/7
chính mình đã thn thánh hoá như bn cht xa
Th Tư, 16/9/2015 14:42'(GMT+7)
Quan điểm ca Ch nghĩa Mác - Lênin v tôn giáo và
s vn dụng để gii quyết vấn đề tôn giáo trong thi k
quá độ lên Ch nghĩa hi c ta hin nay
Nếu ch nghĩa duy vt lch s đưc coi mt trong ba phát minh quan trng nht ca ch nghĩa Mác,
thì những quan điểm v tôn giáo mt trong nhng biu hin nét nht lập trường duy vt v lch s
ca hc thuyết này.
1. Quan nim duy vt lch s ca ch nghĩa Mác - Lênin v tôn go
Nếu ch nghĩa duy vật lch s đưc coi mt trong ba phát minh quan trng nht ca ch nghĩa Mác, thì
những quan điểm v tôn giáo mt trong nhng biu hin nét nht lập trường duy vt v lch s ca hc
thuyết này. th hiện thông qua các quan điểm ca ch nghĩa Mác - Lênin v c bn cht, ngun gc ln
chức năng ca tôn giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thn hc cho rng tôn giáo có ngun gc siêu nhiên, thế
gii t nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hot động ca mỗi cá nhân con người đều chu s chi phi,
điu khin ca các lực lượng siêu nhiên, thn thánh thì các nhà duy vt, thần đã quan điểm hoàn toàn
đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết hc duy vật người Đức, trong Bn chất đạo Cơ đốc, đã khẳng đnh rng, không
phi thn thánh sáng tạo ra con người con người sáng to ra thn thánh theo hình mu ca mình; rng:
“Thượng đế siêu hình không phi cái gì khác mà là s tp hp, là toàn b những đặc tính chung nht rút ra
t gii t nhiên, song con người, nh vào sc ng ợng… li đem gii t nhiên biến thành mt ch th
hay mt thc th độc lập”([1]). Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bn cht thc s ca tôn giáo và khía
cnh này, ông vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi ch phê phán th tôn giáo hin thi ch không phê
phán tôn giáo nói chung, càng chưa h đề cập đến s pphán những điều kin hin thực đã làm nảy sinh
tôn giáo. Thm chí, ông còn cho rằng người ta vn rt cn mt th tôn giáo khác thay thế, đó là “tôn giáo tình
yêu” để xoá b đi những áp bc, bt công trong xã hi.
Kế tha vượt lên trên quan đim ca Phoiơbắc các nhà duy vt trưc đó, các nhà sáng lp ch nghĩa
Mác - Lênin đã đứng vng trên lp trưng duy vt lch s để gii vn đề bn cht ca tôn giáo. Theo đó, ý
thc hi s phn ánh tn ti hi, do tn ti hi quyết định. Mc tính độc lp tương đối nhưng
mi hiện tượng trong đi sng tinh thần, xét đến cùng, đu ngun gc t đời sng vt cht. Tôn giáo mt
hiện tượng tinh thn ca hi vy, mt trong nhng hình thái ý thc hi, phn ánh tn ti hi
trong nhng giai đon lch s nht định. Nhưng khác vi nhng hình thái ý thc hi khác, s phn ánh ca
tôn giáo đối vi hin thc s phn ánh đc thù, đó s phn ánh “ln ngược”, “hoang đưng” thế gii
khách quan. Theo C.Mác Ph.Ăngghen, “tôn giáo nhng s rút hết toàn b ni dung ca con ngưi gii
t nhiên, vic chuyn ni dung đó sang cho bóng ma. Thưng đế bên kia thế gii, Thưng đế này, sau
đó, do lòng nhân t, li tr v cho con ngưi gii t nhiên mt chút ân hu ca mình”(2).
Vi các nhà kinh đin ca ch nghĩa Mác, tôn giáo s phn ánh mt cách biến dng, sai lch, o v gii
t nhiên con ngưi, v các quan h hi. Hay nói cách khác, tôn giáo s nhân cách hoá gii t nhiên,
s “đánh mt bn cht người”. Chính con người đã khoác cho thn thánh nhng sc mnh siêu nhiên khác
vi bn cht ca mình để ri t đó con ngưi ch da, đưc ch che, an i - đó ch ch da “hư ảo”.
