



















Preview text:
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC: 2024-2025
Nhóm 10A. Thứ 5 tiết 08-09
Tên đề tài: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Liên
hệ thực tiễn về việc thực hiện Luật an minh mạng trong thời gian qua ở Việt Nam MỨC ĐỘ HOÀN KÍ TÊN STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MSSV THÀNH 92 Trịnh Phước Đặng 23109064 5 93 Trương Hoàng Phú 23145389 5 94 Trương Quốc Huy 22162013 5 95 Trương Tấn Cường 23138004 5
Nhận xét của giảng viên:
Hình thức: ..................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................
Nội dung:.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................
Tổng điểm:..................................................................................................................................
Ngày 20 tháng 11 năm 2024 Giảng viên: 2 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 5
2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 5
3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa .. 8
1.1. Tầm Quan Trọng Của Dân Chủ Trong Chủ Nghĩa Mác – Lênin .................... 8
1.1.1 Quan niệm về dân chủ ............................................................................. 8
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của dân chủ ....................................................... 10
1.2. Nội Dung Lý Luận Về Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa Theo Quan Điểm Của
Mác – Lênin. ......................................................................................................... 11
1.2.1 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ............................... 11
1.2.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa .......................................... 13
CHƯƠNG 2: Vấn đề dân chủ về việc thực hiện Luật an ninh mạng trong thời
gian qua ở Việt Nam ............................................................................................. 17
2.1. Luật An ninh mạng: Khái Niệm và Ý Nghĩa Đối Với Đời Sống Xã Hội Ở
Việt Nam ............................................................................................................... 17
2.1.1 Khái niệm luật An ninh mạng ............................................................... 17
2.1.2 Ý nghĩa luật An ninh mạng đối với đời sống xã hội Việt Nam ............ 17
2.2. Thực trạng triển khai luật An Ninh mạng Tại Việt Nam trong thời gian qua
. ............................................................................................................................. 19
2.2.1 Những điểm nổi bật trong thời gian qua ............................................... 19
2.2.2 Những thách thức trong việc triển khai Luật An ninh mạng ................ 20 3
2.3 Giải pháp luật an ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua ..................... 22
2.4 Các thách thức và cơ hội khi triển khai Luật An ninh mạng ở Việt Nam ...... 23
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 26 4 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở tư tưởng và định hướng hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, lý luận dân chủ là bộ phận quan trọng giúp
hiểu rõ bản chất, mục tiêu và phương pháp thực hiện dân chủ trong Nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Nghiên cứu và vận dụng lý luận này không chỉ làm sáng tỏ giá trị
của dân chủ mà còn củng cố niềm tin vào phương hướng xây dựng một xã hội
Việt Nam thực sự công bằng, dân chủ, văn minh.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là lý thuyết trừu tượng mà còn là nguyên
lý thực tiễn của hệ thống chính trị Việt Nam. Nhất là trong điều kiện hiện nay,
trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế và tác động sâu sắc của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đối với đất nước, những vấn đề liên quan đến dân
chủ, quản lý xã hội, đặc biệt là vấn đề không gian đang trở thành những thách
thức lớn. Luật An ninh mạng năm 2018 là một ứng dụng cụ thể của lý thuyết dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn. Kết quả
nghiên cứu như vậy sẽ làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lý thuyết dân chủ xã hội
chủ nghĩa với việc xây dựng chính sách, pháp luật trong việc bảo vệ lợi ích quốc
gia, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tình hình mới.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích các phạm trù, quy luật và nội dung cơ bản của lý luận dân chủ xã
hội chủ nghĩa (XHCN) trong chủ nghĩa Mác-Lênin, từ đó thiết lập một sự hiểu
biết chính xác về bản chất và vai trò của dân chủ trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đánh giá mức độ phù hợp của thực tiễn Luật An ninh mạng với lý luận dân chủ
xã hội chủ nghĩa - đưa ra những thành tựu và hạn chế của nó liên quan đến cách
thức pháp luật bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự xã hội và quyền dân chủ của 5
công dân trên không gian mạng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, về
những thách thức và cơ hội, đối với việc bảo vệ và thúc đẩy dân chủ xã hội chủ
nghĩa thông qua thực tiễn trong không gian mạng. Kiến nghị về việc hài hòa bảo
đảm an ninh mạng với bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân theo tinh thần dân chủ xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung nghiên cứu hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là những nguyên tắc, nội dung, phương
pháp vận hành dân chủ trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm cốt lõi
chính xác về dân chủ của Mác, Ăng-ghen, Lênin liên quan đến quyền làm chủ
của nhân dân và vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong bảo đảm dân chủ.
Đánh giá việc thực hiện những nguyên tắc dân chủ này trong thực tiễn được quy
định tại các quy định của Luật An ninh mạng ở Việt Nam. Đánh giá quá trình
thực hiện và tác động của Luật An ninh mạng trong việc bảo vệ an ninh quốc
gia, quyền tự do thông tin, quyền dân chủ của công dân.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài này sẽ áp dụng các phương pháp nghiên cứu
hỗn hợp để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ xã hội
chủ nghĩa và mối liên hệ thực tiễn trong việc thực hiện Luật An ninh mạng tại
Việt Nam trong thời gian gần đây.
Đầu tiên, phương pháp nghiên cứu phân tích sẽ được áp dụng để đưa ra các
khái niệm, nguyên tắc và luận đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Nó bao gồm việc thu thập và thẩm định một cách phê phán các
văn bản của những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin, các tác phẩm chính
trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và các công trình học thuật có liên quan đến
chủ đề đã cho. Phương pháp tương tự cũng áp dụng bối cảnh phân tích nội dung 6
về việc thực hiện Luật An ninh mạng tại Việt Nam. Bao gồm nhưng không giới
hạn ở các báo cáo thực hiện, số liệu thống kê và phản hồi từ các bên liên quan.
Cuối cùng, phương pháp nghiên cứu so sánh sẽ được đưa ra để so sánh các
nguyên lý của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực tiễn thực hiện Luật An ninh
mạng, qua đó chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt và hiệu quả thực tế của
việc duy trì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh tác động
chính sách của quản lý an ninh mạng. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết sẽ
được áp dụng để xây dựng các mô hình phân tích có thể giải thích giao diện tồn
tại giữa lý thuyết dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhu cầu thực tế trong lĩnh vực hoạt
động bảo vệ an ninh mạng trong bối cảnh các điều kiện ở Việt Nam. Điều này
cũng sẽ đảm bảo điểm cân bằng, với một đề xuất phù hợp cho bối cảnh xã hội
chủ nghĩa trong việc cân bằng dân chủ và an ninh mạng. 7
CHƯƠNG 1: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã
hội chủ nghĩa
1.1. Tầm Quan Trọng Của Dân Chủ Trong Chủ Nghĩa Mác – Lênin
1.1.1 Quan niệm về dân chủ
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự
tham gia của nhân dân vào quá trình quản lí nhà nước mà còn là sự đảm bảo
quyền lợi kinh tế, xã hội văn hóa của nhân dân. Điều này khác biệt so với dân
chủ tư sản, nơi mà quyền lợi chủ yếu thuộc về giai cấp tư sản và các tầng lớp trên.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng tới việc xây dựng một xã hội công bằng,
nơi mà mọi người điều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Nó nhấn
mạnh vai trò của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong việc định
hình ,lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Bằng việc nghiên cứu lịch sử các chế độ dân chủ và kinh nghiệm lãnh đạo
của mạng lưới xã hội chủ nghĩa, những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng dân chủ là sản phẩm và là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp vì những
giá trị tiến bộ của nhân loại. Dân chủ còn là một hình thức tổ chức nhà nước của
giai cấp thống trị và là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ có những nội dung cơ bản sau:
Trước hết, về mặt quyền lực, dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân,
nhân dân là chủ đất nước. Dân chủ mang lại quyền lợi cho người dân, trong đó
cơ bản nhất là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và xã hội; bộ máy nước
phải phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội. Chỉ khi mọi quyền lực nhà nước về
tay nhân dân thì quyền của nhân dân mới thực sự được bảo vệ.
Thứ hai, bình luận về mặt hệ thống chính trị xã hội, dân chủ là một hình 8
thức hoặc mô hình của đất nước, tức là một chính quyền dân chủ.
Thứ ba, về mặt tổ chức, quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc
dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung hóa hình thành
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là
phương tiện tiện lợi để đạt được tự làm, giải phóng con người và xã hội. Dân
chủ là một hình thức tổ chức chính trị, một phạm trù lịch sử phát triển cùng với
sự tồn tại của nhà nước.
Dựa trên hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tình hình thực tiễn
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển quan niệm dân chủ như sau: (1)
Dân chủ là giá trị chung của nhân loại, được thể hiện ở chỗ “Nhân dân là chủ,
nhân dân là chủ”. các bậc thầy.” Người làm chủ”, Người khẳng định “Nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất thuộc về nhân dân, vì nhân dân là chủ”. (2) Dân
chủ là một thể chế chính trị trong đó nhân dân là chủ, chính quyền là đầy tớ
trung thành của nhân dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Dân chủ Yêu cầu người dân phải trở thành chủ thể xã hội đích thực, làm
chủ toàn diện mọi lĩnh vực: làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ cuộc
sống của chính mình. Dân chủ còn phải bao trùm các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
văn hóa và tinh thần, đặc biệt là kinh tế và chính trị. Quyền con người và quyền
công dân của dân dân được phản ánh ánh sáng tiếp thông qua nền dân chủ ở những lĩnh vực này.
Dựa trên những quan niệm dân chủ này và tư tưởng phổ biến của Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ tài khoản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và phát huy quyền tự chủ của nhân dân. Đảng nhấn mạnh vai trò dân chủ
trong đổi mới đất nước và phát huy quyền chủ của người lao động với tư tưởng
“hướng tới con người”. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm nâng
cao dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, kết hợp
dân chủ trong mọi lĩnh vực với công xã hội, thể chế hóa nó bằng pháp luật .
Tóm lại, dân chủ có thể được hiểu là một giá trị xã hội phản ánh những 9
quyền cơ bản của con người; là một phạm trù chính trị gắn liền với các mô hình
tổ chức nhà nước của giai cấp thống trị; và nó là một phạm trù lịch sử phát triển
theo sự tiến bộ của xã hội loài người.
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Nhu cầu dân chủ xuất hiện sớm trong các xã hội tự quản bao gồm các thị
tộc và cộng đồng câu lạc bộ. Trong các chế độ cộng sản ban đầu, các hình thức
dân chủ nguyên thủy đã được phát triển. Engels gọi đó là “dân chủ nguyên thủy”
hay “dân chủ quân sự”. Đặc điểm cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân
bầu ra những người lãnh đạo đạo quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”. Mọi
người đều có quyền bày tỏ quan điểm và quyết định bằng cách vỗ tay hoặc vỗ
tay, thể hiện quyền lực thực sự. phủ chính. Mọi người. Trình độ sản phẩm thấp hơn vẫn ở mức thấp.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, chế độ tư hữu và các giai cấp ra đời thì
hình thức “dân chủ nguyên thủy” Giảm và nền dân chủ chủ nô ra đời. Một nền
dân chủ chủ sở hữu nô lệ là một nhà nước do nhân dân bầu ra. Tuy nhiên,
“người dân” ở đây chỉ bao gồm giai cấp chủ nô và một số công tự do (giáo sĩ,
doanh nhân, một số trí thức), còn đa số còn lại, kể cả nô lệ, không có quyền
tham gia lao động. Do đó, nền dân chủ nô lệ chỉ thực sự phục vụ lợi ích của thiểu số.
Khi chế độ nô lệ suy tàn, xã hội loài người bước vào thời kỳ chuyên chế
phong kiến, chế độ dân chủ của chủ nô bị bãi bỏ và thay thế bằng chế độ độc tài
phong kiến. Trong thời kỳ này, giai cấp thống trị nắm giữ quyền lực thần thánh
và yêu cầu nhân dân phải tuân theo các thế lực siêu nhiên, từ đó khơi dậy nhận
thức dân chủ và đấu tranh giành quyền làm chủ trong nhân dân.
Vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15, giai cấp tư sản với tư tưởng tự do, công
bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Dưới góc chủ
nghĩa Mác-Lênin, đây là một bước tiến lớn và mang những giá trị thì chốt là tự
làm, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, vì loại dân chủ này dựa trên quyền sở hữu 10
tư nhân về tư liệu sản xuất nên nó chỉ có thể mang lại lợi ích cho một số ít tư
liệu của chủ sở hữu sản xuất và không thể đại diện cho lợi ích động của nhiều người lao động.
Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một
thời kỳ quá độ mới từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân lao động
ở nhiều nước đã giành được quyền làm chủ đất nước mình, thành lập các nhà
nước công nhân và nông dân, thực thi quyền lực của đa số. Đặc điểm của dân
chủ xã hội chủ nghĩa là quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, xây dựng nhà
nước dân dân chủ, đất nước, xã hội của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.
Như vậy, trong lịch sử nhân loại, tính đến nay đã xuất hiện ba nền dân chủ
chính, tương ứng với các hình thái nhà nước và chế độ chính trị khác nhau: nền
dân chủ chủ nô gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư sản gắn với chế
độ tư bản chủ nghĩa; và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với chế độ xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, để xác định một nhà nước có thực sự dân chủ hay không, cần
xem xét ai được coi là “dân” trong nhà nước đó và bản chất xã hội của chế độ ấy ra sao.
1.2. Nội Dung Lý Luận Về Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa Theo Quan Điểm
Của Mác – Lênin.
1.2.1 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng thể kết quả thực tế và phát triển của các nước dân chủ
trong lịch sử, đặc biệt là các nước dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng đấu tranh vì dân chủ là một quá long long, phức tạp, giá trị
của sản phẩm chủ dân chưa được phản ánh đầy đủ. Đã nhận ra. Đỉnh cao của nó.
đỉnh cao. Vì vậy, sự ra đời của dân chủ tiên tiến, dân chủ vô sản hay dân chủ xã
hội chủ nghĩa là tất yếu.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp và
Công xã Paris năm 1871, nhưng phải đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga 11
thành công năm 1917, nền dân chủ này mới thực sự được thiết lập. Sự ra đời của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu một giai đoạn phát triển mới, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, kế thừa những giá trị của các dân chủ nước đi trước
và bổ sung thêm những giá trị mới.
Theo quan điểm Mác-Lênin, giai cấp vô sản chỉ có thể làm cách mạng xã
hội chủ nghĩa thông qua đấu tranh vì dân chủ, và chủ nghĩa xã hội không thể bền
vững nếu không có dân chủ thực sự. Dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển từ dưới
lên, mở rộng quyền lực của người lao động, phát huy sự tham gia tự nguyện của
họ vào quản lý nhà nước và xã hội. Nền dân chủ này càng phát triển thì càng đến
gần sự hủy diệt, bởi bản chất chính trị của dân chủ sẽ biến mất khi quyền lực của
nhân dân ngày càng mở rộng và quản lý xã hội trở thành thói quen của cuộc sống.
Chủ nghĩa Mác-Lênin lưu ý rằng quá trình này kéo dài cho đến khi xã hội
đạt đến trình độ phát triển cao, không có sự phân chia giai cấp. Khi xã hội cộng
sản đạt tới mức hoàn thiện thì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng sẽ biến mất
dưới hình thức nhà nước.
Từ những điều trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ cao hơn về bản
chất so với nền dân chủ tư sản, ở đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là
chủ và dân làm chủ, và dân chủ được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tuy nhiên, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, ở những
nước có trình độ kinh tế - xã hội thấp, phải chịu nhiều sự tấn công và áp lực từ
bên ngoài. Vì vậy, mức độ dân chủ ở các nước này vẫn còn hạn chế ở nhiều lĩnh
vực. Ngược lại, nền dân chủ tư sản phát triển qua hàng trăm năm ở các nước
phát triển, với nhiều điều chỉnh xã hội để thích nghi. Bất chấp những tiến bộ về
nhân quyền, nền dân chủ tư sản vẫn bị hạn chế bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự thuộc về nhân dân, ngoài sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản, còn cần các yếu tố khác 12
như trình độ học vấn và sự phát triển của xã hội, cũng như các cơ chế pháp lý để
bảo vệ cá nhân. tự do. và quyền của người dân tham gia vào việc ra quyết định,
cũng như các điều kiện vật chất cần thiết để thực hiện dân chủ.
1.2.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Như V.I. Lenin đã nói, dân chủ vô sản cũng như mọi hình thức dân chủ
khác. Lênin, đó không phải là nhà nước dân chủ dành cho tất cả mọi người; đó là
nhà nước dân chủ đặc sản phục vụ nhân dân lao động và quần chúng bóc vỏ;
Dân chủ xã hội chủ nghĩa bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó dân
chủ trong lĩnh vực kinh tế là nền tảng nền tảng; dân chủ càng hoàn thiện thì càng
có nguy cơ biến mất. Dân chủ vô sản xóa bỏ quyền dân chủ của mọi giai cấp
trong nhà nước vô sản và biến chúng thành chủ thực sự của xã hội.
Với tư cách là định cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân chủ
xã hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:
Về chính trị: dưới lãnh đạo của một vòng duy nhất của giai cấp công nhân
(đảng Mác-Lênin), trên mọi lĩnh vực của xã hội, quyền lực của nhân dân được
thực thi và thể hiện thông qua các quyền dân chủ , chủ quyền, nhân quyền và
một xã hội ngày càng phát triển. đáp ứng nhu cầu và lợi ích của mọi người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ
nghĩa là lãnh đạo chính trị toàn xã hội của giai cấp công nhân thông qua các phái
phái chính trị của mình chứ không chỉ là việc thực hiện lợi ích tiện ích của giai
cấp công nhân, lợi ích nhất là công việc thực hiện các công cụ hữu ích. của công
nhân cấp độ. Phải quyền và lợi ích của mọi người, trong đó có cấp công nhân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quan
trọng bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi Đảng Cộng sản đại diện
cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân, công nhân và nhân dân cả nước.
Theo nghĩa này, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nguyên chất nhất về mặt chính
trị.Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản đối với toàn bộ
xã hội về mọi mặt được V.I. Lênin gọi là sự thống trị chính trị. 13
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, công nhân là người làm chủ các quan
hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền cử đại biểu tham gia bộ máy chính quyền
từ trung ương đến địa phương, đề xuất các ý kiến xây dựng chính sách, pháp
luật, xây dựng bộ máy nhà nước, công chức, viên chức. Quyền của người dân
được tham gia rộng rãi vào quản lý Nhà nước là nội dung của dân chủ trong lĩnh
vực chính trị. V.I. Lênin cũng nhấn mạnh: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ
cho đại đa số nhân dân, cho công nhân bị bóc lột, là chế độ trong đó nhân dân
tham gia ngày càng nhiều vào công việc nhà nước. Theo nghĩa này, V.I. Lênin
đã thể hiện rộng rãi bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa: đó là
một nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”.
Về quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh cũng
nhấn mạnh rõ ràng: Trong thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân. mọi người. Vì vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã
hội chủ nghĩa thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cách mạng
xã hội chủ nghĩa khác với các cuộc cách mạng xã hội trước đây là cách mạng vì
đa số nhân dân và là cuộc cách mạng vì lợi ích của đa số nhân dân. Hồ Chí Minh
tin rằng, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(1946) là cơ hội để cả nước tự do lựa chọn những người tài, đức để tắm thân vào
sự nghiệp quốc gia, “ai cũng muốn”. Bạn có quan tâm đến vấn đề quốc gia
không? “Quốc gia” Doanh nhân có quyền tham gia bầu cử. Mọi công dân đều có
quyền bầu cử. Quyền tham gia rộng rãi vào việc quản lý đất nước là nội dung
dân chủ trong lĩnh vực chính trị.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang tính chất
giai cấp công nhân, vừa mang tính quần chúng rộng rãi, vừa mang tính dân tộc
sâu sắc. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất với dân chủ tư sản ở bản
chất giai cấp (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); trong các cơ chế nhất
nguyên và đa nguyên; một hoặc nhiều bên; về bản chất của Nhà nước (nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản). 14
Bản chất kinh tế: Dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ xã hội sở hữu
tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội nhằm đáp ứng sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dựa trên nền tảng khoa học công nghệ hiện đại
nhằm thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi người. công
nhân. . Bản chất kinh tế này chỉ có thể được bộc lộ đầy đủ thông qua quá trình
ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Mác - Lênin và sự lãnh đạo, lãnh đạo, viện trợ của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Trước hết, bảo đảm quyền sở hữu của nhân dân về tư liệu
sản xuất chủ yếu; quyền kiểm soát quá trình sản xuất, kinh doanh, quản lý và
phân phối phải coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tuy khác với bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột và bất công, giống như toàn bộ
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng nó không tạo thành từ “vỡ” theo ý muốn của
bất kỳ ai. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa còn là sự kế thừa và phát triển mọi thành
tựu mà nhân loại đã đạt được trong suốt lịch sử, đồng thời lọc bỏ những yếu tố
lạc hậu, tiêu cực, cản trở... của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư
hữu, áp bức, bất công. khai thác…. cho đại đa số mọi người.
Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kính tế của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa làthực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế
độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội: Dân chủ xã hội chủ nghĩa coi hệ tư
tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - là động lực chủ yếu
của mọi hình thức ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời, kế thừa và
phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu các giá trị tư
tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở mọi quốc
gia, dân tộc... Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, con người làm chủ các giá trị
tinh thần, văn hóa; Nâng cao trình độ văn hóa và điều kiện phát triển cá nhân. Ở
góc độ này, nó trước hết là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng tạo văn 15
hóa, thể hiện khát vọng tự do sáng tạo và phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa
cá nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức
động viên thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân
trong sự nghiêp xây dựng xã hội mới.
Với tính chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự nguyện của
quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ xã hội chủ nghĩa
không thể chỉ thực hiện được nếu có sự tham gia của giai cấp công nhân. điều
kiện tiên quyết để bảo đảm vai trò lãnh đạo độc quyền của Đảng Cộng sản. Vì
làm chủ và truyền bá tư tưởng cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong quần chúng, Đảng tạo cho phong trào quần chúng ý thức tự giác cao độ
trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Thông qua công tác
tuyên truyền, giáo dục, Đảng nâng cao trình độ giáo dục chính trị, văn hóa dân
chủ trong nhân dân để họ thực hiện có hiệu quả các yêu cầu dân chủ phản ánh sự
phát triển của xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, người dân mới
có thể đấu tranh hiệu quả trước mọi âm mưu lợi dụng dân chủ vì những lý do
trái với lợi ích của mình.
Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất nguyên về
chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ
nhau mà ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội
chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển.
Với tất cả những đặc trưng đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ
cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm
trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 16
CHƯƠNG 2: Vấn đề dân chủ về việc thực hiện Luật an ninh
mạng trong thời gian qua ở Việt Nam
2.1. Luật An ninh mạng: Khái Niệm và Ý Nghĩa Đối Với Đời Sống Xã Hội Ở Việt Nam
2.1.1 Khái niệm luật An ninh mạng
Khái niệm về Luật An ninh mạng:
Luật An ninh mạng Việt Nam được giao cho Bộ Công an chủ trì, soạn
thảo, nhằm khắc phục các tồn tại và hạn chế trong công tác bảo vệ an ninh
mạng, an ninh máy tính, bảo mật công nghệ thông tin. Mục tiêu chính của luật là
bảo vệ hệ thống mạng máy tính khỏi các hành vi xâm phạm như trộm cắp dữ
liệu, tấn công mạng, hoặc làm tổn hại đến phần cứng, phần mềm và các dịch vụ
trực tuyến đang được cung cấp. Đồng thời, luật cũng đặt ra các biện pháp bảo vệ
an ninh quốc gia, bảo vệ quyền lợi của công dân và sự ổn định của các hệ thống
hạ tầng quan trọng trong không gian mạng.
Luật này được Quốc hội Việt Nam khóa XIV (2016-2021) thông qua vào
ngày 12 tháng 6 năm 2018 và bao gồm các điều khoản quan trọng về trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động trên môi trường mạng.
Các quy định này nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến an
ninh mạng, bảo vệ dữ liệu và bảo mật thông tin cá nhân của người dân. Đặc biệt,
Luật An ninh mạng yêu cầu các tổ chức và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng
phải tuân thủ các quy định về bảo mật và bảo vệ thông tin, đồng thời hỗ trợ cơ
quan chức năng trong việc giám sát và điều tra các hành vi vi phạm pháp luật trong không gian mạng.
2.1.2 Ý nghĩa luật An ninh mạng đối với đời sống xã hội Việt Nam
Bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội : Một trong những mục tiêu quan
trọng của Luật An ninh mạng là bảo vệ an ninh quốc gia trong môi trường mạng. 17
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và internet, không gian
mạng trở thành một lĩnh vực quan trọng trong việc bảo vệ đất nước. Luật giúp
ngăn chặn các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh các
tổ chức khủng bố và các thế lực thù địch có thể lợi dụng không gian mạng để
tuyên truyền, phát tán thông tin sai lệch, gây rối loạn xã hội.
