



















Preview text:
1
ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG 3 ( CÁC ĐỀ ) MỤC LỤC Câu 1.
Phân tích làm rõ sách lược mềm dẻo, linh hoạt của Đảng trong việc đối
phó với quân đội Trung Hoa dân quốc và quân đội Pháp từ sau tháng 8-1945 đến
trước tháng 12-1946? ..................................................................................................... 2
Câu 2. Phân tích nội dung đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986)? ..................................... 4
Câu 3. Làm rõ sự khủng hoảng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở Việt
Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX – trước khi ĐCS VN ra đời? Phân tích nguyên
nhân thất bại của các phong trào yêu nước đó và yêu cầu đặt ra của lịch sử dân tộc? . 6
Câu 4. Phân tích nội dung đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12- 1986) và làm rõ nhận định:
Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là bước ngoặt
lịch sử của cách mạng Việt Nam? ................................................................................. 9
Câu 5. Bằng thực tiễn lịch sử (1911-1930), hãy làm rõ vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc – người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện ĐCSVN? .............................................. 9
Câu 6. Phân tích những đặc trưng của xã hội Xã hội chủ nghĩa được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm
2011 của Đảng? Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện
đặc trưng: “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do ĐCS lãnh đạo”? ...................................................................................... 11
Câu 7. Phân tích những đặc trưng của xã hội Xã hội chủ nghĩa được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung năm
2011 của Đảng? Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện đặc
trưng: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp”? .......................................................................................... 13
Câu 9. Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc được hình thành trong những năm 1920- 1930? Ý nghĩa của những quan
điểm này đối với việc hình thành nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? 15
Câu 10. Bằng thực tiễn lịch sử từ khi ĐCS VN ra đời cho đến nay, hãy chứng minh:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam? Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là tất yếu
khách quan ................................................................................................................... 20
Câu 11 . Phân tích quan điểm của ĐCS VN tại Đại hội lần thứ VIII (1996) về Công
nghiệp hoá trong thời kỳ mới? Liên hệ vai trò của sinh viên trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay? ..................................................... 23
Nhận thức của đảng về DT-DC giai đoạn 30-45 ......................................................... 24 2
Câu 1. Phân tích làm rõ sách lược mềm dẻo, linh hoạt của Đảng trong việc
đối phó với quân đội Trung Hoa dân quốc và quân đội Pháp từ sau tháng
8-1945 đến trước tháng 12-1946?
1. Hoàn cảnh nước ta sau CMT8
- Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời,
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những
thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo. - Thuận lợi:
+ Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành. Phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng.
Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.
+ Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thổng từ Trung ươnga
đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân
dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. - Khó khăn:
+ Nạn đói, nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia trống rỗng.
+ Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non yếu.
+ Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận, và đặt quan hệ ngoại giao.
+ Với danh nghĩa Đồng minh đến tước khí giới của phátxít Nhật, quân đội các nước đế quốc
ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính quyền
cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta.
+ Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn,
hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. "Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm
họa đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc như "ngàn cần treo sợi tóc", Tổ quốc lâm nguy.
2. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng
-Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam lúc
này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết",
nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
- Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương
và chỉ rõ "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào chúng". Vì vậy, phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp
xâm lược"; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất
Mặt trận Việt - Miên - Lào, V. V...
- Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn
trương thực hiện là: "củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống cho nhân dân". Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù,
thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập
về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.
- Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác định đúng
kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm luợc. Đã chỉ ra kịp thời những vấn 3
đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới
của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là xây đựng đất nước đi đôi với bảo vệ
đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn
đói, nạn dốt, chống giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực
hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong
giai đoạn từ tháng 9-1945 đến cuối năm 1946. Như việc bầu cử Quốc hội, lập Chính phủ
chính thức, ban hành Hiến pháp, xây dựng các đoàn thể nhân dân, khôi phục sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân, xóa nạn mù chữ, khai giảng năm học mới, tập luyện quân sự, thực
hiện hòa với quân Tưởng ở miền Bắc để chống thực dân Pháp ở miền Nam và hòa với Pháp
để đuổi Tưởng về nước...
3. Biện pháp của Đảng trong giai đoạn năm 1945 – 1946
- Về ngoại giao: Để thoát khỏi "vòng vây đế quốc", tránh tình thế phải đối đầu với nhiều kẻ
thù cùng một lúc, Đảng thực hiện sách lược ngoại giao mềm dẻo nhằm ngăn chặn chiến
tranh, kéo dài thời gian hoà hoãn để xây dựng lực lượng cách mạng. Những chủ trương đó là:
- Thứ nhất: Tạm thời hoà hoãn với Tưởng trên miền Bắc để tập trung sức chống thực
dân Pháp ở miền Nam (từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946).
+ Để đối phó với kẻ thù chính, trước mắt là thực dân Pháp, Đảng chủ trương hoà hoãn, nhân
nhượng với Tưởng ở miền Bắc để tập trung sức chống thực dân Pháp ở miền Nam. Tuy
nhân nhượng với Tưởng ở một số mặt, nhưng ta vẫn bảo đảm nguyên tắc giữ vững thành
quả cách mạng và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Trong khi hoà hoãn,
chúng ta không ngừng nâng cao cảnh giác, khi cần thiết thì kiên quyết trấn áp bọn phản
động để giữ vững chính quyền cách mạng.
