lOMoARcPSD| 61458992
Câu 1 ; hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hội khoa học vai trò của mác,
angghen, với sự ra đời của CNXHKH? Tại sao nói mác, angghen đã biến chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học ?
Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học)
chủ nghĩa Mác Lênin nói chung với tính cách sự luận toàn diện (triết học, kinh
tế chính trị hội chính trị) về sdiệt vong tất yếu của chủ nghĩa bản
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi ích cơ
bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự thống
nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa hội khoa học một trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác Lênin. Chủ nghĩa hội khoa học bộ phận thể hiện tập trung nhất
tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học khoa học về các quy luật hội chính trị, học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao
động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
Những điều kiện tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa hội khoa
học:
- Điều kiên kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa bản châu Âu đã đạt được những bước
phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ
nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính
sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn
giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với
lOMoARcPSD| 61458992
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy
chủ nghĩa bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà dân chủ cách
mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa bản, để đề ra luận
khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành
bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội
độc lập. Giai cấp công nhân lực lượng hội khả năng giải quyết những mâu
thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu tổ
chức trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi một luận khoa học hướng dẫn. Tiêu
biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân thành phố
Liông (Pháp) 1831 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong
trào Hiến chương (Anh) 1838 1848. Những phong trào đó tính quần chúng và
mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức
thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra
đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời,
không còn khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa hội khoa học ra đời phản ánh bằng luận
phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học,
văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen và T.
Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn chuyển
hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển
Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ.
Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S. Phuriê,
R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền
lOMoARcPSD| 61458992
đề tưởng văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa hội
khoa học nói riêng.
----. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sra đời của chủ nghĩa hội
khoa học:
- Các Mác (1818 – 1883):
C. Mác người sáng lập ra chủ nghĩa hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ và người thầy
của giai cấp vô sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):
Ph. Ăngghen nhà bác học, lãnh tụ người thầy của giai cấp công nhân hiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến
đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát kiến
ấy, chnghĩa hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa hội khoa học ra đời không
phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C. Mác Ph. Ăngghen soạn thảo
theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” – một tổ chức công nhân
quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca tuyệt tác
của chủ nghĩa Mác, văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào công
nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một cách rõ ràng
sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, theo V.I.
lOMoARcPSD| 61458992
Lênin, xứng đáng được thừa nhận Tuyên ngôn của chủ nghĩa hội thế giới,
“cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” kim chỉ nam cho hành động của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng Sản mácxít lêninnít lấy tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” làm sở cho việc xây dựng đường lối chiến lược
và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: thủ
tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
TẠI SAO ???
Các Mác, Ph. Ăng-ghen đã đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ
thuyết phục để biến chủ nghĩa hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa hội khoa
học. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ vị thế vai
trò của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý luận của mình, đặc biệt
trong bộ “Tư bản”, các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình thái kinh tế -
hội bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn cố hữu, nội
tại, gắn liền với theo quy luật khách quan, tất yếu sẽ bị thay thế bởi hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa hội khoa học,
các ông cũng chra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh giải phóng thoát
khỏi sự nô dịch bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản. Chính vậy, sau này, không phải ngẫu nhiên, V.I. -nin
đặc biệt nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng nhất trong học thuyết Mác việc làm
sáng tỏ vai trò lịch stoàn thế giới của giai cấp sản với cách người xây dựng,
kiến tạo xã hội mới.Và đã trải qua 3 giai đoạn để đi lên chủ nghĩa khoa học :
- Giai đoạn thứ nhất: những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa
thời cổ đại.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Giai câp quý tộc chủ
nô và giai cấp nô lệ là hai giai cấp cơ bản mang tính chất đối kháng quyết liệt.
Mâu thuẫn giai cấp cuộc đấu tranh giai cấp làm nảy sinh những mầm mống tư
tưởng hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại thể hiện trong dòng
“văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian như: chuyện thần
lOMoARcPSD| 61458992
thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa hội không tưởng một mặt phản ánh sbất bình
của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp
thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức
về một hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng rất hồ, vụn vặt, thậm chí muốn
trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thủy”.
- Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu Âu.
Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ kèm theo đó những xung đột giai cấp
cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của mình
và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong bối
cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua các
tác phẩm văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận đại đã lên án,
phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ hữu, đòi hỏi phải thay thế chế độ xã hội
đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.
- Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về bản
hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn
chủ nghĩa bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ
bản chất cố hữu của nó: phản động bóc lột áp bức nhân dân lao động quyền lợi
của giai cấp mình; đây cũng giai đoạn giai cấp sản hiện đại hình thành bắt
đầu thức tỉnh về chính trị.
Trong thời kỳ này, các tưởng hội chủ nghĩa được thể hiện như một học thuyết.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã hội tư bản
chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời đề xuất con đường, biện pháp những dự đoán
thiên tài về xã hội tương lai
lOMoARcPSD| 61458992
Câu 2 ;sứ mệnh của giai cấp công nhân ? những điều kiện quy định smệnh
của giai cấp của công nhân ? liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt
nam?
Sứ mệnh công nhân là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
- SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP VIỆT NAM ;
. Khái niệm giai cấp công nhân (giai cấp vô sản):
Cũng như mọi hiện tượng hội khác, giai cấp công nhân con đcủa một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn
phát triển với những biểu hiện đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất
định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô
sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp
sản hiện đại. Chính vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện
đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp lớn lên cùng với sphát triển của nền đại
công nghiệp đó.
Trong hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp
cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước
đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống,
bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ những người được tự do về thân thể
quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động.
Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần.
Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ
thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Hphải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng
giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp
sản giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, mất hết liệu sản
xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.
lOMoARcPSD| 61458992
giai cấp công nhân bao gồm những công nhân làm những công việc
khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có
hai tiêu chí bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp hội khác.
- Một là, vphương thức lao động, phương thức sản xuất, đó những
người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. thể họ người lao động
trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại hội hóa cao. Đã công nhân hiện đại thì phải gắn
với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai
cấp công nhân hiện đại hạt nhân, bộ phận bản của mọi tầng lớp công
nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta
phải xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động
cho nhà bản bị toàn thể giai cấp sản bóc lột. Tức giá trị thặng
giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí
này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô
sản.
+ Sau cách mạng sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm
quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai
cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
– xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao
động làm chủ những liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ
không còn những người sản như trước và sản phẩm thặng do họ tạo
ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí bản nói trên, chúng ta thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện
đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất hội hóa ngày
càng cao, là lực lượng lao động bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất cải tạo các quan hệ hội; đại biểu
cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày
nay.
lOMoARcPSD| 61458992
. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khi phân tích xã hội bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến đại,
đó quan niệm duy vật về lịch sử học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng
minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa
bản tất yếu cũng khẳng định giai cấp công nhân giai cấp tiên tiến
nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa
bỏ chủ nghĩa bản, xóa bỏ chế đngười bóc lột người, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng hội mới hội hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có
thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp
sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thiết lập chế
độ công hữu vliệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn
thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình,
còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc giải
phóng toàn thể nhân loại.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
Giai cấp công nhân sứ mệnh lịch sử thế giới do địa vị kinh tế - hội
khách quan của nó quy định:
- Dưới chnghĩa bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân ra đời từng bước phát triển. Giai cấp công nhân bộ phận quan
trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất trình độ xã hội hóa cao.
Đây giai cấp tiên tiến nhất, lực lượng quyết định phá vỡ quan hsản
xuất bản chủ nghĩa, người duy nhất khả năng lãnh đạo hội xây
dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất bản
chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời
đại ngày nay.
- Mặc là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không liệu sản
xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai
lOMoARcPSD| 61458992
cấp sản bóc lột giá trị thặng dư hđã tạo ra trong thời gian lao động.
Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô
sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của
tùy thuộc vào quan hệ cung cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường
làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp
sản áp bức, bóc lột ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời
sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân giai cấp tinh thần cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những
điều kiện sinh hoạt khách quan của hquy định rằng, họ chỉ thể giải phóng
mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế
giới về mình.
- Địa vị kinh tế - hội khách quan không chkhiến giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cách mạng triệt để còn tạo cho họ khả năng thực hiện
được sứ mệnh lịch sử đó. Đó khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó khả năng đoàn kết
với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa bản. Đó khả năng đoàn
kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế
chống chủ nghĩa đế quốc.
vậy, C. Mác Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng.
Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp; giai cấp sản, trái lại, sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”.
- Liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt nam?
GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân:
- giai cấp tiên tiến, là giai cấp tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai
cấp tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật tinh thần quốc tế
sản nhưng do hoàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Viêt Nam cònnhững
đặc điểm riêng như sau:
+Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới
ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN MacLênin,
không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, GCCN Viêt Nam từ
lOMoARcPSD| 61458992
khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị với tư cách là
một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu:
+ Giải phóng dân tộc xây dựng thành công CHXH CNCS Viêt Nam.
GCCN khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi sự lãnh
đạo của Đảng Sinh ra trưởng thành một nước phong kiến nửa thuôc địa,
nông nghiệp lạc hậu nện hạn chế lớn nhất của giai cấp công nhân Viêt Nam là
còn chịu ảnh hưởng tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản xuất
nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất, chúng
ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một ngày, hai
ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.
+ GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động tóc,
hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến tri thức. Họ là lực lương đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công
nhân, nông dân trí thức.
+ Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa
được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề
còn thấp. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử chủ
nghĩa GCCN Viêt Nam.
+Xét về bản chất thì chưa thể không thể tổ chức chính trị nào, giai
cấp nào thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng một
hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập
phồn vinh xóa bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
+Sứ mệnh của GCCN Việt Nam giải phóng dân tộc phát triển đất nước
theo định hướng XHCN; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao
động, xây dựng một “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”...
+ Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình trang kém phát triển, nội dung trọng
tâm là đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và giữ
vững định hướng XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định
lOMoARcPSD| 61458992
đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa hiện nay là “Rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức yếu tố quan trọng của nền kinh
tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
+Theo đó phát triển GCCN nước ta cả về số lượng và chất lượng, và tổ chức;
nâng cao giác ngộ bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn nghề nghiệp, xứng
đáng lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Phát triển GCCN cũng chính
phát triển, hoàn thiện chủ thcủa sứ mệnh lịch sử hiện đại - sở hội
quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn
dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
+ Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ thể thực hiện thắng lợi
khi quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thông qua vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà
nước XHCN chế độ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân lao động
nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển.
Câu 3:phân tích thực chất và đặc điểm thời kì quá độ. Liên hệ với Việt
Nam?
C.Mác. Ph.Ănghen, V.I.Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội và chỉ rõ vị trí lịch sử nhiệm vụ đặc thù của nó
trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - hội cộng sản chủ
nghĩa.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, hai con đường quá độ lên chủ nghĩa hội. Con đường thứ
nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước bản chủ nghĩa
phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa
xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, hoặc như
V.l.Lênin cho rằng, những nước nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ
phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong
điều kiện cụ thể nào đó nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp
sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) được một hay nhiều
nước tiên tiến giúp đỡ.
lOMoARcPSD| 61458992
Trên sở vận dụng luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình
thực tế Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam
tiến hành giải phóng dân tộc, hòan thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, tiến dần lên chủ nghĩa hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái q
độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một hội thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa hội.
Chính ở nội dung cụ thể này. Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm
lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta
đặc điểm lớn nhất từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa
hội không
-Phải kinh qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối
các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống hội
làm sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý
đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bthực trạng kinh tế - hội q
thấp kém của nước ta.
-LIÊN HỆ
Hồ Chí Minh chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng để xây dựng CNXH,
đó là:
+Cải tạo hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy
xây dựng làm chính, LẤY VD
+ kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng; xây dựng CNXH phải kế hoạch, biện pháp và quyết
tâm. Đặc biệt, Người xác định biện pháp bản, lâu dài quyết định nhất trong
xây dựng CNXH nước ta phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài
dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm lợi cho dân.
LẤY VD
lOMoARcPSD| 61458992
Câu 4 : Phân tích tính tất yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
bản chủ nghĩa ở Việt Nam.? Nhận thức của đảng ta về quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ?
-- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
- Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ
nghĩa ở Việt Nam:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc
năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin
nói kiểu “đặc biệt của đặc biệt”. Đó sự lựa chọn tất yếu dựa trên những
căn cứ sau:
+ Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, ở những nước
nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa bản lên chủ nghĩa hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đại. Đó cũng là thời đại
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu
Ba, Triều Tiên, Lào…
+ Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát
triển của cách mạng Việt Nam, con đương quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ bản trước hết sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh
chính trị năm 1930” đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đ
lên chủ nghĩa hội” được trình bày Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể
hiện bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động
nước ta khi theo Đảng làm cách mạng là muốn cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân không có con đường nào khác
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển về
kinh tế, chủ nghĩa hội hiện thực sụp đỗ Liên Đông Âu, nhưng Đảng
lOMoARcPSD| 61458992
ta vẫn khẳng định đi lên chnghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn.
Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó
không chỉ là lý tưởng mà là hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của
cách mạng Việt Nam.
- Những phương hướng nhiệm vụ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
+ Một là, xây dựng Nhà nước hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện ngày
càng đầy đủ các quyền dân chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm
kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ thù của nhân dân.
+ Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện nhiệm vụ
trung tâm, nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân.
+ Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập tưng bước
quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo chế thị trường sự quản của Nhà nước.
Kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy hình thức phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
+ Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin tưởng Hồ Chí Minh giữ vị tri chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại, xây dựng một hội dân chủ, văn minh lợi ích chân chính
và phẩm giá con người.
+ Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu sự nghiệp n
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chính sách
lOMoARcPSD| 61458992
đối ngoại hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, trung thành với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước hội chủ
nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới.
+ Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn hội, bảo vệ Tổ quốc các thành quả
cách mạng.
+ Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tưởng tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
--- Nhận thức của đảng ta về quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ?
-Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; chính nhân
dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột khó có ththực
hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi
theo con đường TBCNthời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB,
mặc CNTB đang sự Động lực chủ yếu để phát triển đất nước đại đoàn
kết toàn dân trên sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích nhân, tập thể hội, phát huy
mọi tiềm năng nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn hội...”
điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng
CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công hội thuộc
về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB
không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp
với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN dựa trên sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và
nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - tthức để tổ chức huy động
mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát
triển nền kinh tế thtrường định hướng XHCN, tạo lập sở vật chất - kỹ thuật
cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ không ít khó khăn, nhưng
giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước đại đoàn kết toàn dân trên sở liên minh giữa công nhân
lOMoARcPSD| 61458992
với nông dân trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích nhân,
tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội...
-Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, lúc Đảng ta đã phạm sai
lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược tổ chức thực hiện, nhưng với bản
lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên
nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy
luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - hội trầm trọng. Qua kiểm
điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ n con đường
quá độ lên CNXH; qtrình đổi mới duy, trước hết duy về kinh tế,
Đảng đã xác định hơn phát triển kinh tế nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt đã thu được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII
của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng
để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên
CNXH của nước ta phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam xu thế
phát triển của lịch sử”(6). Như vậy, cả từ phương diện luận, cả tphương
diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu
thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất
nước Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một
tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm
lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân
ta.
Câu 5:quan điểm và đặc điểm của NN pháp quyềnhội chủ nghĩa ở VN
?phương hướng xây dựng và hoàn thiện NN pháp quyền hội chủ nghĩa
?
-QUAN ĐIỂM
- Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật đồng bộ,
hoàn chỉnh, chất lượng cao; thể hiện được ý chí, lợi ích nguyện vọng của
nhân dân, phù hợp với tiến bộ hội. Các quan nhà nước, cán bộ, công
chức mọi thành viên trong hội phải tôn trọng nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp, pháp luật.
lOMoARcPSD| 61458992
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền của mình thông qua
hình thức đại diện (qua quan nhà nước do mình bầu ra) hình thức trực
tiếp.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa thực hiện quản lý xã hội bằng
pháp luật, tăng cường tính pháp chế trong hội, xlý nghiêm minh mọi vi
phạm pháp luật; bảo đảm thực hiện bảo vquyền tự do cũng như những lợi
ích chính đáng, hợp pháp khác của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân
về mọi hoạt động của mình.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa
các quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp - hành pháp -
pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp
của công dân từ phía nhà nước(3).
Nhà nước pháp quyền là một phạm trù lịch sử. Nó có những giá trị mang tính
phổ quát, nhưng cũng có những nét đặc thù được quy định bởi đặc điểm, điều
kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc. thế, việc xây dựng hoàn thiện
nhà nước pháp quyền phải phợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn h
xã hội cụ thể của mỗi nước. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta luôn coi nhà nước là một nội dung trọng tâm, cột trụ của hệ thống chính
trị, công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân. Đồng thời, chủ trương xây
dựng Nhà nước Việt Nam theo nguyên tắc nnước pháp quyền hội chủ
nghĩa của dân, do dân, dân; lấy liên minh công nông tầng lớp trí thức làm
nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- ĐẶC ĐIỂM ;
- Một là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
- Hai là, thượng tôn Hiến pháp pháp luật, mọi chủ thể trong hội đều phải
tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối
cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng.
-
lOMoARcPSD| 61458992
- Ba là, khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự
bình đẳng của mọi cá nhân và thể nhân trong thụ hưởng phát triển quyền,
không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào
công tác quản lý nhà nước và xã hội.
- Bốn là, sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến
pháp pháp luật. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hiến định
trong các Hiến pháp trước đây tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 Hiến
pháp năm 2013.
- Năm là, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa
vụ của tất cả mọi người, mọi công dân và của mỗi người, mỗi công dân được
pháp luật các chủ thtrong hội, đặc biệt Nhà nước thừa nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
-PHƯƠNG HƯỚNG:
-Trước những vấn đề được đặt ra trên đây, thể khẳng định rằng, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam đang trở thành một đòi
hỏi khách quan, một nhu cầu tất yếu trong quá trình thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để xây dựng Nhà
nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, chúng ta
cần chú ý giải quyết các vấn đề sau:
- Làm các vấn đề luận thực tiễn về phương thức và vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Tăng cường pháp chế hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa có hệ thống pháp luật đồng bộ và chất lượng cao.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức
pháp luật của quần chúng nhân dân.
- Xây dựng hoàn thiện nền dân chủ hội chủ nghĩa, mở rộng và phát
huyquyền làm chủ của nhân dân.
- Kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy nhà nước, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.
lOMoARcPSD| 61458992
- Xây dựng thể chế và hoàn thiện bộ máy của Nhà nước pháp quyền hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay
chỉ thể thực hiện thành công trên sở nhận thức đúng vận dụng sáng
tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước chuyên chính vô sản, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, dân. Đồng thời, chúng ta
cần phải quán triệt u sắc quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân và vì dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
( THAM KHẢO)
Thứ nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: xây dựng
pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính công khai, minh bạch cao,
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước yêu cầu hội
nhập quốc tế sâu rộng. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị thông qua các
dự án luật, bảo đảm quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, tổng kết thực
tiễn, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm lập pháp tiên tiến của nước ngoài; tập
hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng góp của nhân
dân, nhất các đối tượng liên quan đến việc thi hành pháp luật. Các bộ
luật, luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để khắc
phục tình trạng phải chờ đợi văn bản hướng dẫn thi hành. Tăng cường thông
tin, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật đnhân dân hiểu tự giác
chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh
chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương, phép nước. Bên cạnh đó
cần đề cao tinh thần “thượng tôn pháp luật,” coi trọng công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh
đạo đức, văn hóa luận hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các thành viên trong việc xây dựng, bảo vệ chính
quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham gia ngày càng
rộng rãi của nhân dân vào công việc quản nhà nước, đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy
nhà nước cũng như trong đời sống xã hội.
Thứ hai, chủ động xây dựng và kiến tạo các điều kiện thuận lợi đcác giá trị
của nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa thể hình thành phát triển
lOMoARcPSD| 61458992
mạnh mẽ. Trước mắt cần tập trung tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ sự
nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt lên mọi khó khăn, thách
thức, đưa đất nước đến gần hơn các giá trị của nhân loại. Cần có các hình thức
đẩy mạnh xã hội học tập, nâng cao trình độ dân trí, tạo lập môi trường để rèn
luyện ý thức bản lĩnh chính trị của công dân. Quyết tâm thực hiện các
chế mở rộng dân chủ, đặc biệt yêu cầu công khai, minh bạch quyền được
thông tin để người dân thực sự được sống, được tham gia vào đời sống chính
trị, được biết cho ý kiến về những quyết sách liên quan. các chế
thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, vì đời sống vật chất, tinh thần của người
dân có thực sự được cải thiện theo hướng đầy đủ văn minh thì ý thức, niềm
tin, thái độ và hành động của họ mới tốt lên được.
Thứ ba, luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa MácLênin,
tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu chọn lọc những giá trị phổ biến về xây dựng
nhà nước pháp quyền trên thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm, tìm tòi, nghiên
cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị
tiến bộ về nhà nước pháp quyền một nhu cầu cần thiết khách quan. Tuy
nhiên, học hỏi vận dụng như thế nào cho hiệu quả, thiết thực phù hợp
với Việt Nam vấn đkhông dễ dàng. Trong quá trình này, vấn đề tính
quan điểm, phương hướng cần không ngừng khẳng định, phát triển và làm
sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nnước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, dân. Những quan
điểm, nội dung và phương thức cầm quyền cần được Đảng ta nhận thức sâu
sắc và vận dụng sáng tạo vào lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Thứ tư, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng Nhà nước phải giữ vững nguyên
tắc Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối chính trị cầm quyền lãnh đạo
bằng pháp luật. Cách mạng hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện đặc thù của
bản chất, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và
đó cũng đặc điểm của mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề có tính bản chất,
tính nguyên tắc, cả về nội dung, phương thức, cách thức của nhà nước pháp
quyền, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền
vẫn phải bảo đảm tính chung, tính phổ quát. Do đó, cần gắn kết chặt chẽ bản
chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể hiện sâu sắc ý
chí, nguyện vọng của nhân n, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân,
của dân tộc và của nhân dân là thống nhất.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61458992
Câu 1 ; hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học và vai trò của mác,
angghen, với sự ra đời của CNXHKH? Tại sao nói mác, angghen đã biến chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học ?

Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) là
chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung với tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh
tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi ích cơ
bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự thống
nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập trung nhất
tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội – chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Điều kiên kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được những bước
phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ
nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính
sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn
giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với lOMoAR cPSD| 61458992
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy
mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà dân chủ cách
mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành
bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội
độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết những mâu
thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ
chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn. Tiêu
biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân thành phố
Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong
trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những phong trào đó có tính quần chúng và
mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức
thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra
đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời,
không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học,
văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen và T.
Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển
Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ.
Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S. Phuriê,
R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền lOMoAR cPSD| 61458992
đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
----. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học: - Các Mác (1818 – 1883):
C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ và người thầy
của giai cấp vô sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công nhân hiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến vĩ
đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát kiến
ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không
phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo
theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” – một tổ chức công nhân
quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca tuyệt tác
của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào công
nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một cách rõ ràng
và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, theo V.I. lOMoAR cPSD| 61458992
Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội thế giới, là
“cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là kim chỉ nam cho hành động của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng Sản mácxít – lêninnít lấy tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối chiến lược
và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: thủ
tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. TẠI SAO ???
Các Mác, Ph. Ăng-ghen đã có đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ
thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa
học. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế và vai
trò của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý luận của mình, đặc biệt là
trong bộ “Tư bản”, các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình thái kinh tế -
xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn cố hữu, nội
tại, gắn liền với nó và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học,
các ông cũng chỉ ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh giải phóng thoát
khỏi sự nô dịch và bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, mà sau này, không phải ngẫu nhiên, V.I. Lê-nin
đặc biệt nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng nhất trong học thuyết Mác là việc làm
sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản với tư cách là người xây dựng,
kiến tạo xã hội mới.Và đã trải qua 3 giai đoạn để đi lên chủ nghĩa khoa học :
- Giai đoạn thứ nhất: những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Giai câp quý tộc chủ
nô và giai cấp nô lệ là hai giai cấp cơ bản mang tính chất đối kháng quyết liệt.
Mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp làm nảy sinh những mầm mống tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại thể hiện trong dòng
“văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian như: chuyện thần lOMoAR cPSD| 61458992
thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội không tưởng một mặt phản ánh sự bất bình
của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp
thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức
về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí muốn
trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thủy”.
- Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu Âu.
Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là những xung đột giai cấp
cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của mình
và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong bối
cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua các
tác phẩm “ văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận đại đã lên án,
phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế chế độ xã hội
đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.
- Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản
hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn
chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ
bản chất cố hữu của nó: phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao động vì quyền lợi
của giai cấp mình; đây cũng là giai đoạn giai cấp vô sản hiện đại hình thành và bắt
đầu thức tỉnh về chính trị.
Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học thuyết.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã hội tư bản
chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời đề xuất con đường, biện pháp và những dự đoán
thiên tài về xã hội tương lai lOMoAR cPSD| 61458992
Câu 2 ;sứ mệnh của giai cấp công nhân ? những điều kiện quy định sứ mệnh
của giai cấp của công nhân ? liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt nam?
Sứ mệnh công nhân là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
- SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP VIỆT NAM ;
. Khái niệm giai cấp công nhân (giai cấp vô sản):
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn
phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô
sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp
vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện
đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp
cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước
đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống,
bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có
quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động.
Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần.
Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ
thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng
giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp
vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản
xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”. lOMoAR cPSD| 61458992
Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc
khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có
hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. -
Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những
người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động
trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn
với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai
cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân. -
Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta
phải xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà
giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí
này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm
quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai
cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
– xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao
động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ
không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo
ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện
đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu
cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay. lOMoAR cPSD| 61458992
. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại,
đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng
minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa
tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến
nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa
bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có
thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư
sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn
thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình,
mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải
phóng toàn thể nhân loại.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội
khách quan của nó quy định:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận quan
trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao.
Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây
dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản
xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai lOMoAR cPSD| 61458992
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô
sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của
nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường
làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư
sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời
sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những
điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải phóng
mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện
được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết
với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn
kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế
chống chủ nghĩa đế quốc.
Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng.
Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.
- Liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt nam?
GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân:
- Là giai cấp tiên tiến, là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai
cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần quốc tế vô
sản nhưng do hoàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Viêt Nam còn có những
đặc điểm riêng như sau:
+Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới
ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN MacLênin,
không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, GCCN Viêt Nam từ lOMoAR cPSD| 61458992
khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị với tư cách là
một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu:
+ Giải phóng dân tộc xây dựng thành công CHXH và CNCS ở Viêt Nam.
GCCN khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh
đạo của Đảng Sinh ra và trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuôc địa,
nông nghiệp lạc hậu nện hạn chế lớn nhất của giai cấp công nhân Viêt Nam là
còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản xuất
nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất, chúng
ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một ngày, hai
ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.
+ GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc,
hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công
nhân, nông dân trí thức.
+ Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa
được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề
còn thấp. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử chủ nghĩa GCCN Viêt Nam.
+Xét về bản chất thì chưa thể có và không thể có tổ chức chính trị nào, giai
cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng một
xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập và
phồn vinh xóa bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
+Sứ mệnh của GCCN Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước
theo định hướng XHCN; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao
động, xây dựng một “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”...
+ Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình trang kém phát triển, nội dung trọng
tâm là đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và giữ
vững định hướng XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định lOMoAR cPSD| 61458992
đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa hiện nay là “Rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh
tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
+Theo đó phát triển GCCN nước ta cả về số lượng và chất lượng, và tổ chức;
nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng
đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Phát triển GCCN cũng chính
là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại - cơ sở xã hội
quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn
dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
+ Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng lợi
khi quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thông qua vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà
nước XHCN và chế độ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân lao động
nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển.
Câu 3:phân tích thực chất và đặc điểm thời kì quá độ. Liên hệ với Việt Nam?
C.Mác. Ph.Ănghen, V.I.Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử nhiệm vụ đặc thù của nó
trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ
nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa
phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa
xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, hoặc như
V.l.Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ
phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong
điều kiện cụ thể nào đó nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô
sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều
nước tiên tiến giúp đỡ. lOMoAR cPSD| 61458992
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình
thực tế Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam
là tiến hành giải phóng dân tộc, hòan thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá
độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính ở nội dung cụ thể này. Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm
lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta
có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không
-Phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối
các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý
đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta. -LIÊN HỆ
Hồ Chí Minh chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng để xây dựng CNXH, đó là:
+Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy
xây dựng làm chính, LẤY VD
+ kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng; xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp và quyết
tâm. Đặc biệt, Người xác định biện pháp cơ bản, lâu dài quyết định nhất trong
xây dựng CNXH ở nước ta là phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài
dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm lợi cho dân. LẤY VD lOMoAR cPSD| 61458992
Câu 4 : Phân tích tính tất yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.? Nhận thức của đảng ta về quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ?

-- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
- Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và
năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin
nói là kiểu “đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
+ Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước
nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
+ Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát
triển của cách mạng Việt Nam, con đương quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh
chính trị năm 1930” đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội” được trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể
hiện bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động
nước ta khi theo Đảng làm cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân không có con đường nào khác là
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về
kinh tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đỗ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng Đảng lOMoAR cPSD| 61458992
ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn.
Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó
không chỉ là lý tưởng mà là hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
- Những phương hướng – nhiệm vụ cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
+ Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện ngày
càng đầy đủ các quyền dân chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm
kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ thù của nhân dân.
+ Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm, nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
+ Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập tưng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy hình thức phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
+ Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị tri chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
+ Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chính sách lOMoAR cPSD| 61458992
đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, trung thành với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới.
+ Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
+ Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
--- Nhận thức của đảng ta về quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ?
-Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân
dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực
hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi
theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB,
mặc dù CNTB đang có sự Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”
điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng
CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc
về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB
không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp
với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động
mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng
giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân lOMoAR cPSD| 61458992
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội...
-Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai
lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản
lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên
nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy
luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua kiểm
điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con đường
quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế,
Đảng đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII
của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng
để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên
CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế
phát triển của lịch sử”(6). Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương
diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu
thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất
nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một
tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm
lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.
Câu 5:quan điểm và đặc điểm của NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở VN
?phương hướng xây dựng và hoàn thiện NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa ? -QUAN ĐIỂM …
- Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật đồng bộ,
hoàn chỉnh, có chất lượng cao; thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân, phù hợp với tiến bộ xã hội. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật. lOMoAR cPSD| 61458992
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền của mình thông qua
hình thức đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và hình thức trực tiếp.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện quản lý xã hội bằng
pháp luật, tăng cường tính pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi vi
phạm pháp luật; bảo đảm thực hiện và bảo vệ quyền tự do cũng như những lợi
ích chính đáng, hợp pháp khác của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân
về mọi hoạt động của mình.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp - hành pháp -
tư pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp
của công dân từ phía nhà nước(3).
Nhà nước pháp quyền là một phạm trù lịch sử. Nó có những giá trị mang tính
phổ quát, nhưng cũng có những nét đặc thù được quy định bởi đặc điểm, điều
kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc. Vì thế, việc xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và
xã hội cụ thể của mỗi nước. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta luôn coi nhà nước là một nội dung trọng tâm, là cột trụ của hệ thống chính
trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân. Đồng thời, chủ trương xây
dựng Nhà nước Việt Nam theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh công nông và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. - ĐẶC ĐIỂM ;
- Một là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hai là, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải
tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối
cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng. - lOMoAR cPSD| 61458992
- Ba là, khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự
bình đẳng của mọi cá nhân và thể nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền,
không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào
công tác quản lý nhà nước và xã hội.
- Bốn là, sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hiến định
trong các Hiến pháp trước đây và tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
- Năm là, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa
vụ của tất cả mọi người, mọi công dân và của mỗi người, mỗi công dân được
pháp luật và các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là Nhà nước thừa nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp. -PHƯƠNG HƯỚNG:
-Trước những vấn đề được đặt ra trên đây, có thể khẳng định rằng, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang trở thành một đòi
hỏi khách quan, một nhu cầu tất yếu trong quá trình thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, chúng ta
cần chú ý giải quyết các vấn đề sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về phương thức và vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa có hệ thống pháp luật đồng bộ và chất lượng cao.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức
pháp luật của quần chúng nhân dân.
- Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát
huyquyền làm chủ của nhân dân.
- Kiên quyết và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy nhà nước, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước. lOMoAR cPSD| 61458992
- Xây dựng thể chế và hoàn thiện bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
chỉ có thể thực hiện thành công trên cơ sở nhận thức đúng và vận dụng sáng
tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước chuyên chính vô sản, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, chúng ta
cần phải quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân và vì dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ( THAM KHẢO)
Thứ nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: xây dựng
pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính công khai, minh bạch cao,
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và yêu cầu hội
nhập quốc tế sâu rộng. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các
dự án luật, bảo đảm quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, tổng kết thực
tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp tiên tiến của nước ngoài; tập
hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng góp của nhân
dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Các bộ
luật, luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để khắc
phục tình trạng phải chờ đợi văn bản hướng dẫn thi hành. Tăng cường thông
tin, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu và tự giác
chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh
chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương, phép nước. Bên cạnh đó
cần đề cao tinh thần “thượng tôn pháp luật,” coi trọng công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh
đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong việc xây dựng, bảo vệ chính
quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham gia ngày càng
rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy
nhà nước cũng như trong đời sống xã hội.
Thứ hai, chủ động xây dựng và kiến tạo các điều kiện thuận lợi để các giá trị
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể hình thành và phát triển lOMoAR cPSD| 61458992
mạnh mẽ. Trước mắt cần tập trung tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ sự
nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt lên mọi khó khăn, thách
thức, đưa đất nước đến gần hơn các giá trị của nhân loại. Cần có các hình thức
đẩy mạnh xã hội học tập, nâng cao trình độ dân trí, tạo lập môi trường để rèn
luyện ý thức và bản lĩnh chính trị của công dân. Quyết tâm thực hiện các cơ
chế mở rộng dân chủ, đặc biệt là yêu cầu công khai, minh bạch và quyền được
thông tin để người dân thực sự được sống, được tham gia vào đời sống chính
trị, được biết và cho ý kiến về những quyết sách có liên quan. Có các cơ chế
thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, vì đời sống vật chất, tinh thần của người
dân có thực sự được cải thiện theo hướng đầy đủ và văn minh thì ý thức, niềm
tin, thái độ và hành động của họ mới tốt lên được.
Thứ ba, luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa MácLênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ biến về xây dựng
nhà nước pháp quyền trên thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm, tìm tòi, nghiên
cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị
tiến bộ về nhà nước pháp quyền là một nhu cầu cần thiết khách quan. Tuy
nhiên, học hỏi và vận dụng như thế nào cho có hiệu quả, thiết thực và phù hợp
với Việt Nam là vấn đề không dễ dàng. Trong quá trình này, vấn đề có tính
quan điểm, phương hướng là cần không ngừng khẳng định, phát triển và làm
sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Những quan
điểm, nội dung và phương thức cầm quyền cần được Đảng ta nhận thức sâu
sắc và vận dụng sáng tạo vào lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng Nhà nước phải giữ vững nguyên
tắc Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối chính trị và cầm quyền lãnh đạo
bằng pháp luật. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện đặc thù của
bản chất, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và
đó cũng là đặc điểm của mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề có tính bản chất,
tính nguyên tắc, cả về nội dung, phương thức, cách thức của nhà nước pháp
quyền, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền
vẫn phải bảo đảm tính chung, tính phổ quát. Do đó, cần gắn kết chặt chẽ bản
chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể hiện sâu sắc ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân,
của dân tộc và của nhân dân là thống nhất.