Đề cương Luật Hiến Pháp - Law | Học viện Tòa án
Sự xuất hiện học thuyết phân chia quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.Mục đích: hạn chế tối đa sự lạm dụng quyền lực từ phía nhà nước, bảo đảm các quyền tự do dânchủ thuộc về nhân dân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
CÂU HỎI ÔN TẬP HVTA
Câu 1. Nêu nguyên nhân ra đời của Hiến pháp:
-Sự xuất hiện học thuyết phân chia quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Mục đích: hạn chế tối đa sự lạm dụng quyền lực từ phía nhà nước, bảo đảm các quyền tự do dân
chủ thuộc về nhân dân.
-Giai cấp tư sản ra đời cuối thời kì phong kiến đã đưa ra quan điểm tiến bộ về vai trò pháp luật
trong quản lí xã hội. Pháp luật được xác định là công cụ chủ yếu để quản lí xã hội, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân; nhân dân được tham gia quá trình xây dựng pháp luật. Vì vậy, pháp
luật không chỉ bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị mà còn bảo vệ các giai cấp khác.
-Kinh tế, với phương thức sản xuất TBCN, phải thiết lập quan hệ sản xuất phủ hợp phương thức
đó. Vì vậy, con người phải được giải phóng về mặt pháp lý; quyền con người, quyền công dân
được Nhà nước tôn trọng. Đặc biệt, quyền tài sản, quyền tự do cá nhân được Nhà nước coi là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
-Sự xuất hiện của Hiến pháp là kết quả của sự phát triển Khoa học – kỹ thuật trong đó có khoa học pháp lý.
-Cuộc cách mạng tư sản nổ ra. Giai cấp tư sản giành quyền lực chính trị đã ban hành pháp luật,
trong đó có Hiến pháp để xác lập, củng cố địa vị thống trị của mình đồng thời bảo vệ lợi ích giai
cấp tư sản và các giai cấp khác trong xã hội.
Câu 2. Phân tích định nghĩa, đặc điểm của Hiến pháp:
* Định nghĩa: Hp là hệ thống các qppl có hiệu lực pháp lí cao nhất quy định những vấn đề cơ
bản nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức
quyền lực nhà nước, địa vị pháp lí của con người và công dân.
Tất cả các vbpl khác phải phù hợp, không được trải với Hiến pháp. Vị trí tối cao của Hiến pháp
là do nó phản ánh sâu sắc nhất chủ quyền của nhân dân và về nguyên tắc phải do nhân dân thông
qua (qua hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc trưng cầu ý dân). Điều này khác với các đạo
luật bình thường chỉ do quốc hội nghị viện) gồm những người đại diện cho dân bầu và ủy quyền xây dựng. * Đặc điểm:
+ HP là luật cơ bản, vì vậy nó là nền tảng là cơ sở để xây dựng và phát triển toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia.
+ HP là luật tổ chức, là luật quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước, là luật xác định
cách thức tổ chức và xác lập các mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành phá, tư pháp; quy
định cấu trúc các đơn vị hành chính lãnh thổ và cách thức tổ chức chính quyền địa phương.
+ HP là luật bảo vệ các quyền con người và công dân, do đó HP là luật cơ bản của NN nên các
quy định về quyền con người và công dân trong HP là cơ sở pháp lý chủ yếu để NN và XH tôn
trọng bảo đảm thực hiện quyền con người và công dân.
+ HP là luật có hiệu lực pháp lý tối cao, tất cả các VBPL khác không được trái với HP, bất kì văn
bản nào trái với HP đều bị hủy bỏ.
Câu 3. Nêu cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay:
-Khái niệm Hiến pháp: Hiến pháp là một đạo luật cơ bản của một quốc gia, có hiệu lực pháp lý
cao nhất, quy định những vấn đề cơ bản nhất và quan trọng nhất của một quốc gia như: thể chế
chính trị, tổ chức quyền lực Nhà nước, các quyền cơ bản (quyền con người, quyền công dân).
- Khái niệm về bảo vệ Hiến pháp: bảo vệ hiến pháp là tổng hợp các hoạt động được tiến hành bởi
các chủ thể mà hiến pháp xác định thẩm quyền nhằm bảo đảm sự tôn trọng, giữ gìn hiến pháp,
ngăn ngừa, chống lại và triệt tiêu hành vi vi hiến. 1
- Khi Hiến pháp được ban hành ra thì việc vi hiển là điều không thể tránh khỏi. Có thể vi hiến 1
cách chủ hoặc vi hiến 1 cách bị động. Vì vậy, để đảm bảo vai trò tối cao của mình Hiến pháp
2013, đã giải quyết vấn đề về bảo vệ Hiến pháp bằng quy định tại điều 119 của Hiến pháp như sau: trích điều 119 ra.
1.Vai trò bv hp của Nhân dân:
Hp xác nhận vai trò bảo hiến của nhân dân tại lời nói đầu như sau: “Thể chế hóa Cương
lĩnh ........ công bằng, văn minh”. Vai trò bảo hiến cụ thể của Nhân dân thể hiện như sau:
- Trách nhiệm của bmnn trước nd: khoản 2 điều 8, khoản 7 điều 70, khoản 6 điều 98, khoản 2
điểu 99, khoản 2 Điều 110.
- Nhóm quyền cơ bản về chính trị của công dân: khoản 2 điều 7, điều 27, điều 28, điều 29, điều 30, khoản 4 điều 120. 2. Vai trò bv hp của QH:
Việc hp quy định qh “giám sát tối cao đối với nhà của nn” (điều 69 hp năm 2013) mà không phải
là “giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nn” (điều 83 hp 1992) đặt ra vấn đề giới hạn
quyền lực nh trong mô hình bảo hiến. Theo điều 70, QH thể hiện vai trò bảo hiển bằng các nhóm thẩm quyền sau đây:
-Quyền giám sát tối cao việc tuân theo hp, luật và nghị quyết của qh. Xét về mặt thuật ngữ pháp
lý, “tuân theo” có thể hiểu là “tuân thủ”. Như vậy, nội hàm của quyền trên là việc giám sát thực
hiện hp một cách thụ động, thể hiện ở sự kiềm chế của chủ thể không vi phạm các quy phạm hiến định.
-Thẩm quyền tổ chức các chức danh nhà nước ở TW: Qh bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ
chức vụ do qh bầu hoặc phê chuẩn.
-Thẩm quyền xử lí vb pl
-Thẩm quyền đối với các điều ước quốc tế: Qh phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt
hiệu lực của các điều ước quốc tế tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng.
- Thẩm quyền về trưng cầu ý dân: qh quyết định trưng cầu ý dân, đặc biệt là trưng cầu ý dân về hp (khoản 4 điều 120).
3. Vai trò bv hp của UBTVQH:
Theo điều 74 hp năm 2013, UBTVQH thể hiện vai trò bảo hiến bằng các nhóm thẩm quyền sau đây:
-Thẩm quyền giải thích hp, luật, pháp lệnh.