+ Sách lược ngoại giao sáng suốt trên đã làm thất bại một bước âm mưu chống phá cách
mạng của Tưởng và tay sai, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, tạo thêm điều
kiện thuận lợi cho quân và dân cả nước tập trung nỗ lực vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở
miền Nam, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh đẩy lùi (hoặc chí ít cũng làm chậm) nguy cơ chiến
tranh lan rộng ra cả nước, đồng thời chuẩn bị tạo thế và lực để đưa cách mạng phát triển trong điểu kiện mới.
- Thứ hai: Tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về nước (từ
tháng 3-1946 đến tháng 12-1946).
+ Ngày 28-2-1946,Tưởng và Pháp đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp thoả thuận để quân Pháp vào
miền Bắc thay thế quân Tưỏng "canh giữ tù binh Nhật" và giữ "trật tự" theo "Hiệp ước quốc
tế". Tình thế đó đặt cách mạng nước ta trước hai con đường: hoặc cầm súng đánh Pháp, ta sẽ
cùng một lúc đối đầu với nhiều kẻ thù trong khi lực lượng cách mạng còn non yếu: hoặc tạm
thời hoà hoãn với Pháp ta sẽ tránh được tình thế bất lợi phải chiến đấu với nhiều kẻ thù cùng
một lúc, bảo toàn lực lượng, đuổi nhanh quân Tưởng về nước, loại trừ được bọn tay sai của chúng.
+ Đảng ta chọn con đường thứ hai “hoa để tiến". Tạm thời hoà hoãn, có nhân nhượng cần
thiết với Pháp trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự chủ của dân tộc. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-
1946. Theo đó, Pháp công nhận nước ta là một quốc gia tự do có chính phủ, nghị viện, quân
đội và tài chính riêng. Việc quân Pháp vào miền Bắc cũng được quy định rõ về địa điểm,
thời gian và số lượng. 4 ⇨
Ký Hiệp định Sơ bộ là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng, một mẫu mực
tuyệt vời của sách lược lêninnít’ về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ địch và về nhân nhượng có nguyên tắc. Hiệp định không chỉ kéo dài thời gian hoà hoãn
để nhân dân ta củng cố thành quả cách mạng đã giành được, chuẩn bị thực lực cho cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, mà còn tạo cơ sở pháp lý buộc Tưởng rút quân
khỏi miến Bắc tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến trở lại bám trụ thôn, xã miền Nam. ⇨
Sau khi ký Hiệp định Đảng và Chính phủ kiên trì giải quyết quan hệ Việt - Pháp bằng
con dường hoà bình. Tuy nhiên, do dã tâm xâm lược của thực dân
Pháp, cuộc đàm phán chính thức tại Phôngtennơblô không đi đến kết quả. Để tranh thủ tối
đa khả năng hoà bình, trong thời gian thăm chính thức nước Pháp (từ tháng 5 đến tháng 9-
1946) trước khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp bản
Tạm ước ngày 14-9 -1946. Đây là nhân nhượng cuối cùng của ta đối với Pháp. Chúng ta
không thể nhân nhượng được nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp đang đến gần.
Câu 2. Phân tích nội dung đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986)?
1 .Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong
bối cảnh cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế
giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đối mới đã trở thảnh xu thế của thời đại. Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tố sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt
Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội.
2.Nội dung cơ bản đường lối đổi đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986).
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản
lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh
doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
- Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên
là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó
đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
- Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tồ chức
thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
- Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu
đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đan
các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa
học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệuquả kinh tế đối ngoại.
- Đại hội VI nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử 5
dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chú nghĩa”. Đại hội khẳng định, chính sách xã
hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định
được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên.
- Bốn nhóm chính sách xã hội là:
+ Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động.
+ Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội.
+ Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân.
+ Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
- Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh
thắng kiếu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
- Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích
của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam
Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu
nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đối mới
công tác tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy
quyền làm chủ tập thế của nhân dân lao động, thực hiện ‘Mân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của quần chúng. ⇨
Từ đó ta có thể rút ra được ý nghĩa đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986). Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi
xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách mạng, tạo
bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội VI là
chưa tim ra những giải pháp hiệuquả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.
Liên hệ thực tiễn Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy tinh thần đoàn kết toàn
dân trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước hiện nay?
Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp
toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
cũng như trong xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. -
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đường lối, chủ trương của Ðảng, Nhà nước về
Đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các chính sách,
pháp luật. Các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực chung sức, chung lòng cùng Ðảng, Nhà nước
vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội, bảo
đảm an sinh xã hội và tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 6 -
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra các chủ trương và giải pháp chủ yếu để xây
dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo điều kiện
cho mọi giai cấp, tầng lớp xã hội phát triển vững mạnh. Cùng với phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, việc tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng được Đảng
ta xác định là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, đồng thuận giữa nhà nước và nhân dân, qua
đó tăng cường khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tế trong công cuộc đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo, bảo đảm lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân,
thực hiện tốt chính sách xã hội, thể hiện sự ưu việt của chế độ xã hội nước ta. Thực hiện tốt
chính sách xã hội không chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn là một trong
những yếu tố quyết định sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Để phát huy tốt vai
trò lãnh đạo của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII xác định cần phát huy vai trò của cả hệ
thống chính trị trong xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đoàn kết, nhất trí trong
Đảng là điều kiện tiên quyết để Đảng ta thực sự xứng đáng là hạt nhân đoàn kết của toàn xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng chính là ngọn cờ tập hợp, quy tụ sức mạnh của khối Đại đoàn
kết toàn dân tộc. Để thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh", Đảng ta xác định, cần giải quyết tốt các mối quan hệ, thu hẹp những khác biệt giữa
các bộ phận xã hội trong xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Giải quyết tốt vấn đề
nàykhông chỉ trực tiếp góp phần củng cố sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc mà
còn là cơ sở để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù
địch hòng chốngphá khối Đại đoàn kết dân tộc ở nước ta... Để tiếp tục phát huy sức mạnh
Đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các
cấp, các ngành toàn xã hội đối với việc xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh Đại đoàn
kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Muốn vậy, phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện
nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
tầng lớp, giai cấp và các thành phần trong xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng việc không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. -
Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học
kinh nghiệm quý báu, vấn đề chiến lược, có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học kinh nghiệm này vẫn còn
nguyên giá trị và cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ để khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân
tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; xây dựng đất nước hùng cường và giàu mạnh.