Ch ra bn cht sâu xa ca hin ng đó, Ph.Ăngghen đã viết: Con ngưi vn chưa hiu rng h đã nghiêng
mình trưc bn cht ca l nào đó”(3). Lt t bn
cht ca tôn giáo, ông cho rng, “tôn giáo chẳng qua ch là s phản ánh hư ảo
vào đầu óc của con người
ca nhng lực lượng bên ngoài chi phi cuc sng hàng ngày ca h; ch s phản ánh trong đó những
lực lượng trn thế mang hình thc nhng lực lượng siêu trn thế” (4).
Vn đề đặt ra đây là, nguyên nhân nào dn đến s phn ánh “hoang đường”, “hư o” ca tôn giáo? Ti sao
con ngưi li nhu cu tôn giáo đặt nim tin ln lao vào tôn giáo như vy? Đứng vng trên lp trưng
duy vt lch s, C.Mác Ph.Ăngghen đã lun gii rng s xut hin tn ti ca tôn giáo xut phát t hin
thc khách quan ngun gc quan trng nht ca tôn giáo chính điu kin kinh tế
hi. Trong lch s
tiến hoá của mình, trước hết con người nhu cu ci to t nhiên để to ra ca ci vt chất đáp ng nhu cu
ngày càng cao ca mình. Nhưng do trình độ kh năng ci to t nhiên còn thp kém, con người luôn cm
thy yếu đui, bt lc trưc các hin ng t nhiên đã gn cho t nhiên nhng sc mnh siêu nhiên. Đó
chính s cho s ny sinh các hin ng th cúng. Đặc bit, khi hi s phân chia áp bc giai
cp t các mi quan h hi càng phc tp, mt b phn ngưi dân rơi vào tình thế cùng qun, bt lc
trưc các thế lc thng tr. Thêm vào đó, nhng yếu t t phát, ngu nhiên, ri ro bt ng nm ngoài ý mun
ca con ngưi gây ra cho h s s hãi, lo lng, mt cm giác an toàn. Đó cũng nguyên nhân khiến ngưi ta
tìm đến da vào s che ch ca tôn giáo.
Ct nghĩa về ngun gc kinh tế
xã hi của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những thi k đầu ca lch s
chính nhng lực lượng thiên nhiên những cái trước tiên được phản ánh như thế, trong quá trình phát
triển hơn na thì nhng dân tc khác nhau, nhng lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa mt
cách hết sc nhiu v hết sc hn tạp... Nhưng chẳng bao lâu, bên cnh nhng lực lượng thiên nhiên li
còn c nhng lực lượng hội tác động - nhng lực lượng này đối lp với con người, một cách cũng xa lạ
lúc đầu cũng không thể hiểu được đối vi họ, cũng thống tr h vi cái v tt yếu b ngoài giống như bn
thân nhng lc ng t nhiên vậy”(5). Bàn v vn đ này, V.I.Lênin cũng khng định: “S bt lc ca giai cp
b bóc lt trong cuc đấu tranh chng bn bóc lt tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp thế gii bên
kia, cũng giống y như sự bt lc của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đ ra lòng tin vào
thn thánh, ma qu và những phép màu”(6).
Như vy, theo quan đim ca ch nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo ngun gc t trong hin thc phn ánh
chính hin thực đó
mt hin thc cần tôn giáo điều kiện để tôn giáo xut hin tn ti. Trong Phê
phán triết hc pháp quyn ca Hêghen, C.Mác đã viết: “S nghèo nàn ca tôn giáo va biu hin ca s
nghèo nàn hin thc, va s phn kháng chng s nghèo nàn hin thc y. Tôn giáo tiếng th dài ca
chúng sinh b áp bc, trái tim ca thế gii không trái tim, cũng như tinh thn ca nhng trt t
không tinh thn. Tôn giáo thuc phin của nhân dân”(7). Luận điểm trên của C.Mác đã thể hin ngun
gc, bn cht, chức năng của tôn giáo trên lập trường duy vt lch s. Với C.Mác, tôn giáo như vầng hào
quang” o ng, nhng vòng hoa gi đầy màu sc đẹp mt cách hoàn m, ước mơ, nim hy vng
đim ta tinh thn cùng to ln cho nhng s phn nh, bt lc trưc cuc sng hin thc. Vì, trong
cuc sng hin thc, khi con ngưi bt lc trước t nhiên, bt lc trước các hin ng áp bc, bt công ca
hi thì h ch còn biết “thở dài” âm thm, nhn nhc chịu đựng. Cũng trong cuộc sng hin thc y, h
không th tìm thy “mt trái tim” để yêu thương, che ch nên phi tìm đến mt “trái tim” trong ng ng nơi
tôn giáo. Trái tim đó s sn sàng bao dung, tha th, ch che tiếp thêm sc mnh cho h để h th vượt
qua mọi khó khăn trong cuộc sng.
Vi luận điểm “tôn giáo thuốc phin của nhân dân”, C.Mác không chỉ mun khẳng định tính chất “ru ngủ” hay
độc hi ca tôn giáo, còn nhn mnh đến s tn ti tt yếu ca tôn giáo vi cách mt th thuc gim
đau được dùng để xoa du nhng nỗi đau trần thế. Thc vậy, người ta dùng thuc giảm đau khi người ta b
đau đn và chừng nào còn đau đn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do đ lý gii ti sao
người ta hướng ti, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuc sng của mình, cho dù đó ch
là nhng hnh phúc o tưởng, ch “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan đim ca ch nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là s phản ánh hoang đường, hư ảo hin thc,
mt hiện tưng tiêu cc tronghội nhưng không phải không có nhng yếu t tích cc. Tôn giáo ch
nhng “bông hoa giả” đim cho mt cuc sng hin thc đầy xing xích. Nhưng nếu không nhng “bông
hoa giả” y thì cuc sng ca con người ch còn li “xiềng xích thôi. nếu không th “thuốc gim đau”
ấy thì con người s phi vật vã đau đớn trong cuc sng hin thc với đầy ry nhng áp bc, bt công và bo
lc.
Điu đại ca C.Mác, quan đim duy vt lch s tính cách mng trong hc thuyết Mác v tôn giáo chính
ch đó. Trong khi các nhà duy vt thn ch biết phê phán bn thân tôn giáo thì C.Mác li không phê phán
tôn giáo phê phán chính cái hin thc đã làm ny sinh tôn giáo, tc phê phán s áp bc, bt công, bo
lc…
trong hi đã đẩy con ngưi phi tìm đến vi tôn giáo ru ng mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhn
thy rt quan h nhân
qu trong vn đề này. tôn giáo mt hin ng tinh thn nguyên nhân t
trong đời sng hin thc nên mun xoá b tôn giáo, không cách nào khác phi xoá b cái hin thc đã
làm ny sinh. Theo C.Mác, vn đề không phi “vt nhng bông hoa giả” đi xoá b bn thân cái
“xiềng xích” đưc trang đim bi nhng bông hoa gi đó để con ngưi th “giơ tay hái nhng bông hoa
tht” cho mình, tc tìm kiếm đưc hnh phúc tht s ngay trong thế gii hin thc. T đó, C.Mác đã khng
định rng, mun xoá b tôn giáo gii phóng con ngưi khi s dch ca tôn giáo ttrưc hết phi đấu
tranh giải phóng con người khi nhng thế lc ca trn thế, xoá b chế độ áp bc bất công, nâng cao trình đ
nhn thc cho ngưi dân xây dng mt hi mi không còn tình trng ngưi bóc lt ngưi, đó hi
cng sn ch nghĩa.
2. Quan đim ca ch nghĩa Mác - Lênin v vic gii quyết vn đề tôn giáo trong ch nghĩa hi trên
lập trường duy vt lch s
Trên lp trường duy vt lch s, ch nghĩa Mác - Lênin đã kch lit phn đối nhng hành vi cc đoan, tn công
trc din vào tôn giáo mt cách thô bo. Bn thân tôn giáo không ti vy, không nên phê phán tôn
giáo cn phê phán cái hin thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Vic phê phán tôn giáo không th đưc tiến
hành trc din cần “làm cho con người thoát khi o tưởng, để con người duy, hành động, xây dng
tính hin thc ca mình với cách một con người va thoát khi ảo tưởng đạt đến tuổi trí; để con
ngưi vận động xung quanh bản thân mình, nghĩa là vận động xung quanh cái mt tri tht s ca mình. Tôn
giáo ch cái mt tri ảo tưởng, vận động xung quanh con người chng nào con người còn chưa bắt đầu
vn đng xung quanh bản thân mình”(8). Như vậy, theo quan điểm ca C.Mác, tôn giáo ch tht s mất đi khi
con ngưi ta t nhn thức được v bn thân mình, t b nhng ảo tưởng thần thánh để quay tr v vi cuc
sng hin thc.
Phê phán các nhà duy vt thn trưc đó, ch nghĩa Mác - Lênin khng định, tht sai lm nếu cho rng s
đánh tan đưc nhng thiên kiến tôn giáo ch bng tuyên truyn, giáo dc hay mnh lnh hành chính. Tôn giáo
mt hình thái ý thc hi nên v nguyên tc, ch thay đổi khi bn thân tn ti hi đưc thay đổi,
ch đưc gii quyết khi bn thân hin thc nảy sinh tôn giáo được ci tạo. Cũng trong “Phê phán triết hc pháp
quyn ca Hêghen”, C.Mác đã nêu nguyên tc này: “Xoá b tôn giáo, coi hnh phúc o ng ca nhân
dân, yêu cu thc hin hnh phúc thc s ca nhân dân. Đòi hi nhân dân t b nhng o ng v tình
cnh ca mình nghĩa đòi hi nhân dân t b mt tình cnh đang cn o ng. Do đó, vic phê phán tôn
giáo hình thc manh nha ca s phê phán cái bin kh y, cái bin kh tôn giáo vòng hào quang thn
thánh”(9). Do đó, theo ông, “nhiệm v ca lch s, sau khi thế gii bên kia ca chân đã mt đi, xác lp
chân ca thế gii bên này… Như vy, phê phán thượng gii biến thành phê phán cõi trn, phê phán tôn giáo
biến thành phê phán pháp quyn, phê phán thn hc biến thành phê phán chính trị”(10).
Vì vy, mun khc phc nhng ảnh hưởng tiêu cc của tôn giáo, trước hết cn phi to lp được mt thế gii
hin thc không có áp bc, bất công, nghèo đói, thất học…, một thế gii hin thc không còn cn đến “sự đền
o” ca tôn giáo người ta th tìm thy nhng hnh phúc tht s ngay trong cuc sng, mt hi
cng sn ch nghĩa văn minh. Đó là mt quá trình cách mng lâu dài, gian kh gn lin vi ci to xã hội cũ,
xây dng xã hi mi.
Xut phát t nhn thc tôn giáo nhu cu tinh thn ca mt b phn nhân dân đó nhu cu hoàn toàn
chính đáng, Nhà c hi ch nghĩa cn phi tôn trng bo đảm quyn t do tín ngưng, tôn giáo,
không đưc chng tôn giáo ch chng nhng hành vi li dng tín ngưng, tôn giáo để chng phá cách
mng, đi ngưc li li ích quc gia, dân tc. Tuyt đối không đưc nóng vi, ch quan trong vic gii quyết
vấn đề tôn giáo. V vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Những li tuyên chiến ầm ĩ với ch nghĩa duy tâm,
nhng mnh lnh ngăn cm tín ngưng, tôn giáo nhng hành vi di dt, chính ph, làm cho k thù li
dụng để kích động tình cm tôn giáo của tín đồ, làm cho h ngày càng gn vi tôn giáo, xa lánh thậm chí đi
đến chng li công cuc xây dng ch nghĩa hi. Đương nhiên, như vy không nghĩa coi nh vic
giáo dc ch nghĩa thn khoa hc, thế gii quan duy vt cho toàn dân, trong đó nhng tín đồ tôn giáo,
việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân”(11).
Tôn giáo không ch mt hình thái ý thc hi, còn mt thiết chế hi, biến đổi cùng vi s biến
đổi ca lch s. tng thi k lch s, vai trò của tôn giáo đi với đời sng hi không ging nhau. Quan
điểm, thái đ ca các giáo hi, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vc của đời sng xã hi luôn có s khác bit. Do
đó, cần căn cứ vào từng trường hp c th, trong những điều kin c th Nhà nước hi ch nghĩa xác
định thái độ, cách ng x phù hp.
3. S vn dng quan đim ca ch nghĩa Mác - Lênin v tôn giáo vào vic gii quyết vn đề tôn giáo
trong thi k quá độ lên ch nghĩa xã hội c ta hin nay
Do nhn thức không đầy đủ, đã có một thi k chúng ta mc phi nhng sai lm nghiêm trng trong việc đấu
tranh chng tôn giáo. Chúng ta đã quá nôn nóng, cc đoan trong ng x vi các tôn giáo cũng như vi các
s th t ca tôn giáo. Nhiu nhà th, chùa chin, miếu mạo đã bị đập phá, các sinh hot tôn giáo b ngăn
cấm, người có đạo b k th. Quyn t do tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bo. Chính sng vội đó đã
dẫn đến hu qu xu v mt chính trị, ởng, sở để các thế lc phản động li dng chng phá cách
mạng nước ta. điểm này, ràng chúng ta đã không vn dng tt những quan đim v tôn giáo ca ch
nghĩa Mác - Lênin. Để gii quyết tt vấn đ tôn giáo, theo chúng tôi, trước hết cn phi nhn thc mt s
vấn đề sau đây:(11)
-
Th nht, trong thi k quá độ lên ch nghĩa xã hội c ta hin nay, những điều kin tn ti ca tôn giáo
vn còn; vy, s tn ti ca vn mt tt yếu khách quan. Nhng điu kin đó là: trình độ phát trin ca
lực lượng sn xut, ca khoa hc - k thut còn thp nên kh năng cải to thế giới chưa cao; trình độ nhn
thc còn hn chế nên chưa cho phép giải thích đầy đ, khoa hc nhng hiện tượng t nhiên, xã hội; trình độ
phát trin kinh tế còn thp nên đời sng ca ngưi dân còn gp nhiu khó khăn; thi k quá độ vi nhng
quan h sn xut mi đan xen nhau nên chưa th xoá b nhng hin ng bóc lt, bt bình đẳng trong
hội… Thêm vào đó, chiến tranh, đặc bit thiên tai, vn xy ra khiến cho con người cm thy không yên
tâm vy, mt b phận người dân vn s nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo như một tt yếu. Vấn đề
ch, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối vi tôn giáo.
- Th hai, cn phi nhn thc rng, đối ng đấu tranh trong vic gii quyết vn đề tôn giáo không phi
mi tôn giáo nhng sinh hot tôn giáo hay tt c những tín đ tôn giáo nói chung, ch nhng b phn
ngưi li dng tôn giáo để hành ngh tín d đoan hoc chng phá cách mng, gây ri trt t tr an, đi
ngưc li vi li ích ca quc gia dân tc.
-
Th ba, đ khc phc nhng ảnh hưởng tiêu cc ca tôn giáo, không th dùng mnh lnh hành chính hay
tuyên truyn giáo dục đơn thuần phi chú trọng đến vic ci to hội cũ, xây dựng hi mi. Xoá b
dần phương thức sn xut tiu nông lc hu, ci thiện, ng cao đi sng vt cht, tinh thần cho người dân,
kết hp vi tuyên truyn, giáo dc, nâng cao trình độ nhn thức, trình độ văn hoá để người dân t nhn thc
đưc vai trò thc s của tôn giáo trong đi sng hin thc ca h chính h, ch không phi ai khác, t
quyết định theo hay không theo một tôn giáo nào đó.
Những năm gần đây, vận dng sáng tạo quan điểm ca ch nghĩa Mác - Lênin vào thc tin cách mng Vit
Nam, Đảng ta đã nhng thay đi quan trng trong nhn thc v tôn giáo gii quyết vn đề tôn giáo, đưa
ra nhiu ch trương, chính sách đúng đắn, phù hp.
Quan đim ca Đảng ta v gii quyết vn đề tôn giáo đưc th hin trong nhiu văn kin ca các k Đi hi
đưc c th hoá bng các ngh quyết, ch th của Trung ương, như Ngh quyết s 24/NQ-TW (ngày
16/10/1990) ca B Chính tr V tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới… Chỉ th s 37 CT-TW
(ngày 2/7/1998) ca B Chính tr V công tác tôn giáo trong tình hình mi… Ngoài ra, còn nhiu ch th, ngh
quyết khác ca Đảng v các mt công tác đối vi tôn giáo nói chung tng tôn giáo nói riêng trong tng thi
k. Đặc bit, Hi ngh ln th by Ban Chp hành Trung ương khóa IX đã ban hành Ngh quyết s 25/NQ-TW
(ngày 12/3/2003) V công tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta v công tác tôn giáo được c th hoá
trong Pháp lnh v tín ngưỡng tôn giáo s 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004. Tt c các ch th, ngh
quyết, pháp lnh nêu trên đều th hin nht quán mt s quan đim chính sách sau đây:
-
Mt là, tín ngưng, tôn giáo nhu cu tinh thn ca mt b phn nhân dân, đang s tn ti cùng dân tc
trong quá trình xây dng ch nghĩa xã hội c ta. Thc hin nht quán quyn t do tín ngưỡng, theo hoc
không theo mt n giáo nào, quyn sinh hoạt n giáo bình thường theo đúng pháp lut. Các tôn giáo hot
động bình thường trong khuôn kh pháp luật, bình đẳng trước pháp lut.
-
Hai là, thc hin nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tc, không phân biệt đối x lý do tín ngưng, tôn
giáo. Trong Báo cáo chính tr ca Ban Chấp hành Trung ương khoá VI tại Đại hội đại biu toàn quc ln th
VII, Đảng ta khảng định “Tín ngưỡng, tôn giáo nhu cu ca mt b phận nhân dân, Đảng Nhà nước ta
tôn trng quyn t do tín ngưỡng không tín ngưng ca nhân dân, thc hin bình đẳng, đoàn kết lương
giáo gia các dân tc. Khc phc mọi thái độ hp hòi, thành kiến, phân biệt đối x với đồng bào đạo,
chng nhng hành vi vi phm t do tín ngưỡng”(12). Quan đim của Đảng nghiêm cm s phân biệt đối x
với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thi, nghiêm cm li dụng tín ngưỡng, tôn giáo đ hoạt động
mê tín d đoan, hoạt động trái pháp lut và chính sách của Nhà nước, kích động, chia r các dân tc, gây ri,
xâm phm an ninh quc gia.
- Ba là, ni dung ct lõi ca công tác tôn giáo vn động qun chúng. Công tác vn động qun chúng phi
động viên đưc đồng bào nêu cao tinh thn yêu c, ý thc bo v độc lp thng nht T quc thông qua
vic thc hin tt các chính sách kinh tế
hi, an ninh, quc phòng, đảm bo li ích vt cht tinh thn
của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
- Bn là, công tác tôn giáo trách nhim ca c h thng chính tr do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán b
chuyên trách làm công tác tôn giáo lc ng nòng ct.
- Năm là, vn đề theo đạo truyn đạo. Mi tín đồ quyn t do hành đạo ti gia đình s th t hp
pháp theo quy định ca pháp lut. Vic theo đạo, truyn đạo cũng như mi hot động tôn giáo khác đều phi
tuân th Hiến pháp pháp lut; không đưc li dng tôn giáo để tuyên truyn đạo, hot động tín d
đoan, không đưc ép buc ngưi dân theo đạo. Nghiêm cm các t chc truyn đạo, ngưi truyn đạo
cách thc truyn đạo trái phép, vi phm các quy định ca pháp lut. (12)
Như vậy, quan điểm ca Đng ta v tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm bo quyn t do, dân ch. Trong khi
đó, hiện nay, nhng nhân, t chức trong ngoài nước vn cho rng Việt Nam người dân không
quyn t do tín ngưỡng, tôn giáo. T đó, chúng dùng nhiều th đoạn để kích động đồng bào đo gây ri,
chng phá cách mạng, i vào âm mưu “din biến hoà bình” cùng thâm đc của chúng. Đó nhng lun
điu sai lm, xuyên tc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo
các hoạt động tôn giáo c ta hin nay mà chúng ta cn kiên quyết bác b.
*****************
(*) Tiến triết hc, Trường Đại hc Hng Đức, Thanh a.
(**) Khoa lun Chính tr, Trường Đại hc Hng Đức, Thanh Hóa.
(1) Dn theo: V.I.Lênin. Toàn tp, t.29, Nxb Tiến b, Mátxcơva, 1981, tr.71.
(2) C.Mác Ph.Ăngghen. Toàn tp, t.1. Nxb Chính tr Quc gia, Ni, 1995, tr.815.
(3) C.Mác Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.815.
(4) C.Mác Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437.
(5) C.Mác Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437-438.
(6) V.I.Lênin. Toàn tp, Sđd., t.12, tr.169-170.
(7) C.Mác Ph.Ăngghen. Sđd., tr.437-570.
(8) C.Mác Ph.Ăngghen. Tuyn tp, t.1. Nxb S tht, Ni, 1980, tr.15.
(9) C.Mác Ph.Ăngghen. Toàn tp, Sđd., t.1, tr.570.
(10) C.Mác Ph.Ăngghen. Tuyn tp, Sđd., t.1, tr.15.
(11) Dn theo: Giáo trình ch nghĩa hi khoa hc. Nxb Chính tr Quc gia, Ni, 2006. tr.236.
(12) Đảng Cng sn Vit Nam. Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th VII. Nxb S tht, Ni, 1991,
tr.78
Tags:

Preview text:

Thứ Tư, 16/9/2015 14:42'(GMT+7)
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và
sự vận dụng để giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác,
thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử
của học thuyết này.

1. Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì
những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học
thuyết này. Nó thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn
chức năng của tôn giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên, thế
giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con người đều chịu sự chi phối,
điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các nhà duy vật, vô thần đã có quan điểm hoàn toàn
đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết học duy vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không
phải thần thánh sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình; rằng:
“Thượng đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là toàn bộ những đặc tính chung nhất rút ra
từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể
hay một thực thể độc lập”([1]). Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía
cạnh này, ông vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phê
phán tôn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh
tôn giáo. Thậm chí, ông còn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tôn giáo khác thay thế, đó là “tôn giáo tình
yêu” để xoá bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Theo đó, ý
thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng
mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một
hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của
tôn giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế giới
khách quan. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con người và giới
tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau
đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”(2).
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới
tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên,
là sự “đánh mất bản chất người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác
với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”.
Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng
mình trước bản chất của chính mình và đã thần thánh hoá nó như bản chất xa
lạ nào đó”(3). Lột tả bản
chất của tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người –
của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” (4).
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư ảo” của tôn giáo? Tại sao
con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường
duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện
thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế – xã hội. Trong lịch sử
tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm
thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó
chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp bức giai
cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực
trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn
của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta
tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những thời kỳ đầu của lịch sử
chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát
triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một
cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại
còn có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ
lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản
thân những lực lượng tự nhiên vậy”(5). Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp
bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên
kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào
thần thánh, ma quỷ và những phép màu”(6).
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện thực và phản ánh
chính hiện thực đó – một hiện thực cần có tôn giáo và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”(7). Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn
gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng hào
quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng
và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong
cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của
xã hội thì họ chỉ còn biết “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ
không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi
tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt
qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay
độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm
đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị
đau đớn và chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao
người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ
là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực,
là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó không phải không có những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ là
những “bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu không có những “bông
hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ còn lại “xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ “thuốc giảm đau”
ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học thuyết Mác về tôn giáo chính là
ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán
tôn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo
lực… trong xã hội đã đẩy con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận
thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ
trong đời sống hiện thực nên muốn xoá bỏ tôn giáo, không có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã
làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xoá bỏ bản thân cái
“xiềng xích” được trang điểm bởi những bông hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái những bông hoa
thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng
định rằng, muốn xoá bỏ tôn giáo và giải phóng con người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước hết phải đấu
tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình độ
nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội trên
lập trường duy vật lịch sử

Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt phản đối những hành vi cực đoan, tấn công
trực diện vào tôn giáo một cách thô bạo. Bản thân tôn giáo không có tội và vì vậy, không nên phê phán tôn
giáo mà cần phê phán cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Việc phê phán tôn giáo không thể được tiến
hành trực diện mà cần “làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người tư duy, hành động, xây dựng
tính hiện thực của mình với tư cách một con người vừa thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến tuổi có lý trí; để con
người vận động xung quanh bản thân mình, nghĩa là vận động xung quanh cái mặt trời thật sự của mình. Tôn
giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng, nó vận động xung quanh con người chừng nào con người còn chưa bắt đầu
vận động xung quanh bản thân mình”(8). Như vậy, theo quan điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi
con người ta tự nhận thức được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng thần thánh để quay trở về với cuộc sống hiện thực.
Phê phán các nhà duy vật vô thần trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, thật sai lầm nếu cho rằng sẽ
đánh tan được những thiên kiến tôn giáo chỉ bằng tuyên truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Tôn giáo
là một hình thái ý thức xã hội nên về nguyên tắc, nó chỉ thay đổi khi bản thân tồn tại xã hội được thay đổi, nó
chỉ được giải quyết khi bản thân hiện thực nảy sinh tôn giáo được cải tạo. Cũng trong “Phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen”, C.Mác đã nêu rõ nguyên tắc này: “Xoá bỏ tôn giáo, coi là hạnh phúc ảo tưởng của nhân
dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Đòi hỏi nhân dân từ bỏ những ảo tưởng về tình
cảnh của mình nghĩa là đòi hỏi nhân dân từ bỏ một tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn
giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cái biển khổ ấy, cái biển khổ mà tôn giáo là vòng hào quang thần
thánh”(9). Do đó, theo ông, “nhiệm vụ của lịch sử, sau khi thế giới bên kia của chân lý đã mất đi, là xác lập
chân lý của thế giới bên này… Như vậy, phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo
biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính trị”(10).
Vì vậy, muốn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, trước hết cần phải tạo lập được một thế giới
hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, thất học…, một thế giới hiện thực không còn cần đến “sự đền
bù hư ảo” của tôn giáo mà người ta có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc sống, một xã hội
cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đó là nhu cầu hoàn toàn
chính đáng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
không được chống tôn giáo mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách
mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuyệt đối không được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy tâm,
những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi
dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh thậm chí đi
đến chống lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc
giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo,
việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân”(11).