Tạo môi trường mạng an toàn, minh bạch : Việc quy định rõ ràng trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ thông tin cá nhân và bảo mật
dữ liệu, Luật An ninh mạng giúp tạo ra một môi trường mạng an toàn hơn cho
người sử dụng. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh số lượng người
dùng internet và các dịch vụ trực tuyến ở Việt Nam ngày càng tăng, đồng thời
việc xâm nhập và đánh cắp dữ liệu cá nhân đang trở thành vấn đề đáng lo ngại.
Bảo vệ quyền lợi và quyền riêng tư của người dân : Luật An ninh mạng
cũng có tác dụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân khi tham gia các hoạt
động trên không gian mạng. Các dịch vụ trực tuyến, đặc biệt là mạng xã hội và
các nền tảng thương mại điện tử, sẽ phải đảm bảo bảo mật thông tin người dùng
và bảo vệ quyền riêng tư của công dân. Điều này giúp nâng cao niềm tin của
người dân vào các dịch vụ số và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế số.
Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số : Bảo vệ an ninh mạng và bảo vệ
quyền lợi người sử dụng cũng tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ và các công ty cung cấp
dịch vụ trực tuyến. Điều này góp phần thúc đẩy nền kinh tế số, mở ra cơ hội mới
cho các lĩnh vực như thương mại điện tử, fintech, và các ngành công nghiệp sáng tạo.
Đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ mạng : Luật
An ninh mạng quy định các tổ chức và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng
phải tuân thủ các quy định của Việt Nam. Điều này tạo ra một khuôn khổ pháp
lý rõ ràng cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực này, giúp họ hiểu rõ trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ an ninh mạng, từ đó thúc đẩy sự
hợp tác giữa các cơ quan chức năng và các tổ chức trong việc duy trì trật tự, an 18
toàn trong không gian mạng.
Luật An ninh mạng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc
gia và trật tự xã hội trong không gian mạng, đồng thời bảo vệ quyền lợi và
quyền riêng tư của công dân. Tuy nhiên, việc triển khai và thực thi luật này cần
phải cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo rằng các quyền cơ bản của người dân không
bị xâm phạm, đồng thời vẫn đáp ứng được yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia và
phát triển nền kinh tế số.
2.2. Thực trạng triển khai luật An Ninh mạng Tại Việt Nam trong thời gian qua
2.2.1 Những điểm nổi bật trong thời gian qua
Sau khi Luật An ninh mạng có hiệu lực, Chính phủ và các cơ quan chức
năng đã tích cực triển khai các biện pháp giám sát và kiểm soát không gian
mạng để bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Bộ luật này đã tạo ra cơ sở
pháp lý vững chắc để xử lý các hành vi vi phạm an ninh mạng, bao gồm các
hành vi như phát tán thông tin sai lệch, lôi kéo, xúi giục bạo lực, khủng bố, hoặc
tấn công vào hệ thống mạng của nhà nước, qua đó đảm bảo các hành vi này
được xác định và xử lý nghiêm túc.
- Tăng cường giám sát và kiểm soát không gian mạng :
+ Đảm bảo kiểm soát thông tin: Chính phủ đã yêu cầu các tổ chức, doanh
nghiệp và nền tảng mạng xã hội phải thực hiện các biện pháp giám sát, kiểm tra,
và gỡ bỏ các thông tin như tin giả, tuyên truyền khủng bố, xâm phạm bí mật nhà
nước, hay các thông tin có nội dung xuyên tạc gây hại đến an ninh quốc gia.
+ Yêu cầu lưu trữ dữ liệu trong nước: Các nhà cung cấp dịch vụ mạng và
nền tảng trực tuyến lớn, như Facebook, Google, phải tuân thủ yêu cầu lưu trữ dữ
liệu người dùng tại Việt Nam và cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan
chức năng. Các công ty này cũng phải phối hợp với các cơ quan nhà nước trong
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh mạng.
+ Các biện pháp phòng ngừa tấn công mạng: Các cơ quan chức năng đã 19
triển khai nhiều chiến lược bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng, bao gồm các
cơ sở dữ liệu quốc gia, các cơ quan nhà nước, các công ty và tổ chức có tầm ảnh
hưởng lớn đối với nền kinh tế và an ninh quốc gia.
- Xử lý các hành vi vi phạm trên không gian mạng :
+ Việc xử lý các vụ việc vi phạm: Các cơ quan chức năng đã xử lý nhiều vụ
vi phạm an ninh mạng, từ việc xử phạt hành chính đến các vụ án hình sự liên
quan đến việc phát tán thông tin sai lệch, xâm nhập trái phép vào hệ thống thông
tin của cơ quan, tổ chức.
+ Xử lý các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia: Luật cũng tạo ra cơ sở pháp
lý để xử lý các hành vi gây nguy hiểm đến an ninh quốc gia trong môi trường
mạng, bao gồm các vụ việc khủng bố, lật đổ chính quyền, hay các hoạt động
tuyên truyền, kích động bạo lực.
2.2.2 Những thách thức trong việc triển khai Luật An ninh mạng
Mặc dù đã đạt được một số kết quả tích cực, việc triển khai Luật An ninh mạng
ở Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức. Một trong những vấn đề chính là sự cân
bằng giữa bảo vệ an ninh quốc gia và quyền tự do ngôn luận của công dân. Các
quy định yêu cầu gỡ bỏ thông tin vi phạm có thể ảnh hưởng đến quyền tự do
phát biểu, đặc biệt khi các thông tin này không luôn được xác định rõ ràng. Bên
cạnh đó, việc bảo vệ cơ sở hạ tầng công nghệ và dữ liệu quốc gia cũng là một
thách thức lớn. Dù đã có các biện pháp bảo vệ, các cuộc tấn công mạng từ các
đối tượng xấu và tội phạm mạng vẫn diễn ra, đe dọa an ninh quốc gia. Những
vấn đề này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước, doanh nghiệp và người
dân để đảm bảo an ninh mạng hiệu quả.
- Vấn đề quyền tự do ngôn luận và quyền riêng tư
+ Kiểm duyệt nội dung trên mạng: Việc yêu cầu các nền tảng mạng xã hội
gỡ bỏ các thông tin có nội dung xấu hoặc chống đối có thể dẫn đến tình trạng
kiểm duyệt quá mức, khiến cho người dân cảm thấy bị giám sát và hạn chế
quyền tự do phát biểu, trao đổi thông tin trên mạng. 20
+ Dữ liệu cá nhân: Các quy định về việc lưu trữ dữ liệu và yêu cầu các công
ty quốc tế lưu trữ dữ liệu của người dùng tại Việt Nam cũng gây ra lo ngại về
quyền riêng tư và bảo mật thông tin cá nhân. Các công ty nước ngoài có thể
không sẵn sàng tuân thủ các yêu cầu này hoặc có thể gặp khó khăn trong việc
bảo mật dữ liệu của người dùng.
- Khó khăn trong việc thực thi các quy định về lưu trữ dữ liệu
+ Sự thiếu minh bạch trong các quy trình yêu cầu cung cấp thông tin:
Mặc dù luật yêu cầu các công ty cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan
chức năng, nhưng các doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc xác định rõ
yêu cầu và tiêu chí đối với các thông tin cần cung cấp.
+ Các công ty nước ngoài phản đối: Các công ty công nghệ lớn thường
phản đối yêu cầu phải tuân thủ các quy định của Việt Nam về lưu trữ dữ liệu
trong nước, cho rằng điều này vi phạm các điều ước quốc tế và ảnh hưởng đến
quyền tự do Internet. Điều này tạo ra sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa các
công ty này và chính phủ Việt Nam.
- Khả năng bảo vệ cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
+ Tấn công mạng và bảo mật thông tin: Các cuộc tấn công mạng ngày
càng trở nên tinh vi và phức tạp. Các hệ thống bảo mật cần phải được nâng cấp
liên tục để đối phó với các nguy cơ tiềm ẩn.
+ Chuyển đổi số và an ninh mạng: Khi Việt Nam đang đẩy mạnh
chuyển đổi số, việc bảo vệ an ninh mạng càng trở nên quan trọng. Các cơ sở dữ
liệu quốc gia, các thông tin về chính trị, kinh tế, xã hội có thể là mục tiêu của các cuộc tấn công mạng.
Triển khai Luật An ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được một
số kết quả tích cực trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền lợi người
dân và thúc đẩy môi trường mạng an toàn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức
liên quan đến việc thực thi các quy định về bảo vệ quyền tự do ngôn luận, quyền 21