Câu 3. Làm rõ sự khủng hoảng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở
Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX – trước khi ĐCS VN ra đời? Phân tích
nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước đó và yêu cầu đặt ra của lịch sử dân tộc?
1. Sự khủng hoảng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX – trước khi ĐCS VN ra đời: -
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị
ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến. 7 -
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Một bộ phận địa chủ có lòng
yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức
và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam;
bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề nên đã tăng thêm lòng căm thù đế quốc
và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và
chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt
Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa chèn ép, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức
độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm
nghề tự do... đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân,
có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. -
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân
mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã
hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa
chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt
trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. -
Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu
cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là
ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. -
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta
chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong
trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến
lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm
1896). Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám
kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. -
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền
thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng
do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã
lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước đó và yêu cầu đặt ra của lịch sử dân tộc:
* Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước: - Nguyên nhân khách quan:
+ Cuộc đấu tranh của ta nằm trong tình thế bị động, nên Pháp đã dặp tắt nhanh chóng.
+ Lực lượng ta và địch không cân xứng, ta đấu tranh khi địch vẫn còn mạnh, địch có trang
vũ khí hiện đại hơn ta.
+ Khuynh hướng phong kiến đã lỗi thời, bế tắc về đường lối đấu tranh. - Nguyên nhân chủ quan: 8
+ Các phong trào yêu nước và các tổ chức của Đảng có những hạn chế về giai cấp, về đường
lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi các lực lượng của
dân tộc, nhất là chưa tập hợp được 2 lục lượng cơ bản công nhân và nông dân cho nên thất bại.
+ Ta gặp phải sai lầm trong quá trình đấu tranh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương,
phản đối chiến tranh và cầu viện nước ngoài.
+ Những cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các phong trào mang tính tự phát, trong nội bộ chia rẽ.
+ Ta chưa tập hợp được sức mạnh quần chúng nhân dân, chưa thấy được khả năng lãnh đạo
của giai cấp công nhân và chưa đoàn kết được họ.
+ Chưa có chính Đảng lãnh đạo (Các phong trào thất bại như: Phong trào cần vương, cuộc
khởi nghĩa yên thế, phong trào đông du, duy tân).
Yêu cầu đặt ra của lịch sử dân tộc
a. Cần một đường lối cách mạng đúng đắn:
• Lý luận khoa học và cách mạng: Cần có một đường lối cách mạng rõ ràng, khoa
học và phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Điều này đòi hỏi sự nghiên cứu,
học hỏi từ các phong trào cách mạng thành công trên thế giới và áp dụng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam .
b. Cần một tổ chức lãnh đạo thống nhất và mạnh mẽ:
• Đảng Cộng sản Việt Nam: Cần có một tổ chức lãnh đạo cách mạng thống nhất và
mạnh mẽ, có khả năng điều phối và dẫn dắt phong trào đấu tranh toàn quốc. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930, với Cương lĩnh chính trị rõ ràng và đường
lối cách mạng đúng đắn, đã đáp ứng yêu cầu này
c. Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân:
• Huy động toàn dân: Cần huy động mọi tầng lớp nhân dân, từ công nhân, nông dân
đến trí thức và các tầng lớp khác, để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc .
d. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại:
• Liên kết quốc tế: Cần tranh thủ sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, đặc
biệt là phong trào cộng sản quốc tế, để tăng cường sức mạnh đấu tranh của dân tộc Việt Nam .
e. Tự lực cánh sinh và tự chủ:
• Dựa vào sức mình: Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc phải dựa vào sức mạnh của
chính mình, không ỷ lại vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tinh thần tự lực cánh sinh và tự
chủ là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. -
Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam cuối thế kỉ XIX đấu tranh theo
khuynh hướng phong kiến dưới sự lãnh đạo của các văn thân, sĩ phu yêu nước. -
Các phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư
sảndưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước thức thời.
=> Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng trên đều thất bại hoặc chưa đạt đượcnhiễu
thành quả đã chứng tỏ sự khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo. 9
=> Bài học kinh nghiệm lớn nhất là cần xác định đứng đắn giai cấp lãnh đạo và đường lối
đấu tranh đúng đắn thì cách mạng mới thành công.
Câu 4. Phân tích nội dung đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12- 1986) và làm rõ nhận
định: Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là
bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam? 1.
Nội dung đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) (câu 2). 2.