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thiết chế xã hội, nó biến đổi cùng với sự biến
đổi của lịch sử. ở từng thời kỳ lịch sử, vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan
điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Do
đó, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa xác
định thái độ, cách ứng xử phù hợp.
3. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề tôn giáo
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Do nhận thức không đầy đủ, đã có một thời kỳ chúng ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc đấu
tranh chống tôn giáo. Chúng ta đã quá nôn nóng, cực đoan trong ứng xử với các tôn giáo cũng như với các cơ
sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo đã bị đập phá, các sinh hoạt tôn giáo bị ngăn
cấm, người có đạo bị kỳ thị. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bảo. Chính sự nóng vội đó đã
dẫn đến hậu quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế lực phản động lợi dụng chống phá cách
mạng nước ta. ở điểm này, rõ ràng chúng ta đã không vận dụng tốt những quan điểm về tôn giáo của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, theo chúng tôi, trước hết cần phải nhận thức rõ một số vấn đề sau đây:(11)
- Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những điều kiện tồn tại của tôn giáo
vẫn còn; vì vậy, sự tồn tại của nó vẫn là một tất yếu khách quan. Những điều kiện đó là: trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, của khoa học - kỹ thuật còn thấp nên khả năng cải tạo thế giới chưa cao; trình độ nhận
thức còn hạn chế nên chưa cho phép giải thích đầy đủ, khoa học những hiện tượng tự nhiên, xã hội; trình độ
phát triển kinh tế còn thấp nên đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn; thời kỳ quá độ với những
quan hệ sản xuất cũ và mới đan xen nhau nên chưa thể xoá bỏ những hiện tượng bóc lột, bất bình đẳng trong
xã hội… Thêm vào đó, chiến tranh, đặc biệt là thiên tai, vẫn xảy ra khiến cho con người cảm thấy không yên
tâm và vì vậy, một bộ phận người dân vẫn sẽ có nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo như một tất yếu. Vấn đề là ở
chỗ, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với tôn giáo.
- Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo không phải là
mọi tôn giáo và những sinh hoạt tôn giáo hay tất cả những tín đồ tôn giáo nói chung, mà chỉ là những bộ phận
người lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng, gây rối trật tự trị an, đi
ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
- Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, không thể dùng mệnh lệnh hành chính hay
tuyên truyền giáo dục đơn thuần mà phải chú trọng đến việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xoá bỏ
dần phương thức sản xuất tiểu nông lạc hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân,
kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, trình độ văn hoá để người dân tự nhận thức
được vai trò thực sự của tôn giáo trong đời sống hiện thực của họ và chính họ, chứ không phải ai khác, tự
quyết định theo hay không theo một tôn giáo nào đó.
Những năm gần đây, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, Đảng ta đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, đưa
ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.
Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và
được cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, như Nghị quyết số 24/NQ-TW (ngày
16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới… Chỉ thị số 37 CT-TW
(ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về công tác tôn giáo trong tình hình mới… Ngoài ra, còn có nhiều chỉ thị, nghị
quyết khác của Đảng về các mặt công tác đối với tôn giáo nói chung và từng tôn giáo nói riêng trong từng thời
kỳ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW
(ngày 12/3/2003) Về công tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo được cụ thể hoá
trong Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004. Tất cả các chỉ thị, nghị
quyết, pháp lệnh nêu trên đều thể hiện nhất quán một số quan điểm và chính sách sau đây:
- Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt
động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
- Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Đảng ta khảng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương
giáo và giữa các dân tộc. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo,
chống những hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng”(12). Quan điểm của Đảng nghiêm cấm sự phân biệt đối xử
với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động, chia rẽ các dân tộc, gây rối,
xâm phạm an ninh quốc gia.
- Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng phải
động viên được đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần
của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
- Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng nòng cốt.
- Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị
đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và
cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật. (12)
Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi
đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào có đạo gây rối,
chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hoà bình” vô cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận
điệu sai lầm, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo và
các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ. *****************
(*) Tiến sĩ triết học, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa.
(**) Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa.
(1) Dẫn theo: V.I.Lênin. Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.71.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.815.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.815.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.437-438.
(6) V.I.Lênin. Toàn tập, Sđd., t.12, tr.169-170.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.437-570.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.15.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Sđd., t.1, tr.570.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, Sđd., t.1, tr.15.
(11) Dẫn theo: Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr.236.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.78 Tags: