp mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy
định của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu chung”
Sau đây nhóm sẽ sử dụng bản án số 29/2020/DS-ST ngày 10/09/2020 của Tòa án
nhân dân Quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng về tranh chấp yêu cầu tuyên bố di chúc là
không hợp pháp làm cơ sở để phân tích, đánh giá và trình bày quan điểm pháp lý của nhóm. II. NỘI DUNG
Câu 1: Tóm tắt nội dung vụ việc từ bản án số 29/2020/DS-ST. lOMoAR cPSD| 40551442
Em gái ông Đ là bà K, sinh năm 1961 có tạo lập được một khối tài sản là quyền sở
hữu nhà và QSDĐ theo GCN quyền sở hữu nhà ở và QSDĐ ở số phát hành
3402032004, hồ sơ gốc số 65365 do UBND thành phố Đ cấp ngày
18/3/2003. Năm 2009, trước khi chết, bà K có để lại di chúc cho mẹ là bà K1 với nội
dung: Để lại toàn bộ nhà và đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển nhượng,
tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho bà K1 quản lý sử dụng. Tại thời điểm sau khi
bà K chết, ông Đ là người trực tiếp giữ GCN quyền sở hữu nhà ở và QSDĐ số
3402032004 do UBND thành phố Đ cấp ngày 18/3/2003 nhưng ông H không biết nên
ngày 19/01/2015, ông H đã làm đơn xin trình báo mất giấy tờ liên quan đến nhà ở và
đất ở tại thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13 và có xác nhận của Công an phường X. Ngày
25/4/2015, bà K1 nộp đơn đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Đ nên ngày 25/11/2015
Sở tài nguyên và môi trường thành phố Đ ban hành Quyết định số 712/QĐ-STNMT
ngày 25/11/2015 về việc hủy GCN quyền sở hữu nhà ở và QSDĐ số phát hành
3402032004 do UBND thành phố Đ cấp cho bà K ngày 18/3/2003. Ngày 24/6/2015,
bà K1 đã thực hiện thủ tục kê khai nhận di sản thừa kế của bà K. Ngày 25/11/2015, bà
K1 được Sở tài nguyên và môi trường thành phố Đ cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản gắn liền với đất số CA 569590 ngày 25/11/2015.
Năm 2015, ông H dẫn bà K1 đi lập di chúc với nội dung: Để lại toàn bộ nhà và
đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh
và giao cho ông H quản lý sử dụng. Đến ngày 03/8/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai tại quận K chỉnh lý biến động sang tên cho ông H. Nay ông Đ yêu cầu
Tòa án tuyên bố di chúc của bà K1 là không hợp pháp; Yêu cầu hủy phần chỉnh lý biến
động do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại quận K chỉnh lý ngày 03/8/2017, và
cấm ông H cùng ông D thực hiện bất kỳ thay đổi nào đối với tài sản tranh chấp mà
không có sự đồng ý của tất cả các thành viên trong gia đình. Trái lại, bị đơn, ông H,
thông qua người đại diện của mình, khẳng định tính hợp pháp của cả hai di chúc, cho
rằng bà K vẫn minh mẫn khi lập di chúc năm 2009 và di chúc của bà K1 được lập đúng lOMoAR cPSD| 40551442
theo quy định của pháp luật, đồng thời việc đăng ký đất đai cũng được thực hiện một cách hợp lệ.
Tòa án đã Chấp nhận yêu cầu khởi kiện "Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố di chúc
là không hợp pháp" của nguyên đơn ông Đ, tuyên bố di chúc do bà K1 là không hợp
pháp. Kiến nghị Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ - Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai tại quận K, thành phố Đ điều chỉnh biến động phù hợp với kết quả giải quyết
của Tòa án và theo quy định của pháp luật, đồng thời tuyên mức án phí phải nộp đối
với các nguyên đơn và bị đơn. 2.
Chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong bản án và quyết định theo
quanđiểm của nhóm và giải thích tại sao.
2.1. Việc bà K để lại toàn bộ di sản làm thờ cúng.
Theo nguyên văn di chúc, bà Trần Thị K có ghi rõ:
“Nay tôi lập di chúc này để lại toàn bộ ngôi nhà đất nói trên dùng làm nhà thờ
tự, không được chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho mẹ tôi có tên
sau đây quản lý sử dụng:
Bà Nguyễn Thị K1, sinh năm 1927, Chứng minh nhân dân số: 200486xxx cấp
tại Công an Quảng Nam Đà Nẵng ngày 01/8/1927. Nơi thường trú: Tổ 28, phường X, quận K, thành phố Đ.
Trường hợp ngôi nhà đất nói trên nằm trong diện quy hoạch giải tỏa thì mẹ tôi -
Nguyễn Thị K1 là người nhận tiền đền bù và mua đất xây dựng ngôi nhà để thờ tự.
Ngoài ra, các cháu nội ngoại ở xa, nếu có nguyện vọng thì được ở lại ngôi nhà trên,
thuận lợi cho việc học hành của các cháu.”
Có thể thấy rằng, bà K đã thể hiện rõ ý chí để lại toàn bộ căn nhà và QSDĐ
liên quan cho mục đích thờ cúng, đồng thời chỉ định bà K1 là người quản lý và sử
dụng tài sản này sau khi bà qua đời. Bà K cũng thể hiện rõ di nguyện của mình là tài
sản này không được chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh – tức là giới hạn lOMoAR cPSD| 40551442
mọi quyền định đoạt tài sản này để bảo đảm tài sản được sử dụng đúng theo mục đích thờ tự lâu dài.
Theo Điều 163 BLDS 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền
tài sản. Trong đó, quyền sử dụng đất được xem là một loại quyền tài sản, do đó có thể
được định đoạt trong di chúc. Căn cứ theo khoản 3 Điều 648 BLDS 2005, người lập di
chúc có quyền sau: "Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.".
Quy định này thể hiện rõ ràng rằng, pháp luật cho phép cá nhân lập di chúc dành một
phần di sản của mình để phục vụ cho việc thờ cúng sau khi qua đời. Tuy nhiên, điểm
quan trọng ở đây là pháp luật chỉ cho phép để lại “một phần” tài sản cho mục đích thờ
cúng, chứ không cho phép cá nhân để lại toàn bộ di sản vào mục đích này. Mặc dù
trong thực tiễn, pháp luật chưa đưa ra một tỷ lệ cụ thể nào cho khái niệm "một phần",
nhưng việc để lại toàn bộ tài sản (như trường hợp của bà K) cho mục đích thờ cúng rõ
ràng là đã vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật hiện hành. Việc dành toàn bộ tài
sản để làm nhà thờ tự đồng nghĩa với việc không để lại phần di sản nào cho những
người thừa kế khác, điều này có thể dẫn đến xung đột quyền lợi và vi phạm quy định
về quyền thừa kế hợp pháp của các chủ thể liên quan.
Dưới góc độ hiệu lực pháp lý của di chúc, điểm b khoản 1 Điều 652 BLDS 2005
quy định một trong các điều kiện để di chúc hợp pháp là: "Nội dung di chúc không trái
pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.”. Từ
đây có thể thấy rằng, mặc dù di chúc của bà K có mục đích hợp lý là dùng tài sản làm
nơi thờ cúng tổ tiên, nhưng việc để lại toàn bộ di sản cho mục đích này có thể bị xem
là vi phạm điều cấm gián tiếp do trái với giới hạn tại khoản 3 Điều 648 BLDS. Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý rằng đây là vấn đề còn có thể tranh cãi về mặt áp dụng luật, bởi
vì pháp luật hiện nay chưa xác định cụ thể như thế nào là “một phần”. Vì vậy, di chúc
này có thể bị coi là chưa phù hợp với quy định pháp luật, tuy không hoàn toàn bị vô
hiệu. Tóm lại, di chúc của bà K đã thể hiện rõ ý chí và mong muốn để lại toàn bộ tài
sản cho mục đích thờ cúng, thể hiện sự tôn kính đối với truyền thống gia đình. Tuy
nhiên, việc để lại toàn bộ di sản cho mục đích này đã vượt quá giới hạn mà pháp luật
cho phép. Theo quy định tại khoản 3 Điều 648 BLDS 2005, cá nhân chỉ được phép lOMoAR cPSD| 40551442
dành một phần tài sản cho việc thờ cúng. Vì vậy, nội dung di chúc trên được đánh giá
là chưa phù hợp với pháp luật, và có thể bị Tòa án điều chỉnh nếu có tranh chấp phát
sinh trong quá trình phân chia di sản.
2.2. Nhận định của Toà án về tính hợp pháp của di chúc của bà K1.
Theo nhận định của toà án: “Việc bà K1 để lại di chúc cho ông H là một hình thức
định đoạt phần di sản thừa kế do bà K để lại là không phù hợp với điểm b khoản 2 Điều
639 BLDS 2005. Do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, tuyên bố di chúc của bà K1 lập ngày 01/12/2015 là không hợp pháp.” Việc toà án
cho rằng di chúc của bà K1 là không hợp pháp do “Việc bà K1 để lại di chúc cho ông
H là một hình thức định đoạt phần di sản thừa kế do bà K để lại là không phù hợp với
điểm b khoản 2 Điều 639 BLDS 2005”. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm nhận
định này là chưa hợp lí vì:
Thứ nhất, trên thực tế việc bà K1 đã được Sở tài nguyên và môi trường thành phố
Đ cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CA 569590 ngày
25/11/2015 sau khi bà K1 đã hoàn tất thủ tục kê khai nhận di sản thừa kế nên bà K1
có quyền sở hữu nhà, QSDĐ vì thế bà K1 hoàn toàn có quyền sử dụng, định đoạt đối
với di sản mà bà K để lại theo Điều 168 Luật đất đai 2013: “Người sử dụng đất được
thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp
vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận...”. Vì vậy, việc cho rằng bà “định đoạt
phần di sản do bà K để lại” là không phù hợp, bởi tại thời điểm lập di chúc, tài sản
không còn là di sản của bà K, mà đã là tài sản của bà K1. Nhưng, việc bà K1 được Sở
tài nguyên và môi trường thành phố Đ cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất số CA 569590 ngày 25/11/2015 là điểm còn bất cập vì trên thực tế,
việc bà K để lại toàn bộ di sản dùng làm thờ cúng mà theo khoản 1 Điều 670 BLDS
2005, trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế nên bà K1 hoàn toàn không có quyền định
đoạt đối với ngôi nhà đất dùng làm thờ cúng, cũng vì thế mà Sở tài nguyên và môi
trường thành phố Đ không có thẩm quyền cấp GCNQSHN và SDĐ của ngôi nhà đất nói trên cho bà K1. lOMoAR cPSD| 40551442
Thứ hai, theo điểm b khoản 2 điều 639 BLDS 2005 quy định rằng: “người đang
chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật này có nghĩa vụ
phải thông báo về di sản cho những người thừa kế”. Nhưng tại khoản 2 Điều 638 BLDS
2005 quy định: “Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và
những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho
đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”. Mà trong di chúc của bà
K1 có nội dung: “Nay tôi lập di chúc này để lại toàn bộ ngôi đất nói trên dùng làm nhà
thờ tự, không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho con
trai tôi là H, sinh ngày 15/8/1952, có CMND số 200109142 do Công an Đà Nẵng cấp
ngày 30/6/2009, thường trú tại tổ 33, phường X, quận K, thành phố Đ được quyền quản
lý, sử dụng mà không ai được tranh giành hay khiếu nại. Trong trường hợp nhà đất nói
trên nằm trong diện quy hoạch giải tỏa thì con trai tôi H – là người nhận tiền đền bù và
mua đất xây nhà để thờ tự.” vì thế ông H đã là người được bà K1 chỉ định là người
quản lí, sử dụng. Vì vậy việc viện dẫn điểm b khoản 2 Điều 639 BLDS 2005 cho nhận
định của Toà án là không phù hợp. Từ đó, nhóm cho rằng nhận định về tính hợp pháp
về di chúc của bà K1 của Toà án là chưa hợp lí. 3.
Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định củapháp luật.
3.1. Phân chia di sản thành từng phần hợp lí.
Trên cơ sở di chúc của bà K, từ việc bà K để lại toàn bộ di sản làm thờ tự, nhóm
đưa ra hướng giải quyết theo quy định của pháp luật hiện hành cho vấn đề này như
sau. Thứ nhất, phân chia hợp lý di sản thành các phần. Dựa trên Điều 626 và trên tinh
thần của Điều 645 BLDS 2015, để hài hòa giữa nguyện vọng thờ cúng, ý chí của người
lập di chúc và quyền lợi của các thừa kế, chia di sản thành hai phần tài sản như sau:
Một phần dùng để thờ tự (ví dụ: nhà thờ, đất thờ tự, tài sản thiêng liêng). Phần còn lại
chia cho các thừa kế cá nhân (ví dụ: tiền, đất, tài sản khác...). Mặt khác, có thể áp dụng
nguyên tắc bảo vệ người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Theo khoản 1
Điều 644 BLDS 2015, những người sau đây vẫn được hưởng hai phần ba suất của một lOMoAR cPSD| 40551442
người thừa kế theo pháp luật, đó là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành
niên mà không có khả năng lao động. Nếu di chúc dành toàn bộ di sản cho việc thờ
cúng mà không đảm bảo quyền lợi cho những người này, phần di sản thờ cúng có thể
được trích ra để bảo vệ quyền lợi cho họ. Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể
về tỷ lệ của di sản dùng vào việc thờ cúng vậy nên tỷ lệ "một phần" tài sản dành cho
thờ cúng nên được Tòa án xác định phù hợp, căn cứ vào giá trị di sản, phong tục, nhu
cầu thực tế thờ cúng. Phần còn lại sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.
3.2. Yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét lại nội dung và tính hợp pháp về di
chúc của bà K1 và đưa ra cách xử lí phù hợp theo quy định pháp luật.
Để giải quyết hợp lý, cần xác minh rõ nội dung di chúc của bà K cũng như xem
xét thực tế việc thờ cúng hiện nay: Nếu hiện không có ai thực hiện việc thờ cúng hoặc
không còn nhu cầu sử dụng tài sản cho mục đích thờ cúng, thì phần di sản này có thể
được chia thừa kế, và theo khoản 5 Điều 221, Điều 234 của BLDS 2015 thì ông Trần
H là người thừa kế duy nhất đối với tài sản là nhà và đất tại thửa đất số 137, tờ bản đồ
số 13, địa chỉ: Tổ 30B phường X, quận K, thành phố Đ theo di chúc lập ngày
01/12/2015 của bà K1 được Phòng Công chứng X thành phố Đ công chứng số 15076
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/12/2015 và thủ tục đăng ký biến động đối với tài sản này
được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Ngược lại, nếu tài sản vẫn đang được
dùng đúng mục đích thờ cúng, thì GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở này phải được thu
hồi và làm lại thủ tục từ đầu đối với ngôi nhà đất nói trên vì bà K1 không có quyền
định đoạt với ngôi nhà đất này và giao tài sản cho người được chỉ định trông coi hoặc
do các thừa kế thỏa thuận, trong trường hợp này thì căn cứ Điều 645 của Bộ luật dân
sự năm 2015 thì ông H hiện là người đang quản lý hợp pháp đối với nhà và đất tại
428A/14 V, tổ 30, phường X, quận K, thành phố Đ nên yêu cầu giao cho ông Trần H
là người quản lý đối với di sản thừa kế này.
Việc tuyên bố toàn bộ di chúc của bà K1 là không hợp pháp là thiếu cơ sở pháp lý
và không bảo đảm nguyên tắc tôn trọng ý chí của người lập di chúc theo quy định của
pháp luật dân sự. Trong khi lập luận và căn cứ chứng minh vi phạm về tính hợp pháp lOMoAR cPSD| 40551442
về di chúc bà K1 của Toà án là chưa thuyết phục như nhóm đã trình bày ở trên, việc
tuyên bố vô hiệu toàn bộ di chúc là không hợp lí và có thể gây thiệt hại cho người được
chỉ định trong di chúc cũng như làm phát sinh những tranh chấp không đáng có. Do
đó, Tòa án cần xem xét lại vụ việc một cách toàn diện, khách quan để bảo đảm quyền
định đoạt tài sản của người lập di chúc được tôn trọng và thực thi đúng theo quy định của pháp luật. 4.
Từ việc phân tích vụ án, nhóm đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định
phápluật hiện hành.
4.1.Nhật xét chung về quy định pháp luật hiện hành.
Hiện nay, pháp luật chỉ quy định người lập di chúc có quyền để lại “một phần” di
sản để làm thờ cúng nhưng lại không đưa ra bất kỳ căn cứ định lượng hay nguyên tắc
đánh giá cụ thể nào để xác định thế nào là “một phần” hợp lý. Sự mơ hồ trong quy định
này đã gây ra không ít khó khăn cho cơ quan xét xử khi giải quyết các tranh chấp thừa
kế, đặc biệt là trong các trường hợp người lập di chúc để lại toàn bộ hoặc phần lớn tài
sản cho việc thờ cúng. Do không có tiêu chí rõ ràng, các Tòa án có thể đưa ra cách hiểu
và phán quyết khác nhau trong những vụ việc tương tự, từ đó dẫn đến án lệ không
thống nhất, gây ảnh hưởng đến sự công bằng và hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật.