Nhận định: Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. -
Ðại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo chính trị,
tư tưởng, tổ chức. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, Ðại hội khẳng định những thành tựu đã đạt được trong nhiệm kỳ trước, đồng thời chỉ
rõ: Tình hình kinh tế-xã hội đang có những khó khăn gay gắt: Sản xuất tăng chậm; hiệu quả
sản xuất và đầu tư thấp; tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt; lưu thông không
thông suốt, phân phối rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,
có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân
dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. -
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước, Ðại hội nghiêm khắc
tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm. Ðổi mới tư duy, nhận thức rõ hơn về những quy
luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi,
khảo nghiệm từ thực tiễn, Ðại hội đề ra đường lối đổi mới. -
Ðại hội xác định: Ðảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể
hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Ðể tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức
thực tiễn của mình, Ðảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy
kinh tế, đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. -
Ðại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Ðiều lệ Ðảng cho phù hợp tình hình mới. -
Ðổi mới toàn diện thật sự là ý Ðảng, lòng dân. Nghị quyết Ðại hội VI vào cuộc sống
là quá trình thể nghiệm, tìm tòi, từng bước cụ thể hóa, phát triển và tổ chức thực hiện những
định hướng lớn. Ðảng và Nhà nước vừa tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội
cấp bách, giữ vững ổn định chính trị, vừa thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và
đời sống nhân dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát
huy, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên.
Câu 5. Bằng thực tiễn lịch sử (1911-1930), hãy làm rõ vai trò của Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc – người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện ĐCSVN?
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Nhân dân Việt 10
Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường
cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng
Việt Nam, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam suốt
90 năm qua. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: 1.
Một là, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam - Con đường Cách mạng Vô sản. Nhận ra bản chất của các cuộc cách mạng qua nghiên
cứu các cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: “Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi, không triệt để, tiếng nói là
cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột công nông trong nước, ở ngoài thì áp
bức thuộc địa”. Bắt gặp lý tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường
cứu nước giải phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Có thể khẳng định, chính
chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác -
Lênin, với khát vọng mang lại hòa bình cho dân tộc, Người đưa ra những thông điệp mang
giá trị vĩnh hằng, đó là những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó
chính là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100
năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam. 2.
Hai là, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng. -
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản theo
cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt động
thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về
Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn con đường đến hành
động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản. -
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án bản
chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức
tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo
tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân,
xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác -
Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp
với các nước thuộc địa và phục thuộc. -
Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính
trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức;
xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; xác
định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển thành những nội dung cơ bản
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. -
Về tổ chức: Sau khi từ Liên Xô về Quảng Châu, Người lựa chọn một số thanh niên
tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đoàn
(02/1925). Trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên (6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc, sau đó Người liên kết với những cộng
sản ở thuộc địa đang hoạt động cách mạng ở Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
Á Đông (7/1925). Các tổ chức là nơi để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước và cũng là 11
sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt
Nam. Nhờ đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu
nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản. 3.
Ba là, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng.
Cuối năm 1929, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của ba tổ chức
cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản đã khẳng định bước phát triển quan trọng của
phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều
tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình
và đều nhận là đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh khỏi phân tán về lực lượng
và thiếu thống nhất về tổ chức.Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong
nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng
(Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập một chính đảng duy
nhất của Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. 4.
Bốn là, Người đã soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam với nhiều nội dung
rất quan trọng: mục tiêu của cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng,
phương pháp tiến hành cách mạng, quan hệ quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Những nội
dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài
cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và
sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu
sắc. Và là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc
biệt có giá trị trong thời đại ngày nay. ⇨
90 năm thực hiện đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Việt Nam
vẫn kiên định con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh chính tri đầu tiên, đó là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội , vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt
động cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”; Đại hội lần thứ
XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Do đó, chúng ta hoàn
toàn có quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.
Câu 6. Phân tích những đặc trưng của xã hội Xã hội chủ nghĩa được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bổ sung năm 2011 của Đảng? Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong
việc thực hiện đặc trưng: “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo”? 2.
Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện đặc trưng: “có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo”: 12 -
Thứ nhất, thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập
đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu nước. Tuổi trẻ
Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc
hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng để thích ứng với
những bước phát triển mới trong khoa học và công nghệ. Chính vì vậy, thế hệ trẻ - những
chủ nhân tương lai của đất nước phải không ngừng học tập, sáng tạo, tiếp thu các công nghệ
mới để trang bị một nền tảng tốt, giàu kiến thức, vững kỹ năng để tiếp nối các thế hệ cha
anh trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. -
Thứ hai, tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh
xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa
rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc. Đây sẽ là một động lực quan
trọng để phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy giá trị tốt đẹp của con người
Việt Nam nói chung và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng để đóng góp vào sự phồn thịnh của đất nước. -
Thứ ba, luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời
chính trị. Hiện nay, các thiết bị công nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội đang ngày càng
phát triển đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn đến sinh viên, bao gồm cả những ảnh hưởng tích
cực và tiêu cực, một trong số đó là khiến giới trẻ nói chung, trong đó có sinh viên sống tách
biệt với xã hội, hình thành lối sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị. Bên cạnh đó, nhiều bạn
trẻ chủ yếu đọc báo qua những bài được chia trẻ trên mạng xã hội chưa được kiểm chứng cụ
thể, thay vì chủ động tiếp cận tới các nguồn tin chính thức, tạo cơ hội cho các thế lực thù
địch truyền bá những thông tin xuyên tạc Đảng và Nhà nước mà nếu không có những nhận
thức chính trị đầy đủ, người đọc sẽ hình thành suy nghĩ sai lệch, gây ra những hệ lụy khôn
lường cho tình hình an ninh xã hội. Sinh viên Việt Nam phải có nhiệm vụ tự mình nâng cao
nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và Nhà nước trong việc loại bỏ các thông
tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng xã hội, tuyên truyền đến người thân, bạn bè
có cách tiếp nhận thông tin đúng đắn, chính xác.