-Thẩm quyền giám sát việc thi hành hp, luật, nghị quyết của gh, pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH thông qua việc giám sát hd của các cq do qh thành lập. Đối chiếu vs điều 70, theo
chúng tôi, hp đã phân vai việc giám sát thực hiện hp 1 cách chủ động thông qua việc thực hiện 1
hđ hiến định, chẳng hạn CP trình dự án luật trc qh, TANDTC tổng kết thực tiễn xét xử…
-Thẩm quyền tổ chức các chức danh nn ở TW -Thẩm quyền xử lí vb pl
-Thẩm quyền giám sát HĐND
- Thẩm quyền về trưng cầu ý dân: UBTVQH tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của qh, đặc
biệt trưng cầu ý dân theo hp (khoản 4 Điều 120)
4. Vai trò bv hp của Hội đồng dân tộc và Ủy ban của qh:
Đối với Hội đồng dt và Ủy ban hà thường xuyên, vai trò bảo hiến bằng các thẩm quyền sau đây:
thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo đc QH hoặc UBTVQH giao; thực
hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề
thuộc phạm vi hđ của Hội đồng dt và ub (khoản 2 điều 76). Hđ dt thực hiện quyền giám sát việc 2
thi hành chính sách dt, chương trình, kế hoạch, pt kt - xh miền núi và vùng đồng bào dt thiểu số (khoản 2 điều 75).
Đối với ub lâm thời, khi cần thiết, qh sẽ thành lập để nghiên cứu, thẩm tra dự án hoặc điều tra về
một và nhất định (điều 78).
5. Vai trò bv hp của đbqh:
Đhqh thể hiện vai trò bảo hiển thông qua quyền chất vấn (khoản 1 điều 80); quyền yêu cầu cq, tổ
chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu lq đến nhiệm vụ của cq, tồ chức, cá nhân đó (khoản 2 điều 80). 6. Vai trò bv hp của CTN:
Ctn thể hiện vai trog bảo hiển bằng những nhóm thẩm quyền sau đây:
- Thẩm quyền trong lĩnh vực lập pháp: khoản 1, 6 điều 88; khoản 14 điều 70.
- Thẩm quyền trong lĩnh vực hành pháp: khoản 2 điều 88, điều 90.
- Thẩm quyền liên quan lĩnh vực tư pháp: khoản 3 điều 88. 7. Vai trò bv hp của CP:
Theo điều 96 hp 2013, chính phủ thể hiện vai trò bảo hiển qua mấy nhóm thẩm quyền sau:
-Thẩm quyền liên quan đến quyền hành pháp: chính phủ đề xuất xây dựng chính sách, trình
Quốc hội, UBTVQH quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền; Trình dự án luật, trình dự án
pháp lệnh trước UBTVQH.Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước các lĩnh vực; thi hành lệnh
tống động viên và động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết
khác để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
-Thống nhất quản lý trên nền hành chính quốc gia; Thực hiện quản lý, tổ chức công tác, giải
quyết khiếu nại, phòng, chống quan liêu liệu tham nhũng trong bộ máy nhà nước, Lãnh đạo công
tác của các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND các cấp; hướng dẫn, kiểm tra
tạo điều kiện với HDND; Bảo vệ quyền và lợi ích của nhà nước và xã hội, quyền con người,
quyền công dân và bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
- Thẩm quyền về đối ngoại: Tổ chức đảm phán, kí điều ước quốc tế nhân danh nn theo ủy quyền
của Ct nước; quyết định kí, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực các điều tước quốc tế
nhân danh CP (trừ quy định tại khoản 14, điều 70); Bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của tổ
chức và công dân nước ngoài.
8. Vai trò bv hp của Thủ tướng và các thành viên khác của cp:
Với tư cách là người đứng đầu cp, Thủ tướng thể hiện vai trò bảo hiển thông qua những nhóm thẩm quyền sau đây:
- Thẩm quyền chung đối với nền hành chính quốc gia: Tt lãnh đạo công tác của cp, việc xd chính
sách, tổ chức thi hành pl; lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hđ của hệ thống hành chính nn từ TW
đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của tiến hành chính quốc gia.
- Thẩm quyền tổ chức hệ thống cq hành chính nn: Thủ tướng trình qh đề nghị bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức các tv khác của cp, Thứ trưởng, chức vụ tương đường thuộc bộ, cq ngang bộ;
phê chuẩn việc bầu, miễn nhiễm và quyết định điều động, cách chức ctn, Phó chủ tịch ubnd cấp tỉnh.
- Thẩm quyền xử lý vb pl
- Thẩm quyền đối với điều ước quốc tế: điều 98.
Với tư cách là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cq ngang bộ thể
hiện vai trò bảo hiến thông qua trách nhiệm pháp lý nn về ngành, lĩnh vực đc phân công, tổ chức
thi hành và theo dõi việc thi hành pl liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. 9. Vai trò bv hp của TAND: 3
Với tư cách là cq xét xử cao nhất của nước CHXHCN VN, TANDTC thể hiện vai trò bảo hiến
bằng việc giám đốc việc xét xử của các ta khác và thực hiện tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm
áp dụng thống nhất pl trong xét xử (điều 104).
10. Vai trò bv hp của VKSND:
Vksnd thể hiện vai trò bảo hiển thông qua việc thực hành quyền công tế kiểm sát hđ tư pháp, cụ thể như sau:
- Thực hành quyền công tố là hđ của vksnd trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của
nn đối với người bị tình nghi phạm tội, đc thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình điều tra, truy tố, xét xử. Thẩm quyền này cũ nhằm đảm bảo thực thi nguyên tắc hạn chế
quyền con người, quyền công dân the khoản 2 diều 14 hp.
- Kiểm sát hđ tư pháp là hở của vksnd để kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của
các cq, tổ chức, các nhân trong hđ tư pháp, đc thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, hành
chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gđ, kinh doanh, thương mại, lao động; trong việc thi hành án,
việc giải quyết khiếu nại tố cáo về tư pháp và các hđ khác theo quy định của pl. Vai trò này đặc
biệt quan trọng đối với việc bv, đảm bảo các quyền con người trong tố tụng hình sự theo điều 31 hp.
11. Vai trong by hp của chính quyền địa phương:
Khoản 1 Điều 112 hp quy định: “Chính quyền địa phương ... cq nn cấp trên”. Vai trò bảo hiến
của các cq thuộc chính quyền địa phương đc thể hiện như sau:
- Hội đồng nhân dân là ca quyền lực nn ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nd, do nd địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trc nd địa phương và củ cấp trên. Điều 113, 115.
- Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do hđnd cùng cấp bầu là cq chấp hành của
hđnd, cq hành chính nn ở địa phương, chịu trách nhiệm trc hđnd và cq các hành chính nn cấp trên. Điều 114.
12. Vai trò by hp của các thiết chế biến định độc lập:
Hội đồng bầu cử Quốc gia là cơ quan do QH thành lập có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu QH;
chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cửa đại biểu hđnd các cấp (điều 117) Hội đồng bầu cử quốc
gia lần đầu tiên được HP quy định. Tính độc lập của cq này sẽ góp phần đảm bảo tính hợp hiến,
hợp pháp của các bầu cử phổ thông ở nước ta; thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân.
Kiểm toán nhà nước (điều 118). Tuy do QH thành lập và phải báo cáo công tác, chịu trách nhiệm
trước QH song kiển toán Nhà nước không chỉ là công cụ của quốc hội mà còn phải thực sự trở
thành công cụ giám sát tài chính QH trong hoạt động lập pháp đối với các dự luật về tài chính
hoặc việc quyết định các dự án, công trình trọng điểm quốc gia; kiểm soát việc sử dụng tài chính
công trong hoạt động hành pháp của CP, cq địa phương cũng như kiểm soát việc sử dụng tài
chính công trong hoạt động tư pháp.
Câu 4. Nêu các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội:
Các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội được thể hiện trong cương lĩnh
chính trị của Đảng và được bổ sung, cụ thể hóa trong các nghị quyết đại hội Đảng qua các nhiệm
kì và các nghị quyết chuyên đề, bao gồm những mặt cơ bản sau:
- Đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn để định hướng cho sự phát triển của Nhà nước và
xã hội trong từng thời kì cụ thể; 4
- Vạch ra những phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước và pháp luật, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
- Đề ra những quan điểm và chính sách về công tác cán bộ; phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng những
đảng viên ưu tú và những người ngoài Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với các cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn để bố trí vào làm
việc trong cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội;
- Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua các đảng viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo
dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, qua đó tập hợp, giáo dục và động viên
quần chúng tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện đường lối
chính sách của Đảng, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước.
- Đảng thực hiện công tác kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách,
nghị quyết của Đảng đối với các đảng viên, các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và tổ chức
xã hội, phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai lầm, lệch lạc. Đồng thời, Đảng tiến hành tổng kết
thực tiễn, rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung và hoàn thiện các đường lối chính sách trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Về thực chất, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là lãnh đạo chính trị mang tính
định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị có cơ sở
để chủ động sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những công cụ, phương pháp và biện pháp
cụ thể của mình. Phương pháp để thực hiện lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là những
phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và dựa vào uy tín, năng lực của các đảng viên và tổ
chức cơ sợ Đảng. So với các đảng chính trị cầm quyền trong các nhà nước khác, vị trí, vai trò
lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội có các đặc trưng riêng như: Quyền lãnh
đạo của Đảng được ghi nhận trong hiến pháp; cơ sở chính trị xã hội của Đảng rất rộng rãi, sự
lãnh đạo của Đảng được tất cả các tổ chức chính trị xã hội thừa nhận; Đảng là đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…Vì vậy, những chủ
trương và quan điểm lớn của Đảng được mọi tầng lớp nhân dân quan tâm, tham gia góp ý kiến từ
khi soạn thảo và tích cực ủng hộ, tổ chức thực hiện trên thực tế.
- Những năm vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có nhiều
đổi mới, tạo tiền đề cho việc kiện toàn và phát huy vai trò và hiệu lực quản lí của Nhà nước, xây
dựng và đổi mới hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, sự lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị vẫn còn những khuyết điểm hạn chế;
phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới, việc kiện toàn bộ máy của hệ thống chính trị
và công tác tổ chức cán bộ trên một số phương diện còn hạn chế, yếu kém. Tình trạng Đảng bao
biện, làm thay, can thiệp sâu vào công việc thuộc chức năng của Nhà nước vẫn còn, chưa phát
huy hết khả năng của các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị và quyền làm chủ của
nhân dân. Để khắc phục khuyết điểm này, Đảng ta đã chủ trương và kiên quyết tự đổi mới và
chấn chỉnh, phát huy ở tầm cao hơn bản lĩnh và sức chiến đấu của Đảng đặc biệt là về năng lực
tổ chức, chỉ đạo thực hiện, vươn lên ngang tầm đòi hỏi đối với trách nhiệm lãnh đạo đất nước trong giai đoạn mới.
Câu 5. Phân tích vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử:
- Pháp luật bầu cử Việt Nam đề cao vai trò của MTTQ Việt Nam trong việc bầu cử đại biểu
Quốc hội và bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân.
a) Tổ chức hội nghị hiệp thương 5
- Là chủ thể duy nhất lập danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân.
- MTTQ Việt Nam phải tổ chức ba hội nghị hiệp thương cơ bản giữa các tổ chức là thành viên
+ Hội nghị hiệp thương để phân bổ số lượng ứng cử viên mà các tổ chức xã hội được giới thiệu
+ Hội nghị hiệp thương sơ bộ các ứng cử viên để đưa về đơn vị công tác và nơi cư trú lấy ý kiến
đóng góp của hội nghị cử tri.
+ Lập danh sách ứng cử viên đưa về các đơn vị bầu cử.
b) Tham gia các tổ chức phụ trách bẩu cử
- Thành lập hội đồng bầu cử, ủy ban bầu cử, ban bầu cử, tổ bầu cử
- Tham gia vào các tổ chức này nhằm giám sát, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử
- Tạo điều kiện giúp các tổ chức này thực hiện nhiệm vụ của mình
c) Phối hợp các cơ quan hữu quan tổ chức các hội nghị nơi cư trú, các hội nghị tiếp xúc cử tri
- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban thường trực UBMTTQ cùng cấp giới thiệu
điều kiện hoàn cảnh chung của địa phương để người ứng cử dự kiến chương trình làm việc của mình.
- Ban thường trực UBMTTQ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì phối hợp với chính
quyền địa phương ở đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri, thành phần gồm đại diện các
cơ quan, tổ chức, đơn vị cử tri ở địa phương.
- Sau hội nghị tiếp xúc cử tri, Ban thường trực UBMTTQ tỉnh, thành phố trực thuộc TW lập báo
cáo tình hình tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri, ý kiến của cử tri về từng người ứng cử gửi đến hội
đồng bầu cử và UBTW MTTQVN.
d) Tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện PL về bầu cử
- Phối hợp các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội tổ chức các chương
trình tìm hiểu về pháp luật bầu cử
e) Tham gia giám sát việc bầu cử
- Giám sát việc thành lập và hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử
- Giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức dự kiến người ra ứng cử
- Giám sát việc lấy ý kiến cử tri tại nơi cư trú, công tác của ứng cử vi
- Giám sát việc hướng dẫn thủ tục hoàn tất hồ sơ, thời hạn nộp hồ sơ (kể cả những người tự ứng
cử), việc chuyển hồ sơ, số lượng người ứng cử so với số lượng được bầu, thành phần, số lượng
cử tri lấy ý kiến nơi cư trú
- Giám sát việc lập danh sách cử tri, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về danh sách cử tri
- Giám sát tư cách cử tri
- Giám sát quá trình vận động bầu cử của ứng cử viên
- Giám sát quá trình bầu cử, thể thức bỏ phiếu trong ngày bầu cử.
Câu 6. Phân tích các nguyên tắc bầu cử:
Khái niệm bầu cử: Bầu cử là thủ tục mà theo đó một nhóm người xác định (nhân dân, cử tri, tập
thể, cá nhân) bầu ra một hay nhiều người thực hiện chức năng xã hội nào đó. Hay nói khác đi,
bầu cử là hoạt động nhân dân trong một nước hoặc địa phương lựa chọn người đại diện
a. Nguyên tắc bầu cử phổ thông:
Bầu cử phổ thông có nghĩa là bầu cử rộng rãi, mọi công dân đều có thể được tham gia khi đạt
được mức độ tuổi trưởng thành về mặt nhận thức theo quy định của pháp luật.
Cơ sở hiến định: điều 27 HP 2013
Đây là nguyên tắc quan trọng trong việc tổ chức các cuộc bầu cử, là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh
giá mức độ dân chủ của bầu cử. Cuộc bầu cử càng được mở rộng cho nhiều người tham gia bao
nhiêu càng thể hiện mức độ dân chủ bấy nhiêu. 6
Để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc phổ thông đã khắc phục những sai sót và bổ sung nhiều
điểm mới cụ thể: cử tri là người đang bị tạm giam tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu
đại biểu QH và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp
hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (k5 29 LBC 2015)
Ngoài ra, LBC hiện hành cũng có nhiều quy định tạo điều kiện cho đại đa số dân có thể tham gia
bầu cử như ngày bầu cử là ngày chủ nhật (45 LBC 2015) và người k2 d30 LBC 2015, k5dd29 LBC 2015
Để cuộc bầu cử tiến hành hiệu quả, chất lượng, LBC hiện hành có quy định một số trường hợp
không được tham gia bầu cử (k1 d30 LBC 2015) Ý nghĩa:
Quyền bầu cử phổ thông của nhà nước XHCN VN khác với quyền bầu cử phổ thông của nhà
nước tư sản không những bằng việc không quy định hạn chế tiêu chuẩn người tham gia bầu cử,
trừ việc quy định hạn chế ở dưới mức tuổi trường thành mà còn quy định sự tham gia bầu cử của
tất các các quân nhân đang tại ngũ. Hạn chế việc tham gia của quân đội vào các cuộc bầu cử là
đặc trưng của chế độ tư bản (quân đội không tham gia chính trị).
Quyền bầu cử của công dân được các cơ quan phụ trách bầu cử ghi nhận trong danh sách cử tri.
Tất cả mọi công dân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị
pháp luật tước quyền bầu cử đều được ghi tên trong danh sách cử tri.
Biểu hiện của nguyên tắc trong LBCĐBH & HĐND
Để đảm bảo nguyên tắc bầu cử phổ thông, Luật bầu cử quy định hàng loạt biện pháp nhằm khắc
phục sự sai sót trong quá trình lập danh sách cử tri:
- Việc niêm yết danh sách cử tri (đ 32 LBC)
- Việc công dân có quyền kiểm tra, khiếu nại về cử tri và danh sách cử tri (đ 33 LBC)
- Quyền cử tri được giới thiệu đến bầu cử nơi mới đến (đ 34 LBC)
b. nguyên tắc bầu cử bình đẳng theo pháp luật hiện thi hành:
- Khái niệm: Nguyên tắc bầu cử bình đẳng là nguyên tắc nhằm đảm bảo cho mọi công dân được
tạo điều kiện để tham gia bầu cử và có cơ hội ngang nhau khi ứng cử và vận động bầu cử
- Cơ sở pháp lý: Khoản 1 điều 7 hiến pháp 2013
- Nội dung của nguyên tắc:
1.Mỗi công dân chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú.
Nghĩa là khi diễn ra cuộc bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND thì bất cứ công dân nào cũng phải tham
gia bầu cử theo quy định pháp luật và mỗi công dân sẽ được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi
mình đang sinh sống. Đối với những công dân mang quốc tịch Việt Nam nhưng đang cư trú ở
nước ngoài thì tùy theo ở nước sở tại tại lãnh sự quán có tổ chức bầu cử để tiến hành đăng ký vào
danh sách cử tri. Trường hợp tại lãnh sự quán không có tổ chức thi công dân phải trở về Việt
Nam trước 24h kể từ thời điểm bắt đầu bỏ phiếu, đến Ủy ban nhân dân cấp xã để xuất trình hộ
chiếu có ghi quốc tịch VN để ghi tên vào danh sách cử tri.
2. Mỗi công dân khi tham gia bầu cử có quyền và nghĩa vụ như nhau. Khi cuộc bầu cử các chức
danh vào các cơ quan dân cử (HĐND, ĐBQH) thì mọi công dân phải có nghĩa vụ tham gia vào
cuộc bầu cử và có quyền được bầu ứng cử viên nào mà cử tri muốn họ là người đại diện cho
tiếng nói của mình ở các cơ quan dân cử. Thông qua, người đại diện đỏ cử tri có thể thể hiện
quyền làm chủ của mình.
3. Mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu và mỗi phiếu bầu chỉ được ghi tên một ứng cử viên ở
một đơn vị bầu cử. Khi tham gia bầu cử thì mỗi cử tri chỉ được ghi tên trong một lần trong danh
sách cử tri nơi mình tham gia bầu cử và chỉ được một phiếu bầu và phiếu bầu đó chi được bầu cử 7
cho một ứng cử viên nếu cử tri dùng phiếu bầu đó bầu cho hai ứng cử viên thì phiếu bầu đó xem
như không hợp lệ và không có giá trị thực tiễn khi kiểm phiếu để xác định người trúng cử.
4. Giá trị phiếu bầu của mọi cử tri như nhau không có sự phân biệt. Kết quả của cuộc bầu cử chỉ
phụ thuộc vào số phiếu mà cử tri bỏ cho mỗi ứng cử viên là cơ để xác định người trúng cử. Tức
là giá trị phiếu bầu như nhau không phụ thuộc và giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo…
Không một thước đo trong xã hội nào có thể làm ảnh hưởng đến giá trị của mỗi lá phiếu mà cử
tri giữ trên tay. Giá trị phiếu bầu là như nhau và ứng cử viên được trúng cử phải là người ứng cử
đạt số phiếu bầu quá nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.
- Để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng này diễn ra trong cuộc bầu cử đúng nghĩa thi đòi hỏi phải có
sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các
vùng miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng. - Ý nghĩa:
1. Một nguyên tắc nhằm bảo đảm tính khách quan, không thiên vị để mọi công dân đều có khả
năng như nhau tham gia bầu cử và mức độ dân chủ của cuộc bầu cử phụ thuộc chủ yếu vào tiến
trình thực hiện nguyên tắc này. - Liên hệ thực tiễn:
+ Vẫn có một số cử tri bầu dùm, bầu hộ đôi lúc 1 nngười bầu 2-3 phiếu. Điều này, cho chúng ta
thấy được việc cấp thể bầu cử chưa chu đáo và cẩn trọng.
+ Có cử tri xuất hiện trong danh sách 2 nơi: Thường trú và tạm trú. Điều này, xuất phát từ việc
kiểm tra, rà soát của chính quyền chưa chặt chẽ. Đồng thời, cũng thể hiện lên thái độ thờ ơ của
nhân dân trong quá trình bầu cử của nhân dân.
- Ý nghĩa: Mức độ dân chủ của cuộc bầu cử phụ thuộc chủ yếu vào tiến trình thực hiện nguyên tắc này - Liên hệ thực tiễn:
+ Vẫn có một số cử tri bầu dùm, bầu hộ đối lúc 1 nngười bầu 2-3 phiếu. Điều này, cho chúng ta
thấy được việc cấp thẻ bầu cử chưa chu đáo và cẩn trọng
+ Có cử tri xuất hiện trong danh sách 2 nơi: Thường trú và tạm trú. Điều này, xuất phát từ việc
kiểm tra, rà soát của chính quyền chưa chặt chẽ. Đồng thời, cũng thể hiện lên thái độ thờ ơ của
nhân dân trong quá trình bầu cử của nhân dân.
c. nguyên tắc bầu cử trực tiếp theo pháp luật hiện hành:
- Nguyên tắc bầu cử trực tiếp là cử tri tín nhiệm người nào bỏ phiếu thẳng cho người ấy làm
ĐBQH hay ĐBHĐND không thông qua người nào khác, cấp nào khác
- Nguyên tắc này đòi hỏi điều 69 LBC 2015 Ý nghĩa:
Nguyên tắc trực tiếp bầu cử ra người đại diện cho mình trong các cơ quan quyền 14 lực nhà
nước, không thông qua một khâu trung gian nào khác là một nguyên tắc thể hiện rõ tính chất dân
chủ trong sự hình thành bộ máy nhà nước. Chính nguyên tắc này cho phép người đại diện được
nhân dân trực tiếp bầu ra nhận được quyền lực nhà nước từ nhân dân. Thực hiện đúng nguyên tắc
này, kết quả bầu cử sẽ phản ánh chính xác nhất ý chí nguyện vọng của nhân dân trong bầu cử
Biểu hiện của nguyên tắc trong LBC ĐBH & ĐBHDND:
Luật bầu cử của Nhà nước ta hiện nay có các quy định chặt chẽ để bảo đảm cho nguyên tắc trực
tiếp được thực hiện: Thông báo về thời gian bầu cử, nơi bỏ phiếu (đ 70); thời gian bỏ phiếu (dd);
cử tri phải tự mình đi bầu không nhờ người khác bầu thay hay bầu bằng cách gửi thư (k2 đ69);
không đồng ý ứng viên nào thì trực tiếp gạch tên của ứng viên đó lên phiếu bầu…
d. Nguyên tắc bỏ phiếu kín 8
Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Không ai được biết nội dung phiếu bầu của cử tri.
-Việc thực hiện nguyên tắc bỏ phiếu kín là nhằm bảo đảm tính khách quan của cuộc bầu cử. Bầu
chọn người nắm giữ quyền lực nhà nước là một vấn đề tế nhị. Người được bầu chọn để nắm
quyền có thể sẽ có tác động không nhỏ tới đời sống của cử tri. Vì vậy, giữ bí mật phiếu bầu là
nhân tố bảo đảm cử tri có thể tiến hành lựa chọn ứng cử viên một cách tự do mà không e ngại bất
cứ hậu quả bất lợi nào đối với mình, từ đó bảo đảm tính khách quan của cuộc bầu cử.
Câu 7. Phân tích vị trí, tính chất của Quốc hội:
Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ Nghĩa Việt Nam.
Thứ nhất, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội là Cơ quan được
hình thành thông qua chế độ bầu cử Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, đại
diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân cả nước. Quốc hội gồm có các đại biểu thay mặt cho các
giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, các vùng lãnh thổ và thay mặt cho khối đại đoàn kết
toàn dân Đại biểu quốc hội phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cử tri cả nước.
Thứ hai, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, dân
dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do
đó Quốc hội được nhân dân trao quyền thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực nhà nước. Vì
vậy Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực. Mặt khác, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất vì Quốc hội được thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; Quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Như vậy, Quốc hội có vị trí cao nhất trong bộ máy nhà nước, là cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCNVN.
Câu 8. Phân tích chức năng của Quốc hội:
Theo quy định tại Điều 69 Hiến pháp 2013 Quốc hội có ba chức năng cơ bản:
-Chức năng lập hiến, lập pháp:
QH ban hành, sửa đổi HP, QH làm HP thông qua ủy ban dự thảo HP và ủy ban dự thảo sửa đổi HP.
QH làm luật và sửa đổi luật, quyết định chương trình xây dựng luật và pháp lệnh. Hoạt động làm
luật của QH không có nghĩa là QH làm hết tất cả các khâu của quy trình luật. Các dự thảo luật
không phải do QH xây dựng mà chủ yếu là do Chính phủ, Chủ tịch nước, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
mặt trận có quyền trình dự án luật. Trên cơ sở các dự án luật đó Quốc hội thảo luận và quyết định
có thông qua hay không thông qua. Chỉ có Quốc hội mới mới trở thành luật có quyền thông qua
luật, và chỉ những dự án luật nào được Quốc hội thông qua
- Chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước: Các vấn đề quan trọng của đất nước
đều do Quốc hội quyết định. Đó là những vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước, các chính sách về
đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, quyết định những
vấn để hệ trọng đối với vận mệnh đất nước như quyết định vấn để chiến tranh, hoà bình, tình
trạng khẩn cấp, các biện pháp đảm bảo quốc phòng và an ninh, quyết định chính sách dân tộc,
tôn giáo, vấn để đại xá, trưng cầu dân ý…
- Chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước:
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với hoạt động của nhà nước nhằm làm cho các quy định của Hiến pháp, luật được thi hành triệt
để nghiêm minh và thống nhất. 9
Quốc hội giám sát tối cao bằng việc nghe và xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tổng kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan khác do Quốc hội
thảnh lập. Quốc hội giám sát thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội tại kỳ họp hoặc
khi Quốc hội không họp, thông qua hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, thông qua các Uỷ ban chuyên trách của Quốc hội và thông qua hoạt động của đại biểu quốc hội.
Khi giám sát tối cao Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối tạo và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trái với Hiến pháp luật, nghị quyết của Quốc hội.
Câu 9. Nêu cơ cấu tổ chức của Quốc hội:
Quốc hội gồm có Chủ tịch quốc Hội, các Phó chủ tịch quốc hội, các đại biểu quốc hội. Về
tổ chức cơ quan Quốc hội có:
-Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ
Quốc hội gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban thường
vụ Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội làm Phó chủ tịch.
Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và không
đồng thời là thành viên Chính phủ. Số Phó chủ tịch Quốc hội và thành viên Uỷ ban thường vụ
Quốc hội do Quốc hội quyết định.
- Hội đồng dân tộc gồm có Chủ tịch, các phó chủ tịch và các Uỷ viên thường trực Uỷ
viên chuyên trách và các Uỷ viên khác. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu trong số các
đại biểu quốc hội, các Phó chủ tịch và uỷ viên do Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
- Các Uỷ ban của Quốc hội gồm có Ủy ban pháp luật; Uỷ ban tư pháp; Uỷ ban kinh tế;
Uỷ ban tài chính ngân sách; Uỷ ban quốc phòng và an ninh Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên
thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
Uỷ ban đối ngoại. Ngoài ra Quốc hội có thể thành lập Uỷ ban lâm thời. Mỗi Uỷ ban của Quốc
hội có Chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm, Uỷ viên thường trực, Uỷ viên chuyên trách và các Uỷ viên khác.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thành lập các tiểu ban để nghiên cứu, chuẩn bị các vấn
đề thuộc lĩnh vực hoạt động của đồng dân tộc, Uỷ ban. Trường tiến bạn phải là thành viên của
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban, các thành viên khác có thể không phải là thành viên của Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban khoặc không phải là đại biểu Quốc hội.
Câu 10. Phân tích vị trí, tính chất của Chính phủ:
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của QH.
CP chịu trách nhiệm trước QH và báo cáo công tác trước QH, ủy ban thường vụ QH, CHủ tịch nước.
a. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội thể hiện ở:
-Thứ nhất, Quốc hội thành lập ra Chính phủ, quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn cho Chính phủ. Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, nhiệm kì theo
nhiệm kì của Quốc hội.
-Thứ hai, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước.
-Thứ ba, thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, có thể bị Quốc hội
bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo quy định của pháp luật, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội. 10
-Thứ tư, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quy định vào trong Nghị quyết
của Quốc hội à Chính phủ tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả trên cơ sở cụ thể hóa bằng
các văn bản dưới luật, phân công, đề ra các biện pháp thích hợp, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên thực tế.
b. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất thể hiện ở:
-Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động chủ yếu bao trùm toàn bộ các lĩnh vực thuộc chức
năng của Chính phủ được Hiến pháp quy định, hoạt động quản lý nhà nước của Chính phủ bao
trùm toàn bộ các lĩnh vực trong phạm vi cả nước: kinh tế, văn hóa, xã hội Chính phủ thực hiện
vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân như vậy sẽ đảm bảo sự thống nhất trong hoạt
động quản lý nhà nước. Bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo
đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Câu 11. Nêu cơ cấu tổ chức của Chính Phủ:
Điều 95 Hiến pháp 2013 quy định “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”
Cơ cấu tổ chức: Chính phủ gồm Thể tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc
hội quyết định Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
Thủ tướng chính phủ là đại biểu quốc hội, do quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm theo
đề nghị của Chủ tịch nước.
Các thành viên khác của Chính phủ do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng.
Cơ cấu tổ chức của chính phủ gồm các bộ và cơ quan ngang bộ. Việc thành lập, bãi bỏ bộ, cơ
quan ngang bộ do chính phủ trình quốc hội quyết định. Vị trí, chức năng của bộ, cơ quan ngang
bộ đã được Luật tổ chức Chính phủ quy định: Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của chính phủ
thực hiện chức năng quản lí nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và các dịch vụ công
thuộc ngành, lĩnh vực tổ chức thi hành và kiểm tra việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành,
lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc (khoản 1 điều 39).
-Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định cụ thể số lượng cấp phó và cơ cấu tổ chức của bộ,
cơ quan ngang bộ được luật quy định gồm vụ, văn phòng, thanh tra, cục, tổng cục, đơn vị sự
nghiệp công lập. Về số lượng cấp phó, luật quy định:
+"Số lượng thứ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan ngang bộ không quá 05, bộ quốc phòng,
bộ công an, bộ ngoại giao không quá 06. Trong trường hợp do sác nhập bộ, cơ quan ngang bộ,
hoặc do yêu cầu điều động, luân chuyển cán bộ của cơ quan có thẩm quyền thì Thủ tướng Chính
phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định" (khoản 2 Điều 38)
+"Số lượng cấp phó của người đứng đầu vụ, văn phòng, thanh tra, cục, đơn vị sự nghiệp
công lập không quá 03, số lượng cấp phó của người đứng đầu tổng cực không quá 04" (khoản 2 điều 40)
Câu 12. Phân tích chức năng của Tòa án nhân dân:
Vị trí pháp lý 102 HP 2013 TAND là một trong 4 hệ thống cơ quan cấu thành BMNN, là trung
tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta. Với tư cách là cơ quan tài phán, TAND thể
hiện một trong ba loại quyền lực nhà nước: quyền tư pháp. HP 2013 xác định rõ TAND là cơ
quan là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đây là điểm mới so với HP 1992, bổ sung này nhằm
thể chế hóa quan điểm về phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, như vậy trong 11
BMNN hoạt động tư pháp có rất nhiều nhưng chỉ có TANN là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử.
Trong hoạt động xét xử, TA độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật. Xét xử là học động xem xét
từ đó TAND nhân danh NN đưa ra phán quyết về tính hợp pháp củ vụ việc, và có một số đặc trưng sau:
- Phạm vi các vụ việc mà TAND giải quyết đa dạng nhất k2dd2 luật TCTAND
- TAND xét xử theo trình tự thủ tục phức tạp chặt chẽ và thận trọng; gồm ba loại hình chính: tố tụng dân sự, TTHS, TTHC
- Tính độc lập cao trong hoạt động nghề nghiệp những người tham gia xét xử k2dd103 HP
- Tính hiệu lực tuyệt đối trong các phán quyết của TAND *Chức năng
- TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN, thực hiện quyền tư pháp (k1 dd - HP 2013.
- Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính
và giải quyết những việc khác theo quy định của PL.
- Hội đồng xét xử của TAND có các đặc điểm khác so với việc giải quyết các đơn thư khiếu thư,
tố cáo của các CQNN khác như sau:
+ Chỉ có TAND mới có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy địn của PL.
+ Khi xét xử, tòa án đều nhân danh nước CHXHCNVN, bản án và quyết định của tòa án mang tính quyền lực NN.
+ Do kết quả xét xử của TAND mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được hưởng các quyền hoặc phải
thực hiện các nghĩa vụ pháp lí nhất định. Bản án, quyết định của TAND mang tính bắt buộc đối
với bị cáo hoặc các đương sự cho nên Hội đồng xét xử của Tòa án phải tuân theo các thủ tục tố
tụng nghiêm ngặt. Các thủ tục này được quy định trong các VB QPPL của luật tố tụng thì bản án,
quyết định của TAND có thể bị kháng cáo, kháng nghị để tòa án cấp trên xét xử theo các thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm khắc phục, sửa chữa các sai sót trong bản án,
quyết định của tòa án.
+ Việc xét xử của TAND có tính quyết định cuối cùng khi giải quyết các vụ việc pháp lí
+ Hội đồng xét xử của TAND là Hội đồng áp dụng PL mang tính chính sách và khoa học bởi vì
khi xây dựng PL, các nhà làm luật không thể dự liệu hết tất cả những hành vi, hoàn cảnh, tình
tiết của từng vụ việc cụ thể của từng vụ án. Vì vậy các thẩm phán và hội thẩm phải nghiên cứu
kĩ, tòa diện điều kiện khách quan, chủ quan có liên quan đến vụ án cụ thể, lựa chọn QPPL phù
hợp và phân tích làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của các QPPL đối với từng vụ án 1 cách hợp tình hợp lí.
Câu 13. Phân tích nhiệm vụ của Tòa án nhân dân:
- Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích
của NN, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (K3- 4102 HP 2013)
+ Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý có nghĩa là tòa án phải đem đến lẽ phải, sự công bằng trong
các vụ tranh chấp mà mình xét xử. Quan trọng hơn, tòa án cũng phải cho xã hội thấy rằng lẽ
phải, sự công bằng đã được thực thi trong mỗi vụ tranh chấp mà nó phân xử. Đó là chân lý hiển
nhiên, đã trở thành khẩu hiệu của Tư pháp hiện đại: “không những công lý phải được thực thi mà
mọi người phải thấy rằng công lý đã được thực thi”, Nếu tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ này, mỗi
người dân sẽ nhận thức được rằng trong bộ máy nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam luôn có
một loại cơ quan xét xử chuyên nghiệp để đem lại lẽ phải, lẽ công bằng cho mình mỗi khi có
tranh chấp, mỗi khi quyền lợi của mình bị xâm phạm và cần được bảo vệ; rằng cơ quan đó được
giao sứ mệnh đem lại công lý cho mình dù kẻ xâm phạm tới quyền lợi của mình có sức mạnh, sự 12
côn đồ hay ngông cuồng tới đâu, thậm chí là cơ quan nhà nước, bởi lẽ phán quyết của cơ quan đó
được bảo đảm bằng cưỡng chế nhà nước và tất cả các bên, kể cả các cơ quan nhà nước có liên
quan, đều phải tuân phục. Mặt khác, khi đưa tranh chấp ra xét xử trước tòa án, cho dù phán quyết
cuối cùng có đúng với ý muốn vị kỉ của các bên hay không các bên cũng phải công nhận rằng đó
là công lý đối với mình. Như vậy, tòa án phải thực hiện hoạt động xét xử cùa mình sao cho đối
với người dân, tòa án và công lý là một, như chân lý, không thể tách rời.
+ Trong chế độ phản dân chủ, ngụy dân chủ, tòa án được xem là công cụ đàn áp người dân.
Trong chế độ dân chủ, tòa án là nơi bảo vệ người dân, đem lại công lý cho người dân, bởi vì tòa
án là cơ quan bảo vệ công lý, xét xử theo lẽ phải, lẽ công bằng trên cơ sở pháp luật. Quyền con
người, quyền công dân được quy định trong hiến pháp và được cụ thể hóa trong các văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Tòa án đem lại công lý cho người dân
tức là tòa án phải bảo vệ được quyền con người, quyền công dân. Công lý có nghĩa là hành vi vi
phạm quyền của người dân phải được xác định và chịu chế tài thích đáng. Như vậy, nhiệm vụ
“bảo vệ công lý” của tòa án đồng nghĩa với việc tòa án phải bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng có nghĩa là mỗi khi người
dân cho rằng quyền của mình đã bị xâm phạm thì đều có quyền kiện tới tòa án để được bảo vệ.
Tòa án có trách nhiệm thụ lý vụ kiện theo thẩm quyền cụ thể quy định tại các luật tố tụng, xác
định cụ thể hành vi vi phạm, mức độ vi phạm và chế tài tương ứng đối với các vi phạm đối với
quyền con người, quyền công dân. Cho dù chủ thể xâm phạm quyền con người, quyền công dân
là ai cũng phải chấp hành quyết định của tòa án.
- Bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản
của NN, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân.
+ Hai nhiệm vụ này có thể được xem là nhiệm vụ phái sinh từ nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân.
+ Chế độ Xã hội Chủ nghĩa là chế độ được xây dựng trên nền tảng dân chủ, quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân và bản chất nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chế độ Xã
hội Chủ nghĩa lấy nhân dân làm gốc và người dân làm trung tâm của sự phát triển. Cao hơn cả,
một chế độ dân chủ với nhân dân phải là một chế độ coi trọng công lý, coi trọng lẽ phải và lẽ
công bằng. Chế độ đó cũng phải là chế độ tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Khi người dân thấy rằng trong xã hội có công lý và sự tôn trọng quyền con người, quyền công
dân thì niềm tin vào chế độ xã hội được củng cố vững chắc. Như vậy, tòa án thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ công lý cũng là thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ Xã hội Chủ nghĩa. Ngược lại, nếu tòa
án không bảo vệ được công lý, không cho thấy có công lý trong xã hội hoặc công lý quá xa với
người dân thì sẽ lại là phản tác dụng. Bởi khi đó người dân sẽ không tin tưởng vào tòa án, vào
công lý, dẫn tới mất lòng tin vào chế độ.
+ Tương tự, khi công lý được bảo vệ cũng có nghĩa là pháp luật (theo nghĩa rộng) được bảo vệ.
Điều đó cũng có nghĩa là lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
được bảo vệ. Như vậy, tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý cũng có nghĩa là thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong xã hội
Phân tích: Bằng hội đồng xét xử của mình, TAND bảo đảm cho PL được chấp hành nghiêm
chỉnh, thống nhất và pháp chế XHCN được tôn trọng. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền làm chủ
của nhân dân, xâm phạm đến tài sản của NN, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức đề được xử lý nghiêm minh, kịp thời. Việc xét xử của TAND phải đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. 13
Thông qua việc xét xử nghiêm minh các hành vi phạm tội, TAND không những trừng phạt và
giáo dục người phạm tội mà còn răn đe, giáo dục công dân tôn trọng và thực hiện nghiêm chình các quy định của PL.
Câu 14. Phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân:
* Nguyên tắc tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử.
-Đây là một nguyên tắc quan trong bậc nhất của tất cả các nguyên tắc điều chỉnh việc tổ chức và
hoạt động của tòa án. Nguyên tắc này được sinh ra do đòi hỏi phải thực hiện chức năng xét xử
một cách công bằng quy định. Nguyên tắc này được bắt đầu và như là một phần biểu hiện của
học thuyết phân quyền trong việc tổ chức của nhà nước dân chủ tư sản.
* Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán
Ở Việt Nam, trước đây chúng ta thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán. Nhưng từ năm 1960 đến
trước khi có Hiến pháp 1992 chế độ bầu cử thẩm phán đã được thực hiện ở các cấp Toà án nhân
dân. Theo chế độ bầu cử thẩm phán có những ưu điểm là đảm bảo cho nhân dân lao động trực
tiếp thực hiện quyền dân chủ của mình trong việc lựa chọn những người có trình độ chuyên môn,
pháp lý, đạo đức thay mặt mình xét xử được công minh, bảo vệ được lợi ích Nhà nước, lợi ích
tập thể, lợi ích chính đáng của công dân, đồng thời cũng là nguyên tắc đảm bảo quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Tuy nhiên việc thực hiện bầu thẩm phán trong hơn ba mươi năm qua đã bộc lộ những nhược
điểm như: Việc thực hiện bầu thẩm phán các Toà án địa phương ở nhiều nơi còn rất hình thức,
nhiệm kỳ ngắn làm cho thẩm phán chưa yên tâm công tác, nhất là việc bầu cử của những năm
qua không cho phép tính đến trình độ, năng lực xét xử của đội ngũ những người đảm nhiệm hoạt
động (chức năng) xét xử của Nhà nước.
Chính vì những lẽ trên, Hiến pháp 1992 đã thay nguyên tắc bầu thẩm phán bằng nguyên tắc bổ
nhiệm thẩm phán (Điều 128). Nguyên tắc này đảm bảo cho Nhà nước chọn được những người có
đủ điều kiện như bằng cấp ở trình độ cử nhân Luật học và phải qua lớp đào tào hành nghề của Học viện tư pháp.
*. Nguyên tắc khi xét xử sơ thẩm có hội thẩm tham gia và hội thẩm ngang quyền với thẩm phán
Để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật, việc xét xử không chỉ có những người
chuyên môn mà còn có cả đại diện từ phía nhân dân, Hiến pháp quy định: "Việc xét xử của Toà
án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy
định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán" (Điều 129).
*. Khi xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật
- Nguyên tắc này được quy định tại điều 130 Hiến pháp 1992 và bắt nguồn từ nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình xét xử, tính thống nhất của
pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này là:
- Bởi vì ý chí này được thể chế hoá thành pháp luật của Nhà nước khi tiến hành xét xử thẩm phán
và hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật tức là xét xử theo ý chí của nhân dân, ý chí của Nhà nước. Sự
độc lập của hội đồng xét xử chỉ được đảm bảo trong quá trình xét xử. Khi tiến hành xét xử, thẩm
phán và hội thẩm không bị ràng buộc bởi ý kiến của bất kỳ cơ quan hoặc cá nhân nào. Họ độc
lập đánh giá chứng cứ đã thu thập được tại phiên toà, độc lập xem xét các tình tiết có liên quan
đến vụ án. Trên cơ sở đó áp dụng luật để xử án ra quyết định bản án.
-Quan hệ giữa các cấp của Toà án là quan hệ tố tụng nên Toà án cấp trên không được phép dùng
mệnh lệnh hành chính buộc Toà án cấp dưới xử theo một tội danh hay xử cho bên nguyên hoặc
bên bị hưởng lợi ích nào đó trong vụ kiện dân sự. Đảng lãnh đạo Toà án không chỉ bằng đường
lối xét xử mà còn bằng việc chăm lo, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Toà án, xây 14
dựng tổ chức Đảng vững mạnh trong cơ quan Toà án. Đảng lãnh đạo Toà án nhưng không làm
thay Toà án, không được can thiệp vào việc giải quyết một vụ án cụ thể.
- Các cơ quan quản lý đại diện hay Nhà nước không được can thiệp vào việc xét xử của Toà án.
Toà án cũng không được lệ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà phải có kết
luận riêng, căn cứ vào pháp luật mà xử lý chính xác. Trong trường hợp phát hiện các chứng cứ
không đủ sức thuyết phục, Tòa án có quyền đình chỉ vụ án không tiến hành xét xử, ra quyết định
đình chỉ vụ án, hoặc chỉ tiếp tục điều tra thêm.
*. Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
- Nguyên tắc này được quy định tại điều 131 Hiến pháp năm 1992 và bắt nguồn từ nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
- Xét xử là một hoạt động đặc thù của Nhà nước nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có liên
quan đến vận mệnh của cá nhân, gia đình, quyền và lợi ích của Nhà nước, các tổ chức xã hội. Do
đó xét xử phải thận trọng, có quyết định đúng đắn, đòi hỏi trí tuệ của cả tập thể. Nguyên tắc này
đòi hỏi các Toà án khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình... theo
bất cứ thủ tục nào cũng phải thành lập Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử có thể gồm các thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân, cũng có thể gồm các thẩm phán (không có Hội thẩm nhân dân)
nhưng phải có ít nhất từ ba người trở lên (phải là những số lẻ, do Chánh án quyết định). Hội
đồng xét xử làm việc tập thể, cùng nghiên cứu hồ sơ vụ án, cùng thẩm vấn để xác minh các
chứng cứ và chịu trách nhiệm tập thể trước Toà án cấp mình và Toà án cấp trên về kết quả phiên
toà. Trên thực tế, do sự chênh lệch về trình độ hiểu biết pháp luật và kinh nghiệm xét xử giữa
thẩm phán với nhau và với Hội thẩm nhân dân nên nguyên tắc này có khi mang tính hình thức.
Vì vậy cần phải tiêu chuẩn hoá đối với thẩm phán và bồi dưỡng kiến thức pháp lý đối với các Hội thẩm nhân dân.
*. Toà án xét xử công khai
- Nguyên tắc này được quy định tại điều 131 Hiến pháp năm 1992 và bắt nguồn từ nguyên tắc
phát huy dân chủ đối với nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nguyên tắc
này nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phiên toà xét xử, đảm bảo sự giám sát của nhân
dân đối với việc xét xử của Toà án, cũng như tác dụng giáo dục, phòng ngừa của hoạt động xét
xử. Để thực hiện nguyên tắc này các Toà án nhân dân phải có kế hoạch xét xử các vụ án. Kế
hoạch xét xử phải được niêm yết tại trụ sở của Toà án để nhân dân biết. Đồng thời Toà án phải
thông báo cho bị cáo, người bị hại và các đương sự cũng như những người có liên quan đến vụ
án biết địa điểm, thời gian xét xử. Đối với những vụ án điển hình thu hút sự chú ý của nhân dân,
Toà án phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân biết, tham dự. Toà
án có thể xét xử tại phòng xử án của Toà án, cũng có thể xét xử lưu động tại nơi xảy ra vụ án.
* Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
- Nguyên tắc "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" là một nguyên tắc cơ bản của nền
dân chủ Xã hội chủ nghĩa, được quy định tại Điều 52 Hiến pháp năm 1992.Trong hoạt động xét
xử, Toà án phải tôn trọng nguyên tắc này để đảm bảo cho vụ ánđược xét xử khách quan, toàn
diện và đầy đủ. Nội dung nguyên tắc này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Mọi hành vi phạm tội, mọi tranh chấp pháp lý do bất cứ ai thực hiện đều được Toà án xét xử
nghiêm minh, công bằng, không thiên vị.
- Pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, cho nên bất cứ
ai tham gia tố tụng cũng được hưởng những quyền và phải được thực hiện những nghĩa vụ tố
tụng đó. Mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, không phân biệt nam nữ, dân tộc tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội và địa vị xã hội. 15
Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm pháp chế Xã hội chủ nghĩa, làm cho việc xét xử không công
minh, không đúng pháp luật.
* Khi xét xử phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, bị can
- Đây là một nguyên tắc dân chủ được qui định trong hiến pháp (Điều 132). Bị cáo có quyền tự
bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Trong những trường hợp luật định, Toà án
phải có trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho bị cáo. Việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị
can, bị cáo góp phần làm cho việc xét xử của Toà được khách quan toàn diện và chính xác.
-Quyền bào chữa là quyền cơ bản của công dân được pháp luật quán triệt trong các giai đoạn tố
tụng. Trong bộ luật tố tụng hình sự, quyền bào chữa của bị can, bị cáo được mở rộng rất nhiều so
với trước đây. Khi tự bào chữa cho mình, bị can, bị cáo vận dụng tất cả các quyền mà luật pháp
cho phép để chứng minh không có tội hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình. Nêú bị can, bị cáo không
tự bào chữa, thì có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người đại diện cho mình bào chữa.
-Pháp luật quy định trong những trường hợp: Bị can, bị cáo là người chưa thành niên; người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần hoặc bị can, bị cáo phạm vào những tội nặng có khung
hình phạt đến tử hình, thì Toà án hoặc cơ quan chức năng phải chỉ định luật sư bào chữa.
*. Toà án bảo đảm cho công dân thuộc các dân tộc được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà
- Việc xét xử ở các Toà án là một quá trình, trong đó giai đoạn thẩm vấn của Toà án tại phiên toà
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định chứng cứ làm cơ sở cho việc nghị án của Toà án. Vì
vậy giai đoạn thẩm vấn tại phiên toà hết sức thận trọng, chính xác nhằm đạt tới sự thật. Những
câu hỏi đặt ra phải rõ ràng nhằm làm sáng tỏ bản chất của vấn đề mà Toà án quan tâm. Việc trả
lời những câu hỏi đó cũng phải được diễn đạt một cách chính xác, đúng sự thật. Để bị cáo, người
bị hại cũng như các đương sự và những người làm chứng... trình bày một cách dễ dàng và chính
xác, sự cần thiết phải được diễn đạt bằng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, không nhất thiết
phải bằng tiếng nói, chữ viết phổ thông. Do đó khi cần thiết, Toà án phải chỉ định người phiên dịch. 16