Điều này cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật theo hướng cụ
thể hóa giới hạn phần tài sản dành cho thờ cúng, tạo cơ sở rõ ràng để Tòa án áp dụng
thống nhất và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các đồng thừa kế.
Bên cạnh đó, một số chủ thể áp dụng pháp luật còn thiếu trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ hoặc không đảm bảo tính khách quan, dẫn đến việc áp dụng pháp luật
thiếu chính xác, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, một số quy định pháp luật
còn chung chung, thiếu rõ ràng, dễ gây hiểu lầm hoặc khó thực thi trong thực tế.
4.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành.
Để tránh việc lạm dụng di chúc để gạt bỏ quyền thừa kế hợp pháp của những người
thân thích dưới danh nghĩa "thờ cúng", đặc biệt trong các gia đình có nhiều người thừa lOMoAR cPSD| 40551442
kế nhưng tài sản được để lại hoàn toàn cho việc thờ cúng và để hài hòa giữa quyền định
đoạt của người lập di chúc với quyền lợi của những người thừa kế, cũng như đảm bảo
tính hợp lý và đạo đức xã hội. Thiết nghĩ, các nhà làm luật phải dự liệu và có những
kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện nay. Từ những đòi hỏi trên thực tế về vấn
đề này, nhóm chúng em xin đề xuất sửa khoản 3 Điều 626 BLDS 2015 về phần di sản dùng cho việc thờ cúng:
3. Cá nhân có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng hoặc thờ
cúng. Việc để lại toàn bộ di sản cho thờ cúng chỉ có hiệu lực nếu được tất cả những
người thừa kế hợp pháp đồng ý, phần tài sản dùng để thờ cúng không được vượt quá
một phần hai tổng giá trị di sản, nếu vượt quá thì phần vượt quá sẽ không có hiệu lực
và sẽ được xử lí theo quy định pháp luật.
Một phần di sản dùng vào việc thờ cúng được xác định căn cứ vào cách chia di
sản của người chết thành nhiều phần bằng nhau, nếu chọn cách chia thành một trăm
phần, theo đó một phần không thể lớn hơn năm mươi phần trăm của tổng giá trị di sản
của người lập di chúc để lại. Nếu phần di sản dùng vào việc thờ cúng lớn hơn năm
mươi phần trăm tổng giá trị di sản của người lập di chúc để lại thì đó là phần lớn mà
không thể hiểu là một phần.[1]
Việc sửa đổi quy định về phần di sản dùng vào việc thờ cúng có ý nghĩa rất quan
trọng trong thực tiễn pháp lý và đời sống xã hội. Trước hết, nó giúp ngăn chặn hành vi
lợi dụng danh nghĩa "thờ cúng" để loại bỏ các đồng thừa kế hợp pháp khác, từ đó bảo
vệ tốt hơn quyền lợi của những người có quyền thừa kế, đặc biệt là con, cháu, hoặc
những người đang phụ thuộc vào di sản. Bên cạnh đó, việc quy định rõ giới hạn phần
tài sản dành cho thờ cúng cũng tránh được tình trạng lãng phí hoặc sử dụng di sản
không đúng mục đích. Về mặt tố tụng, sửa đổi này sẽ tạo điều kiện cho các tòa án áp
dụng pháp luật một cách thống nhất, hợp lý hơn: không cần tuyên vô hiệu toàn bộ di
chúc nếu chỉ có một phần vượt quá giới hạn hợp lý, mà chỉ vô hiệu phần sai phạm, bảo
vệ ý chí thực sự của người lập di chúc. Đồng thời, quy định rõ ràng về phạm vi tài sản
thờ cúng cũng giúp người dân hiểu rõ hơn giới hạn hợp pháp, từ đó chủ động cân đối
phần tài sản để lại cho việc thờ cúng và phần để lại cho người thân. Điều này không lOMoAR cPSD| 40551442
chỉ góp phần bảo đảm công bằng trong phân chia di sản mà còn giúp giảm thiểu nguy
cơ tranh chấp, mâu thuẫn gia đình sau khi chia thừa kế, giữ gìn được tình cảm và sự ổn
định trong nội bộ gia đình sau khi người để lại di sản qua đời.
Cuối cùng, chủ thể áp dụng pháp luật cần nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy
định của pháp luật hiện hành và cũng cần phải cần đánh giá chứng cứ một cách khách
quan, toàn diện và khoa học, đảm bảo đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn và
tính công tâm trong hoạt động xét xử. Quan trọng hơn, Hội đồng Thẩm phán TANDTC
cần tiến tới việc phát triển, xây dựng những án lệ mang tính chuẩn mực, hợp tình hợp
lý đối với những vụ việc thực tiễn phát sinh tại Tòa án về vấn đề di chúc không hợp pháp. III. KẾT LUẬN
Pháp luật dân sự là yếu tố quan trọng quyết định giao dịch dân sự nói chung và
việc xác lập, thực hiện quyền thừa kế nói riêng, bởi đây là những quan hệ dân sự phổ
biến trong đời sống hiện nay của nhân dân ta. Trong thực tiễn, tranh chấp về hiệu lực
của di chúc là một trong những dạng tranh chấp thường gặp và phức tạp, có thể kéo dài
qua nhiều cấp xét xử với những quan điểm không thống nhất, gây ra những tranh luận,
thậm chí dẫn đến những phán quyết chưa thật sự thỏa đáng. Thông qua nghiên cứu bản
án sơ thẩm số 29/2020/DS-ST ngày 10/09/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng liên quan đến tranh chấp yêu cầu tuyên bố di chúc không hợp pháp.
Bằng những hiểu biết còn hạn chế nhóm đã chỉ ra những điểm chưa thật sự hợp lý trong
việc áp dụng pháp luật và phân tích lập luận của Hội đồng xét xử theo quan điểm của
nhóm. Đồng thời, nhóm cũng đề xuất phương pháp giải quyết tranh chấp phù hợp hơn
với các quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành và thực tiễn xét xử. Không thể phủ nhận
tính hiệu quả của hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế, tuy nhiên
những bất cập, thiếu thống nhất trong cách hiểu và vận dụng pháp luật vẫn còn tồn tại,
ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Do vậy, nhóm mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị bổ sung nhằm góp phần hoàn
thiện các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc xác định hiệu lực pháp lý lOMoAR cPSD| 40551442
của di chúc. Bài làm của nhóm chúng em tuy đã có sự tìm hiểu và suy luận kĩ càng
nhưng vẫn còn có những thiếu sót nhất định. Nhóm 01 mong nhận được sự góp ý từ
thầy cô bộ môn Luật dân sự 1 để có thêm kinh nghiệm, phát huy những bài tập nhóm
sau này tốt hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn! lOMoAR cPSD| 40551442
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản quy phạm pháp luật:
Bộ luật Dân sự 2015, luật số 91/2015/QH13
Bộ luật Dân sự 2005, luật số 33/2005/QH11
Luật Đất Đai 2013, luật số 45/2013/QH13 2. Sách tham khảo:
[1]. TS. Đinh Trung Tụng(Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015, Quyển
2, (Bình luận phần thứ ba, phần thứ tư và phần phần thứ năm), NXB Tư pháp, tr 398. lOMoAR cPSD| 40551442 V. PHỤ LỤC
*** Trích dẫn Bản án 29/2020/DS-ST của Toà án Nhân dân quận Thanh Khê - Thành phố Đà Nẵng
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 29/2020/DS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU
TUYÊN BỐ DI CHÚC LÀ KHÔNG HỢP PHÁP
Trong ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng, Tòa án xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 227/2019/TLST-DS
ngày 23/12/2019 về việc "Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố di chúc là không hợp pháp"
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 227/2020/QĐXXST-DS ngày 22/6/2020; Quyết
định hoãn phiên tòa số 45/2020/QĐST-DS ngày 16/7/2020 và Quyết định hoãn phiên
tòa số 56/2020/QĐST-DS ngày 14/8/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Tấn Đ, sinh năm 1956; Địa chỉ: K97/8 đường X, tổ 21,
phường N, quận L, thành phố Đ (có mặt).
- Bị đơn: Ông Trần H, sinh năm 1952; Địa chỉ: K428A/14 đường V, phường X, quận
K, thành phố Đ. Ông H ủy quyền cho ông Đào Ngọc T, sinh năm 1997; Địa chỉ: Số
71 đường L, quận K, thành phố Đ đại diện tham gia tố tụng (theo Giấy ủy quyền
ngày 10/01/2019), (ông T có mặt).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Lê Thị Xuân P – Luật
sư Công ty Luật TNHH K– Chi nhánh Đà Nẵng; Địa chỉ: Phường A, quận C, thành
phố Đà Nẵng (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Trần Thanh H1; sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ 3, thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Q (vắng mặt).
+ Ông Trần S; sinh năm 1968; Địa chỉ: Thôn 3, đội 17, xã L, huyện T, tỉnh Q (có mặt). lOMoAR cPSD| 40551442
+ Bà Trần Thị T; sinh năm 1971; Địa chỉ: Tổ 2, thôn S, xã N, huyện T, tỉnh Q (có mặt).
+ Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ; Địa chỉ: Tầng 15 Tòa nhà T, số
24 đường P, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật ông Tô Văn H, chức vụ:
Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Thành Q, chức vụ: Giám đốc
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại quận K (vắng mặt).
+ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận K, thành phố Đ; địa chỉ: Số
503 đường V, quận K, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật ông Nguyễn
Thành Q, chức vụ: Giám đốc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại quận K (vắng mặt).
+ Phòng Công chứng X, thành phố Đ; địa chỉ: Số 209 đường P, quận K, thành phố
Đ (có đơn xin xét xử vắng mặt).
+ Ông Trần Trương Quang D, sinh năm 1983; Địa chỉ: 45/26 đường D, phường T,
quận K, thành phố Đ (có mặt). - Người làm chứng:
+ Bà Tạ Thị H3, sinh năm 1949; Địa chỉ: Tổ 30, phường X, quận K, thành phố Đ (có
đơn xin xét xử vắng mặt).
+ Bà Châu Thị V, sinh năm 1976; Địa chỉ: Tổ 28, phường X, quận K, thành phố Đ
(có đơn xin xét xử vắng mặt). NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai, các Biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm
nay, Nguyên đơn là ông Trần Tấn Đ trình bày:
Sinh thời, em gái tôi là bà Trần Thị K, sinh năm 1961 có tạo lập được một khối tài
sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 3402032004 do Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp ngày 18/3/2003, có diện
tích đất 38,4m2, thuộc thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13 tại địa chỉ Tổ 30B, phường X, lOMoAR cPSD| 40551442
quận K, thành phố Đ. Năm 2009, trước khi chết, em tôi có để lại di chúc cho mẹ tôi
với nội dung: Để lại toàn bộ nhà và đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho mẹ tôi quản lý sử dụng. Bản thân
tôi là người trực tiếp giữ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
nói trên nhưng ông Trần H đã tự ý dẫn mẹ tôi làm báo mất sổ để cấp sổ mới đứng tên
mẹ tôi theo di chúc của em gái tôi và đã được Sở tài nguyên và môi trường thành phố
Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CA569590 ngày
25/11/2015. Đến ngày 01/12/2015, ông H dẫn mẹ tôi là bà Nguyễn Thị K1 đi lập di
chúc với nội dung: Để lại toàn bộ nhà và đất dùng làm nhà thờ tự, không được bán,
chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh và giao cho ông Trần H quản lý sử
dụng. Đến ngày 03/8/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại quận K chỉnh lý
biến động sang tên cho ông Trần H. Sau đó ông H đã sắm ổ khóa mới, khóa cửa lại và
không cho anh em chúng tôi vào nhà để thắp hương cho ông bà tổ tiên. Anh em
chúng tôi rất bất bình với việc làm sai trái của ông H, làm cho anh em gây gỗ, bất
đồng trong cuộc sống, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Nay tôi yêu cầu Tòa án
giải quyết những vấn đề sau: -
Yêu cầu tuyên bố di chúc của bà Nguyễn Thị K1 lập ngày 01/12/2015 tại
Phòng Công chứng X thành phố Đ công chứng số 15076 TP/CC-SCC/HĐGD là không hợp pháp. -
Yêu cầu hủy phần chỉnh lý biến động với nội dung "Để thừa kế cho ông Trần
H (sinh năm: 1952, CMND số: 200109142, địa chỉ thường trú: Phường X, quận K,
thành phố Đ); theo hồ sơ số 253491.TK.001" do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai tại quận K chỉnh lý ngày 03/8/2017 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 569590 do Sở tài nguyên
và môi trường thành phố Đ cấp ngày 25/11/2015. Vì những lý do sau: lOMoAR cPSD| 40551442
+ Thời điểm bà Nguyễn Thị K1 lập di chúc vào ngày 01/12/2015 thì bà K1 đang bị
bệnh hiểm nghèo, được điều trị tại Bệnh viện ung bướu thành phố Đà Nẵng nên bà
K1 không được minh mẫn và không làm chủ được hành vi của mình.
+ Nội dung di chúc của bà Trần Thị K là để lại toàn bộ di sản của bà K để làm nhà
thờ tự, không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp và giao cho bà Nguyễn
Thị K1 quản lý sử dụng nhưng bà K1 đã để lại thừa kế di sản cho ông Trần H. Theo
tôi đây là một hình thức tặng cho tài sản nên không phù hợp với nội dung di chúc của
bà K. Đồng thời, khi bà K1 lập di chúc không có mặt đông đủ và có sự thống nhất của các con của bà K1.
+ Để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị K1 thì
ông Trần H đã làm thủ tục báo mất, trong khi đó tôi là người trực tiếp giữ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất số 3402032004 ngày 18/3/2003
mang tên bà Trần Thị K. Do vậy, hành vi báo mất giấy tờ của ông Trần H là vi phạm pháp luật.
Đối với ngôi nhà và đất tại thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13, địa chỉ: K428A/14 V,
phường X, quận K, thành phố Đ, tôi yêu cầu ông Trần H và ông Trần Trương Quang
D từ nay và mãi mãi về sau không được tự ý sửa chữa nhà và chuyển nhượng nếu
không được sự đồng ý của tất cả anh em trong gia đình.
* Tại Bản tự khai, các Biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy
quyền của bị đơn – ông Trần H là ông Đào Ngọc T trình bày:
Sinh thời, bà Trần Thị K có tạo lập tài sản gồm nhà và đất tại thửa đất số 137, tờ bản
đồ số 13, địa chỉ: Tổ 30B phường X, quận K, thành phố Đ, đã được Ủy ban nhân dân
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất số 3402032004 ngày 18/3/2003.
Đến ngày 22/5/2009, bà K đã lập di chúc chứng thực tại Phòng Công chứng Y thành
phố Đ với nội dung là để lại toàn bộ di sản của bà K để làm nhà thờ tự, không được
bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp và giao cho bà Nguyễn Thị K1 quản lý sử dụng. lOMoAR cPSD| 40551442
Sau khi bà K mất thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất số
3402032004 ngày 18/3/2003 bị mất nên ngày 19/01/2015, ông H đã làm đơn xin trình
báo mất giấy tờ liên quan đến nhà ở và đất ở tại thửa đất số 137, tờ bản đồ số 13 và
có xác nhận của Công an phường X. Ngày 25/4/2015, bà K1 nộp đơn đề nghị đăng ký
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Đ nên ngày 25/11/2015 Sở tài
nguyên và môi trường thành phố Đ ban hành Quyết định số 712/QĐ-STNMT ngày
25/11/2015 về việc "hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất
số 3402032004 do Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp cho bà Trần Thị K ngày 18/3/2003".
Ngày 24/6/2015, trên cơ sở bản di chúc mà bà K đã lập, bà Nguyễn Thị K1 đã thực
hiện thủ tục kê khai nhận di sản thừa kế của bà K. Ngày 25/11/2015, bà K1 được Sở
tài nguyên và môi trường thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 569590 ngày 25/11/2015.
Ngày 01/12/2015, tại Phòng Công chứng X thành phố Đ bà K1 đã lập di chúc với nội
dung để lại toàn bộ ngôi nhà và đất này để làm nhà thờ tự, không được bán, chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp và giao cho con trai là ông Trần H quản lý sử dụng.
Trên cơ sở di chúc của bà Nguyễn Thị K1 lập được Phòng Công chứng X thành phố
Đ công chứng số 15076 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/12/2015 thì ông Trần H đã
đăng ký biến động đất đai và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại quận K
chỉnh lý biến động đất đai trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CA 569590 do Sở tài nguyên và môi trường thành
phố Đ cấp ngày 25/11/2015 với nội dung: "Để thừa kế cho ông Trần H (sinh năm:
1952, CMND số: 200109142, địa chỉ thường trú: Phường X, quận K, thành phố Đ);
theo hồ sơ số 253491.TK.001" vào ngày 03/8/2017.
Từ những cơ sở trên, chúng tôi có ý kiến như sau:
+ Thứ nhất, đối với di chúc của bà Trần Thị K lập ngày 22/5/2009 được Phòng Công
chứng Y thành phố Đ công chứng số 6456, quyển số /TP/CC- SCC/HĐGD ngày