- Thứ tư, biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của
công nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình
xây dựng nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, ta không nên mù quáng phủ nhận tất cả những
sản phẩm Chủ nghĩa Tư bản đã tạo ra mà phải chắt lọc, kế thừa những thành tựu phù hợp
với điều kiện phát triển của đất nước. Trong đó, sinh viên với bản chất năng động, sáng tạo,
nhiệt huyết, nhanh nhạy là đối tượng lý tưởng để tiếp thu các công nghệ mới, tham gia giao
lưu, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập phải luôn tỉnh táo để không đánh
mất bản sắc văn hóa của dân tộc, phải dung hòa được nếp sống hiện đại với những giá trị
truyền thống. Nhiệm vụ học tập khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế đòi hỏi lớp sinh
viên hiện nay phải nhanh chóng trang bị cho mình năng lực hội nhập, như bản lĩnh, kiến
thức, trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng, tác phong công nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc,
đất nước mình, đồng thời phải hiểu biết tình kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa thế giới. Để
thực hiện nhiệm vụ đó, mỗi sinh viên phải phát huy tinh thần tự học tập, tự rèn luyện. 13
Câu 7. Phân tích những đặc trưng của xã hội Xã hội chủ nghĩa được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bổ sung năm 2011 của Đảng? Liên hệ vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong
việc thực hiện đặc trưng: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”? 2.
Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện đặc trưng: “Có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”: -
Một là, thanh niên Việt Nam cần được định hướng trong lựa chọn nghề nghiệp, học
tập phù hợp với năng lực và sở trường để tránh tình trạng làm việc không đúng chuyên môn
được đào tạo, gây lãng phí về thời gian và nguồn lực của xã hội. Thanh niên có đam mê và
yêu thích các lĩnh vực công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhà nước ưu
tiên phát triển như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật, thực tế
ảo/thực tế tăng cường, chuỗi khối, in ba chiều hay các lĩnh vực về khoa học-công nghệ-kỹ
thuật-toán học, kinh doanh, doanh nghiệp (STEAM) cần nghiêm túc tìm hiểu, xác định
ngành nghề và kiên trì theo đuổi để đóng góp cho sự phát triển của nước nhà. Ngoài ra cần
mạnh dạn kiến nghị, đề xuất với Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư để giải phóng năng lực
tuổi trẻ, cống hiến, vì sự hưng thịnh của quốc gia, dân tộc nhờ vào phát triển kinh tế số và
khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo. -
Hai là, thanh niên Việt Nam cần liên tục cập nhật, trang bị kiến thức và hiểu biết về
cách thức vận hành, luật lệ của nền kinh tế số (ví dụ như các vấn đề liên quan đến mối quan
hệ khách hàng-nhà cung cấp với các nền tảng toàn cầu), sở hữu trí tuệ, để bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của mình, ngoài ra tránh việc vô ý vi phạm pháp luật do thiếu kiến thức,
đặc biệt khi có sự khác biệt về pháp luật giữa quốc gia nơi mà nhà cung cấp dịch vụ ở và
quốc gia nơi mà người dùng sử dụng dịch vụ. -
Ba là, trong một môi trường đầy biến động và đa chiều của nền kinh tế số, thanh niên
Việt Nam cần nâng cao bản lĩnh chính trị, tự trang bị cho mình kiến thức để có “vắc xin” với
các luồng thông tin độc hại, chưa rõ tính xác thực, tránh bị lôi kéo, dụ dỗ mắc phải những
sai phạm về đạo đức, tiêu cực và tệ nạn xã hội, hoặc bị lợi dụng, kích động lôi kéo vào các
hành vi gây rối, vi phạm pháp luật. Đặc biệt cần cảnh giác trước nhiều luồng thông tin xấu
của các thế lực thù địch, lợi dụng các vấn đề kinh tế xã hội trong nước kích động lôi kéo, lợi
dụng tinh thần yêu nước của người dân để tiến hành các hoạt động chống phá, âm mưu thực
hiện diễn biến hòa bình và cách mạng màu tại Việt Nam. -
Bốn là, tiếp tục phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đóng
với vai trò hạt nhân chính trị quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, xây dựng thế hệ thanh
niên Việt Nam phát triển toàn diện, cổ vũ thanh niên thi đua học tập, khởi nghiệp, lao động
sáng tạo trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm góp phần tạo nên
những thành tựu mới to lớn và có ý nghĩa cho nước nhà như lời Bác dạy “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một
phần lớn là do các thanh niên”.
Câu 8. Chứng minh đường lối cách mạng được Đảng đề ra tại Đại hội III (9/1960) đã
phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và của chung cả nước
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975)? 1.
Thứ nhất, về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tíchtình
hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Namtrong giai 14
đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khácnhau ở hai miền: Một
là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là,tiến hành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhấtnước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. 2.
Thứ hai, về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miềnBắc và
cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song
trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòabình, thống nhất đất nước. 3.
Thứ ba, về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi
miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụxây dựng tiềm
lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạngmiền Nam, chuẩn bị cho cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai tròquyết định nhất đối với sự phát triển của
toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối vớisự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miềnNam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình
thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. 4.
Thứ tư, về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương (hay phươngchâm) kiên
quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủtrương đó phù hợp với
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng nhưcủa nhân dân yêu chuộng hòa bình
thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnhgiác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế.
Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sailiều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì
nhân dân cả nước ta sẽkiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc. 5.
Thứ năm, về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranhnhằm thực
hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cảnước ta. Đó là một quá
trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâudài chống đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùngnhất định thuộc về nhân dân ta, Nam
Bắc nhất định sum họp một nhà. 6.
Thứ sáu, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc,trong
đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳnglên chủ nghĩa xã
hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cảibiến cách mạng về mọi mặt. Đó là
quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường,con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư
bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vựckinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm
đưa miền Bắc từ một nềnkinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên
nền kinh tế xã hộichủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. -
Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem làhai mặt
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này cóquan hệ mật thiết,
tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Côngnghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳquá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh
tế, phải tiến hành cuộc cáchmạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư
tưởng, tinh thần vàvăn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Từ nhữngluận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩaxã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao 15
động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưamiền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đờisống ấm no, hạnh phúc
ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vữngmạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. -
Thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh
đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,đường lối tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khácnhau ở hai miền: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộcdân chủ nhân dân ở miền Nam,
nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cảnước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. -
Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xãhội, vừa
phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cảnước Việt Nam vừa
phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợpđược sức mạnh của hậu phương
và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh củaba dòng thác cách mạng trên thế giới,
tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cảLiên Xô và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức
mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sứcđánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Đặttrong bối cảnh Việt Nam và quốc tế, đường lối chung của
Đảng còn là sự thể hiệntinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết
những vấn đềkhông có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp với lợi
íchcủa nhân loại và xu thế thời đại.
Câu 9. Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của
Nguyễn Ái Quốc được hình thành trong những năm 1920- 1930? Ý nghĩa của
những quan điểm này đối với việc hình thành nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? I.
Hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
được hình thành trong những năm 1920-1930.
2.1. Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ, song, đấu tranh giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước chính
quốc, nhân dân các dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính
mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước”
Từ năm 1919 đến năm 1928, Quốc tế Cộng sản vẫn luôn cho rằng: “Chỉ có thể thực
hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi
ở các nước tư bản tiên tiến”. Ý kiến này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của cách mạng
thuộc địa, làm cho phong trào cách mạng ở các nước rơi vào tình trạng thoái trào.
Cũng giống như, C.Mác và Ăng-ghen, ngay từ sớm Nguyễn Ái Quốc đã lưu tâm tới
mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và các mạng ở thuộc địa và họ đều cho rằng cách
mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa có mối quan hệ gắn bó hữu cơ không thể tách rời.
Song, nếu Mác và Ăng-ghen cùng Quốc tế cộng sản đều nhấn mạnh vai trò chi phối của
cách mạng vô sản ở chính quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc tại thuộc địa và cho
rằng: “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể tiến hành đồng thời với việc giải phóng giai
cấp vô sản ở chính quốc”.
Khác với Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc lại chỉ rõ: “Cách mạng thuộc địa có
tính chủ động, độc lập, không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, nhân dân các 16
dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng
có thể thắng lợi trước”. Đây là một quan niệm táo bạo nhưng vô cùng đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc.
Vậy tại sao, Người lại có một quan điểm khác so với C.Mác, Lênin và Quốc tế cộng
sản như vậy? Điều đó có thể lý giải thông qua một số lý do sau đây:
− Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc nhận thức được tính tất yếu phải diệt vong của đế quốc
thực dân vì chính sự tàn bạo của chúng.
− Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc nhận thức rằng sự áp bức của đế quốc thực dân đối với
thuộc địa nặng nề hơn so với nhân dân lao động ở chính quốc. Theo Người, chế độ thực dân
là hình thức tha hoá tàn bạo nhất, là kết quả tất yếu của sự phát triển phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa; nhân dân thuộc địa, vừa phải chịu sự nô dịch, đè nén bằng lưỡi lê của nền
văn minh, vừa bằng cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh chúa. Trên thế giới, không
có dân tộc nào bị đàn áp, hành hạ như người dân thuộc địa. Họ bị hai tầng bóc lột: vừa như
người vô sản vừa như người bị mất nước. Vì bị áp bức nặng nề như vậy nên nhân dân thuộc
địa, trong đó đông đảo nhất là công nhân, nông dân... đang tiềm ẩn một sự phản kháng mãnh
liệt và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến.
− Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng quyết định của thuộc
địa đối với sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Người từng nói: “Hiện nay, tất cả sinh
lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa”. Như vậy, quá rõ ràng để chúng
ta nhận ra rằng nền móng cho sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân chính là sự tàn bạo mà
chúng áp đặt lên các nước thuộc địa và chúng chỉ có thể tan rã khi nền móng ấy bị phá vỡ.
− Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thức được tiềm năng to lớn của cách mạng
thuộc địa. Nhờ sinh trưởng ở một nước thuộc địa, lại được trải qua thực tiễn phong phú của
cuộc sống ở thuộc địa Việt Nam cũng như nhiều thuộc địa khác nên Người sớm có cái nhìn
toàn diện và sâu sắc về vấn đề dân tộc thuộc địa, thấy được sức mạnh vĩ đại trong các dân
tộc thuộc địa. Ngay từ những năm đầu thập kỷ thứ 3 của thế kỷ XX, Người đã nhận thức rõ
tiềm năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn, nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình
thành một lực lượng khổng lồ một khi họ được giác ngộ và tổ chức. Người tin tưởng vào
sức mạnh của nhân dân thuộc địa sẽ vùng lên đánh đổ ách thống trị ngoại bang và dự báo:
“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc
lột để tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ".
− Thứ năm, Nguyễn Ái Quốc nhận thức rõ vai trò ảnh hưởng của phong trào cách
mạng thế giới đối với các thuộc địa nói chung, cũng như cách mạng Đông Dương nói riêng..
Nói tóm lại phong trào cách mạng thế giới càng sôi nổi càng giành được nhiều thắng lợi sẽ
càng khiến cho cách mạng tại các nước thuộc địa trở nên sục sôi hơn.
Như vậy, luận điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc về khả năng giành thắng lợi trước và
bổ trợ cho cách mạng vô sản tại chính quốc đã dựa trên những luận cứ khoa học và thuyết
phục và được tổng hòa nhờ vào kinh nghiệm thực tiễn và sự nhạy bén trong chính trị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
2.2. Độc lập dân tộc gắn với cách mạng vô sản. Cụ thể, “cách mạng của các dân tộc bị
áp bức là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; cả hai cuộc cách mạng này chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa vô sản 17
Qua thực tiễn lịch sử, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, các phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản hay phong kiến ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi với
đông đảo quần chúng tham gia bằng những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện rõ ý
thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc. Nhưng đáng buồn thay cuối cùng đều chìm trong
biển máu vì hệ tư tưởng phong kiến hay tư sản đều không phù hợp với tình hình lịch sử thực
tế tại Việt Nam, cả giai cấp phong kiến và tư sản đều có tinh thần yêu nước song không đủ
sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc cho rằng:
Chúng ta đã hi sinh làm cách mạng thì làm đến nơi, làm sao khi làm cách mạng rồi thì
quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân
chúng mới hạnh phúc. Bởi thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha
nhưng Hồ Chí Minh không tán thành con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm con đường mới.
Sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1919), đến năm 1920 sau khi tham gia Đại
Hội Tua, Người quyết định: hoàn toàn đi theo Lênin và Quốc tế thứ ba, đưa cách mạng Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản. Nhận thấy những ưu điểm nổi trội của Cách mạng
Tháng Mười Nga (1917), Người nói: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật” và chỉ có cách mạng Nga mới “chỉ cho chúng tôi con đường đi đến thành
công”. Từ đó, Người kết luận; “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng
cách mạng vô sản là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó
không chỉ giải phóng giai cấp mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Bởi cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là sau khi
giành độc lập dân tộc tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết, tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có gì hết.
Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề
đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chủ nghĩa xã hội là hạnh phúc, tự do vậy nên độc lập dân
tộc phải gắn với cuộc cách mạng vô sản.
2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân
Từ những năm 20 thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến phương hướng bạo lực
cách mạng và khẳng định độc lập dân tộc chỉ có được bằng con đường cách mạng vũ trang.
Đồng thời, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay giai
cấp thống trị. Nhưng kẻ thù sẽ không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho nhân dân. Vì
vậy, Hồ Chí Minh cho rằng muốn cách mạng thắng lợi thì phải dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền.
Hồ Chí Minh cũng cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân.
Bạo lực cách mạng bao gồm 2 lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ
trang nhân dân. Ngoài ra theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc "lực
lượng chính là ở dân". Người chủ trương: tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân
dân. Toàn dân khởi nghĩa toàn dân nổi dậy là nét đặc trưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
hình thái bạo lực cách mạng.
Vậy lí do gì đã khiến Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường bạo lực để giành chính
quyền mà không phải bất kỳ con đường nào khác? 18
− Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc được bản chất của chế độ thực dân.
Người chỉ rõ: “chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối
với kẻ yếu”. Người cũng biết rõ, độc lập tự do không phải do cầu xin mà có được và tự do
cho dân tộc thuộc địa không thể có được bằng con đường cải lương, không thể ảo tưởng
trông chờ vào sự rủ lòng thương của bọn đế quốc thực dân. Dẫn chứng là hoạt động cách
mạng của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ trương nhờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài
nhưng cuối cùng đều là “cõng rắn cắn gà nhà” và đều thất bại. Vậy nên chúng ta phải dùng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng để giảnh chính quyền, bảo vệ độc lập dân tộc
− Thứ hai, quan điểm cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh
thần nhân đạo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến-
của các thế lực đế quốc xâm lược. Nó xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng
sinh mạng con người và mục tiêu cuối cùng là hòa bình, độc lập chính đáng cho nhân dân.
− Thứ ba, không tuyệt đối hóa vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến
tranh cách mạng, vì đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện
mục tiêu chính trị của cách mạng. Hình thức bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính
trị và đấu tranh vũ trang, nhưng phải tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức
đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo léo kết hợp các hình thức đấu tranh
vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng. Trong chiến tranh cách
mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực
lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu
tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị mà chúng bổ sung cho nhau giúp các
đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có
cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang. Đồng thời,
Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách
ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp
hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc
Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh chính trị. "Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ
làm thắng lợi quân sự to lớn hơn".
Như vậy, cả Lênin và Nguyễn Ái Quốc đều cho rằng có nhiều cách để giành độc lập
nhưng chỉ có cách mạng bằng bạo lực mới hoàn toàn đánh đổ bạo lực phản cách mạng.
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc phải có Đảng Cộng Sản lãnh đạo
Đến những năm 20 thế kỉ XX, Người đã khẳng định vai trò của một đảng cách mạng
đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc; đảng đó vừa giáo dục, vận động, tổ chức, giác ngộ
quần chúng và đưa họ ra đấu tranh giành độc lập tự do; đồng thời đảng còn làm nhiệm vụ
gắn kết cách mạng trong nước với cách mạng thế giới. Theo Nguyễn Ái Quốc, cách mạng
“Trước hết phải có đảng cách mệnh”, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Như vậy, trong những năm 20, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về tầm quan trọng và
sự cần thiết của một đảng cách mạng đã được thể hiện một cách rõ ràng. Không chỉ trên
phương diện nhận thức lý luận mà bằng các hành động thực tiễn của mình Người đã từng
bước chuẩn bị các điều kiện để đi tới thành lập một Đảng cách mạng tại Việt Nam.
2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông 19
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước ở chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng
cách mạng. Theo Các Mác, Ăng-ghen quần chúng làm cách mạng là giai cấp công nhân,
nông dân. Lê-nin trong cách mạng vô sản Nga, xác định quần chúng cách mạng là công
nhân, nông dân và binh lính. Còn với Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng là lực lượng toàn
dân, bao gồm: giai cấp công nhân - giai cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân - cùng
với công nhân là gốc của cách mạng, tiểu tư sản, trí thức, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc…
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn
nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất của mỗi giai cấp và tầng
lớp trong cách mạng và xã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ
thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó.
Theo Người: “Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn bán nhỏ, điền chủ
nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Công nông là người chủ cách mệnh “là vì công
nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, là vì công
nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế
giới, cho nên họ gan góc”. “Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức,
song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông”.
Bởi vậy phải đoàn kết công, nông dân - đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công
nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu
nước để tập trung chống đế quốc tay sai, giải phóng khỏi ách thuộc địa.
Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại
đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,
cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam. II.
Ý nghĩa của những quan điểm này đối với việc hình thành nội dung Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng:
a. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng: Các quan điểm của Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền
móng cho việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, phản ánh rõ ràng quan điểm
về sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
b. Mục tiêu cách mạng rõ ràng: Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định mục tiêu cách
mạng là giành độc lập cho dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Điều này phù hợp với quan
điểm của Nguyễn Ái Quốc về việc kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khẳng
định con đường cách mạng vô sản là con đường duy nhất để đạt được độc lập thực sự.
c. Đoàn kết toàn dân: Cương lĩnh nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết toàn dân, huy
động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng. Quan điểm này kế
thừa tư tưởng đoàn kết của Nguyễn Ái Quốc, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh đổ kẻ thù
d. Liên kết với phong trào cách mạng thế giới: Cương lĩnh cũng đề ra phương hướng
tranh thủ sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là từ các nước xã hội chủ
nghĩa. Điều này tăng cường sức mạnh của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thể hiện quan
điểm của Nguyễn Ái Quốc về việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 20
e. Tinh thần tự lực, tự cường: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng khẳng định tinh thần
tự lực, tự cường, tự chủ trong cuộc đấu tranh cách mạng. Quan điểm này đúng với tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc về việc dựa vào sức mạnh của chính mình để giành thắng lợi, tránh
phụ thuộc vào sự giúp đỡ từ bên ngoàii. Kết luận
Những quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc trong những năm
1920-1930 đã đóng vai trò quyết định trong việc hình thành và phát triển nội dung Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những quan điểm này xác định rõ mục
tiêu, phương hướng và lực lượng cách mạng, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sự đoàn
kết toàn dân, sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, cùng với tinh thần tự
lực, tự cường trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 10. Bằng thực tiễn lịch sử từ khi ĐCS VN ra đời cho đến nay, hãy chứng
minh: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam? Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã
hội là tất yếu khách quan
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò quyết định trong thắng lợi của cách mạng Việt Nam
1. Cách mạng tháng Tám (1945)
Lãnh đạo và tổ chức:
• Nắm bắt thời cơ: Khi Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, tạo ra một khoảng trống
quyền lực ở Đông Dương, Đảng đã kịp thời nhận ra cơ hội này và lãnh đạo quần
chúng nhân dân phát động Tổng khởi nghĩa.
• Kế hoạch và phương châm: Đảng đề ra phương châm hành động rõ ràng, phù hợp
với tình hình thực tế, huy động toàn dân đứng lên giành chính quyền. Các tổ chức
như Việt Minh đã tổ chức quần chúng một cách hiệu quả, tạo ra các lực lượng sẵn sàng hành động.
Kết quả: Cuộc cách mạng tháng Tám đã thành công, đánh đổ chế độ thực dân phong kiến,
lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2-9-1945. Đây là bước ngoặt lịch sử, mở
ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam với nền độc lập và chủ quyền được khẳng định
2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)
Chiến lược và sách lược đúng đắn:
• Chiến lược "toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến": Đảng đã đưa ra chiến
lược kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao, phát huy sức
mạnh tổng hợp của nhân dân.
• Xây dựng lực lượng vũ trang và hậu phương: Đảng chú trọng xây dựng các lực
lượng vũ trang mạnh mẽ và hậu phương vững chắc, tạo nên một cơ sở vững vàng cho cuộc kháng chiến.
Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954):
• Chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống Pháp, với sự lãnh
đạo tài tình của Đảng, lực lượng Việt Minh đã bao vây và tiêu diệt tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ. Chiến thắng này buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp