lOMoARcPSD| 61470371
ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN GIÁO DỤC HỌC
Câu 1: Trình bày, phân tích các khái niệm cơ bản của GDH.
1. Kể tên các khái niệm cơ bản của GDH.
- Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng): quá trình tác động mục đích, tổ chức, kế
hoạch, nội dung bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục
trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
- Giáo dục (theo nghĩa hẹp) quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ,
tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen xử đúng
đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu.
- Dạy học quá trình tác động qua lại giữa người dạy người học nhằm giúp cho người học
lĩnh hội những tri thức khoa học, phát triển ng lực tư duy và năng lực hoạt động sáng tạo, trên
sở đó hình thành thế giới quan các phẩm chất nhân cách của người học theo mục đích
giáo dục.
2. Phân biệt khái niệm dạy học và giáo dục.
Từ nội hàm của các khái niệm trên, thể thấy: Quá trình giáo dục (nghĩa rộng) bao gồm
hai quá trình bộ phận quá trình dạy họcquá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Điểm chung giữa
các quá trình này là đều hướng tới mục tiêu hình thành, phát triển nhân cách cho người học (người
được giáo dục). Đồng thời, trong các quá trình đó, vai trò của nhà giáo dục (người dạy) đều là chủ
đạo.
Tuy nhiên, giữa hai quá trình này có những điểm khác biệt được thể hiện cụ thể qua bảng so
sánh như sau:
Tiêu chí
Giáo dục
DẠY HỌC
Chức năng trội
Giúp học sinh hình thành, phát triển
các phẩm chất đạo đức
Giúp học sinh lĩnh hội tri thức, phát
triển năng lực trí tuệ
Lực lượng tiến
hành
- Chủ yếu được tiến hành dưới vai trò
của giáo viên chủ nhiệm lớp phối kết
hợp với các lực lượng giáo dục khác
(trong nhà trường ngoài nhà
trường)
Chủ yếu được tiến hành dưới vai trò
chủ đạo của các giáo viên bộ môn
Cách thức tiến
hành
Được thực hiện thông qua việc tổ
chức các hoạt động giáo dục
Được thực hiện chủ yếu thông qua các
giờ học trên lớp
Thời gian
Đòi hỏi quá trình u dài, thường
xuyên, liên tục
thể thực hiện trong thời gian ơng
đối ngắn
Như vậy, điểm khác biệt giữa QTDH và QTGD là:
Thứ nhất, về chức năng trội, quá trình giáo dục ưu thế hình thành phát triển các
phẩm chất đạo đức cho học sinh (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực…); còn quá trình dạy học
lại có ưu thế khi hình thành tri thức và phát triển các năng lực của người học. Các năng lực cốt lõi
như: năng lực tự chtự học, năng lực giao tiếp hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề sáng
tạo được hình thành chủ yếu trong quá trình dạy học... Thứ hai, về lực lượng tiến hành:...
Thứ ba, về cách thức tổ chức...
3. Mối quan hệ giữa các khái niệm:
Các khái niệm dạy học và giáo dục tuy có sự khác nhau tương đối về chức năng trội, về lực
lượng tiến hành ng như cách thức thực hiện, nhưng chúng mối quan hệ chặt chẽ tác động
biện chứng với nhau. Kết quả của quá trình dạy học là cơ sở để thực hiện tốt quá trình giáo dục và
lOMoARcPSD| 61470371
ngược lại, việc thực hiện chưa tốt quá trình giáo dục cũng sẽ dẫn đến những hạn chế nhất định và
kém hiệu quả đối với quá trình dạy học.
4. KLSP
- Do dạy học giáo dục đều những ưu thế riêng trong sự hình thành, phát triển nhan cách
học sinh, nhà giáo dục cần ý thức được vai trò quan trọng của cả quá trình giáo dục và quá trình
dạy học khi tác động đến học sinh.
- Để giáo dục học sinh toàn diện tbản thân giáo viên không chỉ trau dồi chuyên môn của bản
thân mà còn phải bồi dưỡng và rèn luyện các phẩm chất đạo đức của nhà giáo mẫu mực.
- Khi tổ chức các hoạt động giáo dục, cần lưu ý đến việc trang bị tri thức, phát triển trí tuệ cho
học sinh. Không những thế, còn phải thông qua hoạt động đó, bồi dưỡng cho học sinh các phẩm
chất cần có theo mục tiêu, yêu cầu của giáo dục đề ra.
- Nhà giáo dục cần không ngừng mở rộng kiến thức, nâng cao năng lực sư phạm để giáo dục học
sinh toàn vẹn và hiệu quả.
- Nhà giáo dục cần thay đổi nội dung phù hợp, hấp dẫn để kích thích hoạt động học của HS diễn
ra sôi nổi, tích cực.
- Để đạt được hiệu quả giáo dục, nhà giáo dục cần phải tổ chức tốt hoạt động dạy học, áp dụng
khao học kĩ thuật trong giảng dạy.
- Nhà giáo dục cần lưu ý khi tổ chức các hoạt động cần hướng mục tiêu cụ thể tới đối tượng học
sinh, tổ chức có hiệu quả.
Câu 2: Phân tích các chức năng xã hội của giáo dục?
Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng): quá trình tác động mục đích, tổ chức, kế
hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong
các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Với cách là một hiện tượng hội, giáo dục tác động vào từng cá nhân để trở thành những
nhân cách theo yêu cầu phát triển của hội. Giáo dục tác động đến các lĩnh vực của đời sống
hội, đến c quá trình hội con người là chủ thể. Những tác động đó, xét dưới góc độ hội
học, được gọi những chức năng hội của giáo dục. Giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã
thực hiện 3 chức năng hội của mình: Chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- hội
và chức năng tư tưởng- văn hóa.
1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao hơn,
thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển những năng lực
chung năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất lao động cao hơn, thúc
đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội hiện đại đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực: có trình độ học
vấn cao, tay nghề vững vàng, năng động, sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những
yêu cầu của tiến trình phát triển xã hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một trong giải pháp quan
trọng để phát triển năng lực hành động cho người học trong các nhà trường, đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm:
lOMoARcPSD| 61470371
- Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội.
- Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài.
- Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực
hành động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
2. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục tác động đến cấu trúc hội, tức tác động đến các bộ phận, các thành phần
hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ
phận, thành phần đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, củng
cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng hội, nhằm duy trì, củng cố thể chế
chính trị- xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, làm cho các
giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội.. ngày càng xích lại gần nhau.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền lực “của n,
do dân, vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục là sự
nghiệp của Đảng, của Nhà nước của toàn dân. Giáo dục phục vụ cho mục tiêu: n giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm:
- Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của nhà nước.
- Giúp học sinh hiểu, tin tưởng thực hiện theo đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của nhà nước
3. Chức năng tư tưởng – văn hóa
Với chức năng tư tưởng- văn hóa, giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tư tưởng chi
phối toàn hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong hội bằng cách phcập giáo dục phổ
thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tưởng hội được thấm đến từng con người, giáo dục hình
thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức hội.
Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng được bảo tồn và
phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm
- Đa dạng hóa các loại hình phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân,nhằm tạo
cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời
- Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
lOMoARcPSD| 61470371
Trong ba chức năng hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất chức năng quan
trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn hóa.
Câu 3: trình bày tính chất của giáo dục
Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng): quá trình tác động mục đích, tổ chức, kế hoạch,
có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ
quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
(1) Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục
Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã hội,
giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của hội nó mất đi khi xã hội không tồn tại,
là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của hội loài người, con đường đặc trưng
cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
(2) Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội)
Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử đều có nền giáo dục ơng ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội này sang
hình thái kinh tế – xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi theo.
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế – hội và đáp
ứng các yêu cầu kinh tế hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi trong quá
trình phát triển của lịch sử loài người, không một nền giáo dục rập khuôn cho mọi hình thái
kinh tế hội, cho mọi giai đoạn của mỗi nh thái kinh tế – xã hội cũng như cho mọi quốc gia,
chính vậy giáo dục mang tính lịch sử. mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau
về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn
được hoàn thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
(3) Tính giai cấp của giáo dục
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định giai cấp thống trị xã hội.
Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của mình.
Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp đối với
giai cấp bị bóc lột, bị thống trị.
Giáo dục làm phương tiện đánh tranh, lật đổ giai cấp thống trị
Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục chi phối,
định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
Theo V.I.Lênin: Trong hội giai cấp, không thể thêm một nền giáo dục, một nhà
trường nào lại đứng trên hay đứng ngoài giai cấp.
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là hướng tới xoá bỏ áp bức bóc lột, từ đó hướng tới
sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang chế thị trường, bên cạnh những mặt
tích cực cơ bản vẫn có những mặt trái khó tránh được, nhà nước ta đã cố gắng đưa ra những chính
sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
- Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
- Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào tạo lên
cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v.v. . Tiến hành xoá
mù chữ, phổ cập giáo dục.
- Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo hội học
tập cho mọi tầng lớp nhân dân.
lOMoARcPSD| 61470371
Bên cạnh những tính chất trên, giáo dục còn có những tính chất như: Tính đại chúng, Tính
nhân văn, Tính dân tộc, Tính thời đại
Câu 4: Vai trò của giáo dục với sự phát triển, hình thành nhân cách?
Trả lời
(1) Khái niệm con người, cá nhân và nhân cách
- Con người một thực thể sinh vật- hội mang bản chất xã hội, là chủ thể của hoạt động
nhận thức và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và giao tiếp.
- Cá nhân là một thực thể sinh vật- xã hội- văn hóa với các đặc điểm về sinh lý, tâm lý và xã
hội trong sự liên hệ thống nhất với các chức năng xã hôi chung của loài người.
- Nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với sự trưởng thành về phẩm
chất và năng lực trong quá trình thực hiện các chức nănghội của mình, được xã hội đánh
giá và thừa nhận.
(2) Khái niệm sự phát triển cá nhân
Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định trình
độ phát triển nhân cách của chính nhân. Sự phát triển nhân cách nhân được biểu hiện qua
những dấu hiệu sau:
Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp,
sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của cơ thể.
Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá nhân:
trình độ nhận thức, khả năng duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm, tình cảm, tâm tư,
nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, v.v...
Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ với
những người xung quanh, tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải biến, phát triển
xã hội.
(3) Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
- Yếu tố Di truyền – Bẩm sinh
- Yếu tố Môi trường
- Yếu tố hoạt động cá nhân
- Yếu tố giáo dục
(4) Khái niệm giáo dục
Giáo dục quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục người được giáo dục
nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
(5) Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành phát triển nhân cách, bởi được
thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
(6) Vai trò của yếu tố giáo dục đối với qtrình hình thành phát triển nhân cách được thể
hiện:
lOMoARcPSD| 61470371
- Giáo dục không chỉ vạch ra chiều ớng, mục tiêu hình thành phát triển nhân cách của
học sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn.
- Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà các yếu
tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát.
- Giáo dục sức mạnh cải biến những nét tính cách, nh thành phẩm chất lệch lạc không
phù hợp vối yêu cầu, chuẩn mực của hội. Đó chính kết quả quan trọng của giáo dục lại đối
với trẻ em hư hoặc người phạm pháp.
- Giáo dục tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng do bệnh
tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có phương pháp giáo dục,
rèn luyện đặc biệt cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện khoa học có thể giúp cho người khuyết
tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác nhằm
trừ những chức năng bị khiếm khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng.
- Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích ứng với
các yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách còn khả năng m hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo
một gia tốc phù hợp mã di truyền và môi trường không thể thực hiện được.
o Chú ý: Liên hệ để xây dựng ví dụ minh họa cho từng nội dung
(7) Kết luận sư phạm
- Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành và phát triển
nhân cách.
- Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục người học - Tổ chức quá
trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
+ Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
+ Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
+ Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
+ Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
+ Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động cá nhân của học sinh
nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
Câu 5: Phân tích đặc điểm của quá trình giáo dục?
lOMoARcPSD| 61470371
Giáo dục (theo nghĩa rộng): qtrình tác động mục đích, tổ chức, kế hoạch, có nội
dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan
giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Đặc điểm của quá trình giáo dục
(1) Giáo dục là một quá trình có tính mục đích: Mọi tác động giáo dục đều có mục đích nhất
định.
Mục đích giáo dục xuất phát từ những yêu cầu hội về phẩm chất nhân các con người, bị
chi phối bởi trình độ kinh tế xã hội.
- Giáo dục một quá trình tính lâu dài: Quá trình giáo dục nhằm hình thành những phẩm
chất, những nhân cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính
chất lâu dài của quá trình giáo dục đựoc xem xét ở các góc độ sau:
+ Quá trình giáo dục được thực hiện trong suốt cả cuộc đời con người từ khi sinh ra cho đến
khi không còn sống nữa (Giáo dục suốt đời).
+ Vệc hình thành một phẩm chất nhân cách cũng cần thời gian lâu dài. Việc hình thành
vả trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài
đi từ nhận thức đến niềm tin, thái độ đến hành vi thói quen, công việc đó không phải một sớm một
chiều mà có được.
+Quá trình hình thành một phẩm chất nhân cách đòi hỏi một thời gian lâu dài, việc sửa đổi,
cải tạo một nét nhân cách lài đòi hỏi lâu dài hơn.
+ Những phẩm chất mới của nhân cách chỉ được trở nên vững chắc khi người được
giáo dục tiếp nhận trải qua một thời gian tập luyện thể nghiệm, thể hịên, đấu tranh bản thân
trong cuộc sống thực tế để trở thành kinh nghiệm sống của chính mình càng đòi hỏi một thời gian
lâu dài.
+ Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành nhận thức mới, niềm tin
...thường khó nhận thấy ngay thể kết quả đó lại bị biến đổi hoặc bị mất đi. Do đó công tác
giáo dục phải đựoc tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn định, lâu dài đồng thời trong
quá trình giáo dục phải phát huy cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người
được giáo dục thì mới đạt được hiệu quả cả quá trùnh giáo dục.
Kết luận sư phạm: Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục không được nôn nóng, vội vàng,
đốt cháy giai đoạn. Nhà giáo dục cần phải có đức tính kiên trì, bền bỉ, có tính tự kiềm chế cao.
(2) Giáo dục một qtrình có tính phức tạp và chịu tác động bởi nhiều nhân tố: Tính
phức tạp được thể thiện ở chỗ:
+ Tính phức tạp của quá trình giáo dục trước hết nằm đối tượng của nó. Đối tượng của
quá trình giáo dục con người, thực chất tâm hồn con người, i người khác không trực tiếp
nhìn thấy, còn đối tượng của các quá trình hoạt động khác thể nhìn thấy được một cách trực
quan, thể tri giác trực tiếp. Quá trình giáo dục tạo ra sự chuyển biến trong tâm hồn mỗi con người
cũng không thể đánh giá ngay được, khó định lượng được một cách ràng. Mỗi nhân một
thế giới đầy ẩn hết sứ phức tạp, đòi hỏi phải thời gian điều kiện mới thể nhận thức
được.
+ Thứ hai kết quả quá trình giáo dục chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan, bên trong, bên ngoài khác nhau.vậy trong quá trình tiến hành giáo dục nhà giáo dục cần
quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố khách quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài của quá trình
giáo dục. Đó các điều kịên kinh tế chính trị, tôn giáo, phong tục tập quán, văn hoá...đặc điểm tâm
sinh lý, hoàn cảnh sống, điều kiện gia đình...của đối tượng. Muốn giáo dục hiệu quả nhà giáo
dục phải hiểu đối tượng, nắm bắt được đối tượng.
+ Thứ ba, kết ququá trình giáo dục không nhìn thấy ngay được, không đánh giá ngay được,
là những cái khó định tính, định lượng một cách chính xác. Kết quả giáo dục phải có thời gian, có
điều kiện , hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài. vậy việc đánh giá con người, đánh giá kết quả quá
lOMoARcPSD| 61470371
trình giá dục phải hết sức thận trọng, đòi hỏi phải phương pháp phù hơp, phải thời gian
hoàn. Kết quả của hoạt động giáo dục nhiều khi không tỷ lệ thuận với cường độ lao động, với sự
đầu tư... tất cả những điều đó nói lên tính khoá khăn, phức tạp của quá trình giáo dục.
(3) Quá trình giáo dục bao giờ cũng mang tính cụ thể:
Quá trình giáo dục đựơc thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mối cá nhân.
Với cách người được giáo dục, tiếp nhận các tác động giáo dục theo những quy luật chung
mang tính khái quát, đồng thời giáo dục lại phải chú ý tới những đặc điểm riêng biệt, cụ thể của đối
tượng thì mới có hiệu quả do tránh được những tác động một các cứng nhắc, công thức giáo điều.
Tính cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện:
+ Tác động giáo dục theo từng nhân người được giáo dục với nhữung tình huống giáo
dục cụ thể, riêng biệt.
+ Mỗi học sinh đề một nhân tính độc lập tương đối của về trình độ được giáo
dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, về tình cảm, thói quen…nên quá trình tác động giáo dục phải
ohù hợp với cái riêng, cụ thể của họ, giáo dục phải đi sát, phù hợp với đối tượng chính thể hiện
sự nhận thức đúng đắn về đặc điểm này của quá trình giáo dục.
+ Công tác giáo dục phải tính đến đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể: Đặc điểm tâm lý
lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biết phức tạp, éo le cảu từng tình huống cụ thể để
nhà giáo dục có thể tìm thấy hoặc dự đoán những nguyên nhân của các biểu hiện ( thái độ, hành vi,
thói quen ) từ đó mới có biện pháp phù hợp.
+ Quá trình giáo dục luôn phải giả quyết những mâu thuẫn, xung đột cụ thể giữa yêu cầu,
nhiệm vụ giáo dục và phẩm chất, năng lực tâm lý của người được giáo dục . Mâu thuẫn trong quá
trình giáo dục thường nảy khi học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ giáo dục mới nhưng trình độ
giáo dục hiện có lại chưa đủ.
+ Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, kỹ năng
thể hiện các yêu cầu, nội dung giáo dục, biến những yêu cầu từ bên ngoài thành nét tính cách riêng,
độc đáo của mỗi con người. Đó cũng chính là kết quả phải đạt được của quá trình giáo dục.
+ Quá trình giáo dục được diên ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể.
+ Kết quả quá trình giáo dục cũng mang tính cthể đối với từng loại dối tượng giáo dục, đối
với từng mặt, từng yêu cầu giáo dục hoặc tổng quát trọn vẹn của một quá trình giáo dục cho những
đối tượng cụ thể.
Vì giáo dục mang tính biệt, cụ thể tức giáo dục phải phù hợp với từng nhân cụ thể,
từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới hiệu quả nên trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục phải
thực sự thương yêu học sinh, quan tâm sâu sát học sinh để hiểu ờng tận về các em, có vậy mới có
thể có cách tác động phù hợp với từng đối tượng.
(4) Quá trình giáo dục thống nhất biến chứng với quá trình dạy học
- Giáo dục dạy học là hai quá trình cùng mục đích hình thành phát triển
nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất.
- Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh chất lượng hiệu
quảnội đung học vấn; giáo dục nh thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen. . . hai hoạt
động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ
dạy học thì thế giới quan các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình thành phát triển,
ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học quá trình
điều khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát.
- Học sinh khách thể (đối tượng) của quá trình giáo dục, chủ thể của quá trình
tựugiáo dục: Trong quá trình giáo dục học sinh luôn nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo
dục các lực ợng giáo dục khác, khi đó học sinh khách thể của qtrình giáo dục. Nhưng khi
tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học không hoàn toàn thụ động là một thực thể xã hội,
có ý thức mang tính tích cực, học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình giáo dục khi nó tự giác,
lOMoARcPSD| 61470371
chủ động và tích cực thực hiện các yêu cầu của giáo dục từ bên ngoài. Hiệu quả quá trình giáo dục
phụ thuộc rất lớn vào vào tính chủ thể này củ người được giáo dục.
Tóm lại: Trên đây những đặc điểm cơ bản của quá trình giáo dục. Để thực hiện tốt q
trình giáo dục, các nhà giáo dục cần nghiên cứu kỹ và nắm vững được những đặc điểm u trên của
quá trình giáo dục.
Câu 6: phân tích bản chất của quá trình giáo dục?
Giáo dục (theo nghĩa hẹp): là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ, tình
cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong
xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu
Bản chất của quá trình giáo dục
a. Quá trình giáo dục – quá trình hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu cầu khách
quan thành yêu cầu chủ quan của cá nhân
- Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành những thành
viên hội. Những thành viên này phải thỏa mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các
yêu cầu hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa khả năng tác động cải tạo, xây dựng hội làm
cho tồn tại phát triển. Những nét bản chất của nhân con người chính do các mối quan
hệ xã hội hợp thành.
- Quá trình giáo dục quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được các quan hệ xã hội
và các giá trị của nó, biết vận dụng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa – xã hội,
đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình, ứng xnhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và yêu cầu
của xã hội.
b. Quá trình giáo dục quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động giao lưu cho đối tượng
giáo dục
- Quá trình giáo dục quá trình hình thành bản chất người bản chất hội trong mỗi
nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã
hội. Triết học mác – xít đã khẳng định: Bản chất xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia
vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hóa (văn hóa
vật chất và tinh thần).
- Quá trình giáo dục vừa mang tính chất của hoạt động, vừa mang tính chất của giao lưu. Giáo
dụclà một quá trình tác động qua lại mang tính hội giữa nhà giáo dục đối tượng giáo dục,
giữa các đối tượng giáo dục với nhau và với các lực lượng, các quan hệ xã hội trong ngoài nhà
trường.
=> Như vậy, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động
giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo nhằm
chuyển hóa những yêu cầu của các chuẩn mực của xã hội quy định thành hành vi và thói quen hành
vi tương ứng ở họ trên cơ đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
* Kết luận sư phạm
- Làm cho học sinh hiểu được nội dung các chuẩn mực, ý nghĩa hội của việc thực hiện
đúng đắn các chuẩn mực đó, hình thành xúc cảm tích cực niềm tin đối chuẩn mực.
lOMoARcPSD| 61470371
- Giúp họ tích quỹ được kinh nghiệm thực tiễn tích cực, nhu cầu thói quen hành động
đúng trong các quan hệ đó.
- Xây dựng cho họ ý chí và năng lực xóa bỏ tàn dư của những quan hệ cũ, chối bỏ, chống lại
quanhệ xấu.
Câu 7: Phân tích các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp
Phân tích logic của quá trình giáo dục
1. Khái niệm logic của Quá trình giáo dục
Lôgic của quá trình giáo dục là trình tự vận động hợp quy luật của quá trình giáo dục, nhằm
đảm bảo cho người được giáo dục đi từ trình độ tri thức, xúc cảm, nh cảm hành vi, thói quen
hành vi phù hợp với các chuẩn mực hội tương ứng từ lúc bắt đầu tham gia một hoạt động giáo
dục nào đó, đến trình độ trình độ tri thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội, tương ứng với lúc kết thúc hoạt động giáo dục.
2. Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất kì một phẩm chất
nhân cách nào đó đều phải tác động vào tất cả các mặt của đời sống tâm lý cá nhân: nhận thức, tình
cảm, kĩ năng hành động ý chí, … Từ lý luận và thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy quá trình giáo dục
diễn ra theo các khâu cơ bản sau:
a. Tổ chức điều khiển người được GD nắm vững những tri thức vcác chuẩn mực hội đã
quy định
Các chuẩn mực hội thước đo giá trị hành vi của con người được hội thừa nhận,
tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của nhân, của nhóm hội trong những điều kiện nhất
định. Chuẩn mực xã hội cũng chính là những điều kiện mà hội kiểm tra hành vi của cá nhân và
cá nhân lại có thể sử dụng nó để kiểm tra hành vi của mình trên cơ sở đó hướng tới sự phát triển xã
hội.
Trong hội tồn tại rất nhiều hệ thống các giá trị chuẩn mực hội: giá trị chuẩn mực về pháp
luật, chuẩn mực về đạo đức, chuẩn mực về truyền thống, chuẩn mực về phong tục tập quán, chuẩn
mực về thẩm mỹ…Trong đó, nhiều loại chuẩn mực về đạo đức, pháp luật đã được lựa chọn và đưa
vào nội dung quá trình giáo dục.
Nhận thức là cơ sở, kim chỉ nam cho sự hình thành và điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành
vi của mỗi nhân. Muốn người được giáo dục tự giác tích cực thực hiện theo các chuẩn mực
hội đã quy định. Đòi hỏi nhà giáo dục cần phải tác động tới nhận thức của người được giáo dục,
giúp cho người được giáo dục nắm vững được những tri thức về các chuẩn mực xã hội bao gồm:
- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực xã hội quy định.
- Nội dung của các chuẩn mực (bao gồm c khái niệm tương ứng) -
Cách thức thực hiện theo các yêu cầu chuẩn mực đó.
Tuy nhiên, kết quả của quá trình nhận thức đó phụ thuộc vào trình độ văn hóa, kinh khái niệm
về đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về quy tắc sống, chuẩn mực xã hội, những giá trị văn hóa sẽ
được hình thành.
lOMoARcPSD| 61470371
b. Tổ chức điều kiển người được giáo dục hình thành niềm tin và tình cảm tích cực với các
chuẩn mực xã hội quy định
Chính trong quá trình hình thành, phát triển tri thức về các chuẩn mực xã hội cho người được
giáo dục thì thái độ, niềm tin, tình cảm ch cực đối với các chuẩn mực hội ở họ dần được hình
thành.
Trong quá trình giáo dục, niềm tin đối với các chuẩn mực xã hội được thể hiện ở người được
giáo dục theo các mức độ tăng dần như sau:
- Người được giáo dục nắm được nghiệm sống, sự trải nghiệm của mỗi người, sản phẩmcủa
quá trình học tập và tự tu dưỡng. Đối với học sinh phổ thông, giáo dục ý thức cá nhân là khâu cực
kì quan trọng, quá trình này được thực hiện thông qua quá trình học tậpcác hoạt động rèn luyện
trong và ngoài nhà trường. Qua đó những những tri thức về các chuẩn mực xã hội
- Tin về mặt luận cũng như về mặt thực tiễn đối với tính chân đúng đắn của các chuẩn
mựcxã hội
- Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩn mực xã hội.
- Bước đầu có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Hài lòng về hành vi của mình khi đã hoàn thành phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Tỏ thái đ không khoan nhượng đối với những hành vi của người khác mâu thuẫn
vớinhững chuẩn mực xã hội.
Chính niềm tin đó cùng với những tri thức ơng ứng thu lượm được sẽ tạo nên ở người được
giáo dục ý thức đúng đắn. Trong quá trình hình thành ý thức nói chung, niềm tin nói riêng cho
người được giáo dục đã làm nảy nnhững xúc cảm, tình cảm tốt đẹp đối với các chuẩn mực xã hội.
Những xúc cảm, tình cảm tích cực đó nnhững “chất men” kích thích người được giáo dục
chuyển hoá ý thức cá nhân thành hành vi thói quen tương ứng.
Kinh nghiệm thực tiễn giáo dục cho thấy:
- Nếu ý thức về các chuẩn mực hội của người được giáo dục bị hạn chế thì tình cảmtương
ứng cũng bị hạn chế, điều đó dẫn tới hành vi tương ứng mang tính chất hình thức, thậm chí không
hình thành hoặc rơi vào tình trạng sai lệch.
- Nếu người được giáo dục có nhận thức đúng về các chuẩn mực xã hội mà không có tìnhcảm
tương ứng thì hành vi tương ứng sẽ khô khan cứng nhắc và thậm chí không hình thành hay sai lệch:
“Yêu nên tốt, ghét nên xấu”
- Nếu người được giáo dục nắm các chuẩn mực hội một cách không tự giác sẽ dẫn đến
tìnhtrạng nói và làm không đi đôi với nhau và kết quả giáo dục là hình thành bộ mặt nhân cách giả
tạo.
Đối với các trường phổ thông thì công tác giáo dục thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực cho
học sinh đối với việc học tập, các mối quan hệ gia đình, bạn, hội, đối với tự nhiên môi
trường xung quanh là điều ý nghĩa rất quan trọng. Giáo dục xây dng niềm tin cho các em vào
chân lí, lẽ phải, giáo dục tình cảm yêu mến, kính trọng thầy cô giáo, cha mẹ; thân ái với bạn bè,…
và đồng thời chú ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện thái độ lệch lạc, thiếu trong sáng
làm ảnh hưởng tới hiệu quả quá trình giáo dục.
c. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành hành vi thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội đã quy định
Nhân cách của mỗi ngưòi được thể hiện bằng hành vi và thói quen hành vi của họ chứ không
chỉ dừng ở sự hiểu biết của họ. Hành vi là biểu hiện cụ thể nhất của bộ mặt tâm lí, đạo đức của con
người.
Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành ở người được giáo dục phẩm chất nhân cách
của người công dân, người lao động đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó, quá trình giáo dục quan trọng
nhất phải tổ chức, điều khiển ngưòi được giáo dục tham gia vào những mối quan hệ hoạt động
và giao lưu để họ tự rèn luyện nhằm hình thành những hành vi phù hợp với các chuẩn mực hội
và lặp đi lặp lại những hành vi đó thành thói quen tương ứng. Bởi hành vi văn hóa khi đã trở thành
lOMoARcPSD| 61470371
thói quen sẽ mang tính bền vững và tự động hóa trong cách ứng xử của mọi tình huống cuộc sống
hàng ngày của người được giáo dục.
Hành vi và thói quen hành vi của mỗi người được hình thành trong qtrình hoạt động
được rèn luyện trong các tình huống cụ thể, đa dạng của cuộc sống. Giáo dục hành vi, thói quen
hành vi có văn hóa là kết quả của cả một quá trình học tập tu ỡng và rèn luyện lâu dài của người
được giáo dục.
Chính vì vậy, quá trình giáo dục phải tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú dưới nhiều
hình thức khác nhau và ngày càng phức tạp đồng thời chú ý bồi dưỡng cho người được giáo dục ý
thức tự rèn luyện, năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên trên cơ sở đó các thói quen hành
vi đạo đức của người được giáo dục mới được hình thành.
Lưu ý: những hành vi hình thành người được giáo dục phải thoả mãn các tiêu chí sau
đây:
Hành vi đó có phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định hay không?
Hành vi đó có được thể hiện ở mọi nơi mọi lúc hay không?
Hành vi có được duy trì bền vững theo thời gian hay không?
nh vi đó có động cơ đúng hay sai? Có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế nào?
Tóm lại: Các khâu trên đây của qtrình giáo dục tác động đồng bộ tới nhận thức, tình cảm,
hành vi thói quen của người được giáo dục mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trcho nhau thậm
trí là thâm nhập vào nhau: nhận thức sở điều kiện cần cho việc hình thành tình cảm, hành
vi tương ứng ở người được giáo dục; Niềm tin, tình cảm là động lực thúc đẩynhân hoạt động để
biến nhận thức thành hành động; Việc thể nghiệm hành vi và rèn luyện hành vi là yếu tố quyết định
sự hình thành phát triển nhân cách của người được giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo
dục không nhất thiết phải tuân theo trình tự các khâu nêu trên. Việc vận dụng các khâu sao cho phù
hợp với từng đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục hoàn cảnh cụ thể nhằm phát huy tính hiệu
quả của quá trình giáo dục.
Câu 8: trình bày pp nêu gương, khen thưởng, trách phạt, thi đua, kể chuyện, giảng giải đàm
thoại, tập luyện, giao việc, rèn luyện.
1. Khái niệm phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là hệ thống cách thức hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo
dục thực hiện trong sự thống nhất với nhau nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục phù hợp với
mục đích giáo dục đặt ra.
2. Một số cách phân loại các phương pháp giáo dục
Quá trình giáo dục một quá trình phức tạp, các phương pháp giáo dục được hiểu trên
nhiều bình diện khác nhau và có cách phân chia nhóm phương pháp giáo dục gọi tên khác nhau.
Sau đây là một số cách phân loại các phương pháp giáo dục:
- Dựa trên cơ sở lực lượng giáo dục tham gia vào quá trình giáo dục ta có các phương
pháp giáo dục: Nhóm phương pháp giáo dục gia đình, nhóm phương pháp giáo dục hôi, nhó
phương pháp giáo dục đoàn thể, nhóm phương pháp giáo dục nhà trường.
- Dựa trên cơ sở nôi dung giáo dục, ta c
ó các phương pháp giáo dục: phương pháp
giáo dục đạo đức, phương pháp giáo dục thẩm mỹ, phương pháp giáo dục pháp luật....
- Dựa trên sở đặc điểm tâm lứa tuổi của đối tượng giáo dục ta các phương
pháp giáo dục: phương pháp giáo dục trẻ trước tuổi học, phương pháp giáo dục học sinh tiểu học,
phương pháp giáo dục học sinh THPT....
- Dựa trên sở tiếp cận phương thức tác động giáo dục trực tiếp hay gián tiếp đối
tượnggiáo dục ta có: phương pháp giáo dục tác động “tay đôi”, phương pháp “bùng nổ phạm”,
phương pháp giáo dục tác động song song, phương pháp tạo dư luận…
lOMoARcPSD| 61470371
- Dựa trên cơ sở quy trình các khâu của quá trình giáo dục, ta có 3 nhóm phương pháp
giáodục sau đây:
+ Nhóm các phương pháp hình thành ý thức nhân của người được giáo dục về các
chuẩn mực xã hội quy định (Đàm thoại, Kể chuyện, Giảng giải, Nêu gương)
+ Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động hình thành hành vi và thói quen hành vi ứng
xử cho người được giáo dục phù hợp với các chuẩn mực hội (CMXH) quy định (Phương pháp
giao việc, Phương pháp tập luyện, Phương pháp rèn luyện)
+ Nhóm các phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo
dục phù hợp với các CMXH quy định (Khen thưởng, Trách phạt, Phương pháp thi đua )
Các cách phân chia phương pháp giáo dục nêu trên đều dựa trên các cách tiếp cận khác
nhau tùy thuộc vào mục đích, mục tiêu giáo dục đặt ra ngiáo dục lựa chọn, sử dụng các
phương pháp giáo dục cho phù hợp.
3. Hệ thống các phương pháp giáo dục
Theo cách phân loại phổ biến về hệ thống các phương pháp giáo dục - cách phân loại dựa
trên cơ sở lôgic của quá trình giáo dục, hệ thống các phương pháp giáo dục bao gồm:
(1) Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục -
Đàm thoại
- Kể chuyện
- Giảng giải
- Nêu gương
(2) Nhóm các PP hình thành nh vi thói quen hành vi của người được giáo dục
- Yêu cầu sư phạm
- Luyện tập
- Rèn luyện
(3) Nhóm các PP kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục
- Khen thưởng
- Trách phạt- Thi đua
Cách phân chia các phương pháp giáo dục thành 3 nhóm phương pháp nêu trên chỉ có tính
chất tương đối. Quá trình giáo dục tác động tới người được giáo dục không nhất thiết phải tuần tự
tác động tới nhận thức, cảm xúc, tình cảm rồi mới tác động tới hành vi, thói quen hành vi ứng xử
của người được giáo dục. Trong thực tiễn giáo dục, các tác động giáo dục luôn đan xen vào nhau,
hỗ trợ cho nhau và thực hiện một cách linh hoạt với những đặc điểm tâm lý lứa tuổi của người được
giáo dục khác nhau, trong những tình huống, bối cảnh giáo dục đa dạng của cuộc sống.
(1) Trình bày và phân tích nội dung của PP đàm thoại trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Đàm thoại là phương pháp trò chuyện chủ yếu giữa nhà giáo dục người được giáo dục về các
chủ đề liên quan đến các CMXH nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ nói
riêng bằng một hệ thống các câu hỏi do nhà giáo dục chuẩn bị trước.
Các loại đàm thoại: tùy vào mục tiêu của hoạt động đàm thoại, ta có các loại như sau: đàm thoại
gợi mở, đàm thoại củng cố, hệ thống hoá...
Ý nghĩa của phương pháp đàm thoại:
+ Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có cơ hội giải thích, đánh giá những sự kiện,
hiện tượng có liên quan đến các hành vi tích cực hay tiêu cực, giải thích những tình huống đạo đức,
pháp luật…trên sở đó nắm vững được những tri thức về các CMXH quy định từ đó rút ra
những kết luận bổ ích cho bản thân.
+ Thông qua đàm thoại, người được giáo dục điều kiện để khắc sâu, phát triển, hệ thống
hoá những vấn đề có liên quan đến các CMXH đã được giáo dục, từ đó hình thành, phát triển xúc
cảm, tình cảm tích cực đối với các CMXH.
lOMoARcPSD| 61470371
+ Qua đàm thoại sẽ hình thành phát triển được người được giáo dục niềm tin đối với
các CMXH và trên sở đó hình thành được ý thức cá nhân của người được giáo dục đối với các
CMXH quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp đàm thoại:
+ Công tác chuẩn bị đàm thoại:
Nhà giáo dục cần xác định chủ đề, mục tiêu, nội dung của buổi đàm thoại; xây dựng hệ
thống câu hỏi (chính – phụ) và thông báo cho người được GD chuẩn bị trước.
+ Tổ chức đàm thoại: Người tổ chức nêu lên chủ đề, mục tiêu, nội dung các câu hỏi đặt
ra của buổi đàm thoại; Sau đó tổ chức trò chuyện giữa nhà giáo dục với người được giáo dục
giữa những người được giáo dục với nhau; Các ý kiến được lật đi lật lại cho đến khi hoàn thành
mục tiêu chủ đề đàm thoại.
+ Kết thúc đàm thoại: Nhà giáo dục cần kích thích những người được giáo dục rút ra những
kết luận, bài học cần thiết đối với bản thân và những người xung quanh. Sau cùng nhà giáo dục
tổng kết đánh giá kết quả đàm thoại. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(2) Trình bày và phân tích nội dung của PP kể chuyện trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Kể chuyện phương pháp tác động rất mạnh mẽ tới cảm xúc của người nghe thông qua
cách thức kể chuyện của người kể các nhân vật, tình huống trong nội dung của cốt truyện.
vậy, kể chuyện phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giáo dục với những người
được giáo dục nhỏ tuổi.
- Định nghĩa kchuyện là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói, điệu bộ, cử
chỉ, nét mặt để thuật lại một cách sinh động một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục.
- Ý nghĩa của phương pháp kể chuyện:
+ Qua nội dung truyện kể và cách thức kể chuyện, người được giáo dục sẽ hình thành phát
triển tri thức, xúc cảm tình cảm tích cực, niềm tin đúng đắn đối với các CMXH.
+ Người được giáo dục sẽ học tập được những gương tốt và tránh được những gương phản
diện với óc phê phán nhận xét, đánh giá thông qua nội dung câu chuyện.
- Yêu cầu khi thực hiện phương pháp kể chuyện:
+ Lựa chọn truyện kể: Nhà giáo dục cần trên cơ sở mục tiêu giáo dục, với đối tượng giáo
dục cụ thể xác định chủ đề truyện kể; Lựa chọn cốt truyện được xây dựng phong phú, hấp dẫn chứa
đựng các tình huống giáo dục hướng tới mục tiêu giáo dục; Lưu ý khối lượng truyện kể phải phù
hợp về mặt thời gian, phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý người được giáo dục.
+ Người kể chuyện phải thể hiện lời nói sinh động, giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phải
phù hợp với các tình tiết, các nhân vật trong cốt truyện. Nhằm gây sự tập trung chú ý, cảm xúc
mạnh mẽ cho người được giáo dục; Lưu ý thể thể kết hợp với băng hình, các bức tranh ảnh
minh hoạ cho những tình huống nổi bật.
+ Sau khi kể chuyện : Đối với người được giáo dục tuổi nhỏ, nhà giáo dục thể yêu cầu
trẻ tập kể lại và nêu một số câu hỏi cho người được giáo dục trao đổi nhằm khắc u những bài học
về các CMXH, củng cố niềm tin đối với các CMXH phát triển năng lực ởng tượng ng tạo
của người được giáo dục.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(3) Trình bày phân tích nội dung của phương pháp giảng giải trong giáo dục. Liên hệ
thực tiễn
Giảng giải phương pháp trong đó, nhà giáo dục dùng lơì nói để giải thích, chứng minh các
CMXH đã được qui định, nhằm giúp cho người được giáo dục hiểu và nắm được ý nghĩa, nội dung,
qui tắc thực hiện các chuẩn mực này.
Ý nghĩa phương pháp giảng giải:
lOMoARcPSD| 61470371
+ Người được giáo dục nắm vững những tri thức về các CMXH một cách tự giác trên cơ sở
những luận cứ, luận chứng khoa học, dụ cụ thể, rõ ràng… thông qua cách phân tích, giảng giải
của nhà giáo dục.
+ Thông qua giảng giải giúp hình thành niềm tin ở người được giáo dục về các CMXH quy
định.
+ Qua giảng giải người được giáo dục tránh được các tình trạng: nắm các CMXH, quáng,
máy móc, hình thức dẫn đến những hành vi tương ứng không tự giác.
- Yêu cầu trong quá trình giảng giải:
+ Chuẩn bị nội dung diễn giải đầy đủ, chính xác, đáp ứng các câu hỏi: Tại sao? Nội dung
gồm? Thực hiện theo qui tắc nào?
+ Khi giảng giải phải:
Lời nói: rõ ràng, khúc triết, không lan man dài dòng.
Lập luận: chính xác, dễ hiểu, lô gíc.
Minh hoạ: Tranh ảnh, băng hình (nếu cần), giáo dục thực tế gần gũi đời thường
của người được giáo dục.
thể nên thu hút người được giáo dục tham gia vào giải thích chứng
minh… và rút ra kết luận trong quá trình giảng giải.
Nên liên hệ để người được giáo dục liên hệ với thực tế, với bản thân. Sinh viên
liên hệ để lấy ví dụ
(4) Trình bày và phân tích nội dung của PP nêu gương trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Nêu gương phương pháp dùng những tấm gương sáng của các nhân hoặc của tập thể để
kích thích những người được giáo dục học tập và làm theo.
lOMoARcPSD| 61470371
Phương pháp nêu gương có thể dùng những tấm gương tốt để người được giáo dục học tập
gương xấu để tránh những hành vi tương tự.
+ Nêu gương tốt (chính diện) nhằm giúp người được giáo dục khắc phục những khó khăn gặp
phải của bản thân, học tập làm theo gương tốt, ớng vào những hành vi tích cực (làm việc
thiện).
Ví dụ về những tấm gương tốt: học sinh học giỏi, giúp đỡ bạn, giúp đỡ những người có hoàn
cảnh khó khăn, luôn có trách nhiệm, nhiệt tình trong các hoạt động, “sinh viên nghèo vượt khó”,
“các nhà doanh nghiệp trẻ”, lao động giỏi, dũng cảm hy sinh vì nước vì dân, …
+ Nêu gương xấu (gương phản diện) nhằm giúp người được giáo dục phân tích, tránh hành vi
tương tự.
dụ gương xấu như: lười học, chơi bời lêu lổng, cờ bạc ợu chè, ăn cắp, gây gổ, ăn nói
vô lễ, chốn thuế…
Ý nghĩa phương pháp nêu gương:
+ Qua nêu gương, nhà giáo dục sẽ giúp người được giáo dục phát triển năng lực phê phán,
đánh giá được hành vi của người khác và rút ra những kết luận bổ ích.
+ Người được giáo dục biết học những gương tốt đồng thời biết tránh gương xấu trong cuộc
sống và các hoạt động thực tiễn.
+ Qua việc phân tích, đánh giá của nhà giáo dục về những tấm gương sẽ giúp người được giáo
dục hình thành niềm tin về các CMXH và mong muốn những hành vi phù hợp với các CMXH
quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp nêu gương:
+ Trên sở: mục tiêu, nội dung giáo dục cụ thể, đặc điểm tâm sinh của người được
giáo dục, nhà giáo dục lựa chọn những tấm gương sáng gương phản diện cho phù hợp. Tránh
lạm dụng những gương phản diện vì dễ dẫn tới tác dụng phản giáo dục.
+ Những tấm gương lựa chọn phải thoả mãn điều kiện sau đây:
Gần gũi với cuộc sống đời thường của người được giáo dục, tránh xa lạ, không thích
hợp.
Có tính điển hình, cụ thể. Tránh lan man, chung chung.
Phải có tính khả thi với người được giáo dục. “Tránh” quá lí tưởng nên người được
giáo dục chỉ có thể “chiêm ngưỡng” mà không bắt chước được.
+ Trong quá trình nêu gương, nhà giáo dục nên khuyến khích người được giáo dục liên hệ
thực tế, nêu những tấm gương cần học tập, phê phán tham gia tích cực vào phân tích, đánh giá
những tấm gương đó để rút ra kết luận bổ ích.
+ Nhà giáo dục cần phải tự rèn luyện, xây dựng nhân cách bản thân trở thành một tấm
gương sáng trước người được giáo dục. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(5) Trình bày phân tích nội dung của phương pháp nêu yêu cầu phạm trong giáo
dục. Liên hệ thực tiễn
Giao việc (nêu yêu cầu sư phạm) là phương pháp nhà giáo dục lôi cuốn người được giáo dục
vào các hoạt động đa dạng với những công việc nhất định, với những nghĩa vụ nhân hội
nhất định mà người được giáo dục phải hoàn thành.
- Ý nghĩa của phương pháp giao việc: Qua thực hiên công việ c, họ ạt đông đự ợc giao
người được giáo dục sẽ hình thành những nh vi, thói quen phù hợp với các yêu cầu công việc
được giao, yêu cầu của các CMXH quy định và được thể hiện những kinh nghiệm ng xử của mình
trong mối quan hệ đa dạng.
Yêu cầu thực hiện phương pháp giao việc:
+ Trước khi giao việc, nhà giáo dục cần giúp người được giáo dục ý thức đầy đvề ý nghĩa
xã hội và ý nghĩa cá nhân của công việc phải làm và kích thích họ tự giác, tích cực hoạt động thực
hiện công việc được giao.
lOMoARcPSD| 61470371
+ Nhà giáo dục đưa ra những yêu cầu cụ thể mà người được giáo dục phải hoàn thành và giúp
họ định hướng đúng đắn toàn bộ chuỗi hành động phải hoàn thành.
+ Giao việc phải tính tới hứng thú, năng khiếu, điều kiện thực tiễn tính khả thi của hoạt
động của người được giáo dục nhằm phát huy thế mạnh ở họ trong hoạt động.
+ Quá trình thực hiện hoạt động nhà giáo dục cần theo dõi, giúp đỡ tạo điều kiện (nếu cần)
để người được GD hoàn thành mọi yêu cầu của công việc được giao.
+ Cần kiểm tra đánh giá công khai kết quả hoàn thành công việc của nhân hay tập thể
người được giáo dục. Lưu ý: nhà giáo dục luôn có nhận xét cụ thể, những chỉ dẫn hỗ trợ và khuyến
khích, động viên người được giáo dục tiếp tục tham gia các hoạt động thực tiễn.
+ Có thể phát huy ý thức tự quản của tập thể học sinh bằng việc để tập thể học sinh giao việc
cho cá nhân trong các hoạt động của lớp mà không nhất thiết giáo viên giao việc. Sinh viên liên hệ
để lấy ví dụ
(6) Trình bày và phân tích nội dung của PP luyện tập trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Tập luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục thực hiện một cách đều đặn và có
kế hoạch các hoạt động nhất định, nhằm biến những hành động đó thành những thói quen ứng xử
ở người được giáo dục.
Ý nghĩa của phương pháp luyện tập:
+ Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để trải nghiệm, củng cố, phát triển
niềm tin đối với các CMXH và biến ý thức cá nhân về các CMXH thành những hành vi tương ứng
ở họ.
+ Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để lặp đi lặp lại các hành vi hoạt
động theo quy trình xác định trên cơ sở đó tạo lập thành những thói quen hành vi ứng xử tương ứng
họ, đảm bảo tính bền vững của hành vi ứng xử phù hợp với các CMXH quy định người được
giáo dục.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp luyện tập:
+ Nhà giáo dục cần giúp cho người được giáo dục nắm được quy tắc hành vi hình dung
hành vi đó cần thực hiện như thế nào? để giúp họ có thể định hướng cho việc thực hiện hành vi qua
tập luyện.
+ Trong những trường hợp cần thiết, nhà giáo dục có thể làm mẫu cho người được giáo dục về
những hành vi cần tập luyện.
+ Cần tạo điều kiện cho người được giáo dục tập luyện theo quy tắc hành vi, theo mẫu hành
vi đã giới thiệu.
+ Nhà giáo dục cần khuyến khích người được giáo dục tập luyện thường xuyên, lặp đi lặp lại
những hành vi đã tập luyện qua việc thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày, các hoạt động thực tiễn
của cuộc sống.
+ Nhà giáo dục cần tiến hành kiểm tra uốn nắn thường xuyên hành vi hoạt động của người
được giáo dục theo yêu cầu quy trình chuẩn đồng thời khuyến khích, động viên họ tự kiểm tra, tự
uốn nắn hành vi của mình trong quá trình luyện tập. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(7) Trình bày và phân tích nội dung của PP rèn luyện trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Rèn luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục được thể nghiệm ý thức, tình cảm,
hành vi của mình vcác CMXH trong những tình huống đa dạng của cuộc sống. Qua đó hình thành
củng cố được những hành vi phù hợp với các CMXH đã quy định. Ý nghĩa của phương pháp
rèn luyện:
+ Thông qua những nh huống, hoạt động mới, đa dạng của cuộc sống thực, người được giáo dục
được trải nghiệm là chính mình đưa ra những quyết định và chịu trách nhiệm với những quyết định
đó. Trên cơ sở đó nhận ra mình là ai, những cái phù hợp và chưa phù hợp từ đó điều chỉnh bản thân
đáp ứng yêu cầu của CMXH.
lOMoARcPSD| 61470371
+ Chính trong quá trình “thâm nhập” vào những tình huống mới, đa dạng của cuộc sống, người
được giáo dục phải tiến hành cuộc đấu tranh động cơ để tự xác định động cơ đúng đắn, định hướng
cho hoạt động nhằm giải quyết đúng đắn những tình huống đó. Điều đó sẽ giúp cho ý thức về các
CMXH ở người được giáo dục được khắc sâu, phát triển đảm bảo những hành vi, hoạt động tương
ứng mang tính tự giác, bền vững cao và hình thành thói quen nh vi tương ứng ở họ. + Quá trình
được trải nghiệm, lặp đi lặp lại những hành vi đó trong những tình huống khác nhau của cuộc sống
thực sẽ giúp người được giáo dục biến những hành vi đó trở thành thói quen bền vững.
Yêu cầu:
+ Tạo cơ hội cho người được giáo dục “Thâm nhập” vào những tình huống đa dạng từ đơn
giản đến phức tạp, từ dễ đến khó của cuộc sống thực.
+ Tạo hội cho người được giáo dục dựa vào kết quả của tập luyện, lặp đi lặp lại những
hành vi đó trong những tình huống khác nhau của cuộc sống thực để những hành vi đó trở thành
thói quen bền vững.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra của nhà giáo dục và tự kiểm tra của người được giáo dục
.
+ Tổ chức liên tục hệ thống các hoạt động thông qua tình huống tự nhiên của cuộc sống
thực hoặc tạo ra những tình huống thích hợp nhằm thu hút người được giáo dục tích cực tham gia.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(8) Trình bày và phân tích nội dung của PP khen thưởng trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Khen thưởng phương pháp biểu thị sự đồng tình, sự đánh giá tích cực của nhà giáo dục đối
với thái độ, hành vi ứng xử của người được giáo dục trong những nh huống nhất định nhằm đạt
được mục tiêu giáo dục đặt ra.
Ý nghĩa của khen thưởng:
+ Khen thưởng là cách thức để khẳng định hành vi của người được giáo dục là đúng đắn, phù
hợp với các CMXH đã quy định.
+ Qua việc khen thưởng sẽ giúp người được giáo dục tự khẳng định những hành vi tốt của mình,
củng cố và phát triển niềm tin đối với các CMXH có liên quan đến những hành vi tốt của mình đã
thực hiện.
+ Khen thưởng sẽ ch thích người được giáo dục duy trì, phát triển những hành vi tích cực đồng
thời tránh được những hành vi tiêu cực không phù hợp các CMXH.
vậy có thể nói: khen thưởng là phương pháp rất quan trọng và có ý nghĩa u sắc đối với người
được giáo dục, khen thưởng mang lại sức mạnh niềm tin cho người được giáo dục trong quá
trình học tập và rèn luyện bản thân.
Các hình thức khen thưởng: Để lựa chọn đưa ra quyết định về hình thức mức độ khen
thưởng phù hợp với người được giáo dục , đòi hỏi nhà giáo dục cần căn cứ vào: tính chất, mức độ,
phạm vi ảnh hưởng, động cơ, sự nỗ lực của ngưòi được giáo dục … đối với hành vi tích cực đó
nhà giáo dục có hình thức, mức độ khen thưởng phù hợp.
Ví dụ: về các mức độ khen thưởng đối với hành vi tích cực của người được giáo dục (theo
chiều tăng dần):
+ Tỏ thái độ đồng tình, ủng hộ những hành vi tốt một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Tỏ lời khen với những hành vi tốt.
+ Biểu dương những hành vi tốt.
+ Tặng giấy khen, bằng khen có kèm thưởng
Lưu ý: thưởng thể bằng nhiều hình thức như vật phẩm, tiền mặt, học bổng, chuyến du
lịch…
Yêu cầu khi thực hiện khen thưởng:
+ Đảm bảo khen thưởng trên cơ sở hành vi thực tế đạt được của người được giáo dục.
lOMoARcPSD| 61470371
VD: Nhà giáo dục cần xem xét hành vi đó thể hiện phù hợp với các CMXH hay không?
Có động cơ đúng đắn không? Có tính phổ biến, tính thường xuyên không?
+ Đảm bảo khen thưởng phải khách quan, công bằng không thiên vị đánh giá cao, thành
kiến mà đánh giá thấp.
+ Đảm bảo khen thưởng phải kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, tránh khen thưởng ở những nơi không
thích hợp, tuỳ tiện quá sớm hay quá muộn.
+ Đảm bảo kết hợp khen thưởng thường xuyên với khen thưởng quá trình.
+ Đảm bảo khen thưởng phải gây được dư luân tập thể đồng tình, ủng hộ.
Vì khi dư luận tập thể đồng tình, ủng hộ sẽ làm tăng thêm giá trị, ý nghĩa của hành vi tốt, kích
thích người được GD tiếp tục phát triển hành vi tốt kích thích, định hướng cho những người
khác noi theo những hành vi tốt.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(9) Trình bày phân tích nội dung của phương pháp trách phạt trong giáo dục. Liên hệ
thực tiễn
Trách phạt phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự phản đối, sự phê phán những hành
vi sai trái của người được giáo dục so với các CMXH quy định. Ý nghĩa của việc trách phạt:
+ Trách phạt sẽ buộc ngưòi mắc lỗi trong ứng xử phải ngừng ngay hành vi sai trái một cách tự
giác, nâng cao ý thức tự kìm chế trong tương lai không tái phạm nữatrái lại những hành vi
đúng đắn, tích cực phù hợp với các CMXH quy định.
+ Tạo cơ hội nhắc nhở những người khác không vi phạm các CMXH, không rơi vào những hành
vi sai trái như người bị trách phạt. Các hình thức trách phạt :
Tùy vào từng trường hợp nhà giáo dụcthể đưa ra quyết định hình thức, mức độ trách phạt
phù hợp theo mức độ tăng dần như sau: Nhắc nhở (khuyên bảo), chê trách, phê bình, cảnh cáo,
buộc thôi học, đuổi học.
Khi đưa ra quyết định lựa chọn hình thức, mức độ trách phạt đòi hỏi nhà giáo dục cần căn cứ
vào các yếu tố sau đây:
+ Loại hình của hành vi sai lệch là học tập, lao động hay ứng xử ? sẽ có cách trách phạt khác nhau.
+ Tính chất của hành vi sai lệch (Nghiêm trọng hay không nghiêm trọng? thường xuyên hay không
thường xuyên? cố tình hay vô ý?).
+ Phạm vi và mức độ tai hại do hành vi sai lệch gây ra (Tai hại nhiều hay ít?, ở diện rộng hay diện
hẹp?)
Yêu cầu khi trách phạt:
+ Đảm bảo trách phạt phải khách quan: Nhà giáo dục phải thận trọng xem xét đánh giá những
hành vi sai lệch của người được giáo dục, cũng như đưa ra những quyết định về mức độ, hình thức
trách phạt sao cho đúng đắn, chính xác và thoả đáng. Tnh tình trạng đánh giá sai, không phù hợp
với thực tế (Quá cao hay quá thấp)
+ Đảm bảo trách phạt phải công bằng: Nhà giáo dục khi đưa ra quyết định trách phạt cần phải
công bằng với mọi người, tránh thiên vị mà trừng phạt nhẹ, thành kiến mà trừng phạt nặng.
+ Đảm bảo khi trách phạt phải làm cho người được giáo dục thấy rõ được sai lầm của mình
và chấp nhận hình thức, mức độ trách phạt đối với mình “Tâm phục, khẩu phục”. Cụ thể: Khi trách
phạt phải làm cho người được giáo dục thấy được do bị trách phạt, tính tất yếu của sự trách
phạt; Người được giáo dục thể hiện thái độ ân hận về lỗi lầm của mình chấp nhận tính hợp
của hình thức mức độ trách phạt. Có như vậy ngưòi được giáo dục mới quyết tâm sửa chữa sai
lầm, không tái phạm.
+ Đảm bảo tôn trọng nhân phẩm của người bị trách phạt: Cụ thể: Khi trách phạt nhà
giáo dục không được làm nhục, không xúc phạm tới thể xác người bị trách phạt; Không dùng trách
phạt để trả thù; Phải chỉ ra hướng để giúp cho người bị trách phạt sửa chữa sai lầm một cách tích
cực và tự tin; Đồng thời luôn tỏ thái độ chân thành, lòng tin tưởng ở sự tiến bộ của họ.
lOMoARcPSD| 61470371
+ Đảm bảo tính cá biệt trong trách phạt: Khỉ trách phạt, nhà giáo dục cần quan tâm tới
đặc điểm tâm sinh lý (xu hướng, năng lực, vốn kinh nghiệm, tính ch, điều kiện hoàn cảnh…) của
từng cá nhân người mắc lỗi trong từng bối cảnh cụ thể để có cách thức giáo dục phù hợp.
+ Đảm bảo trách phạt của nhà giáo dục phải tạo được luận tập thể đồng tình với sự
trách phạt. Sự đồng tình của luận tập thvới việc trách phạt của nhà giáo dục sẽ tạo thêm sức
mạnh hỗ trợ người bị trách phạt quyết tâm nhanh chóng sửa chữa sai lầm đồng thời ngăn chặn
những người khác không vi phạm sai lầm. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(10) Trình bày và phân tích nội dung của PP thi đua trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Thi đua phương pháp thông qua các phong trào hoạt động tập thể nhằm kích thích khuynh
hướng tự khẳng định người được giáo dục, thúc đẩy họ đua tài gắng sức, hăng hái nỗ lực vươn
lên ở vị trí hàng đầu lôi cuốn những người khác cùng tiến lên giành thành tích nhân hay tập
thể cao nhất.
Phong trào thi đua có thể tổ chức trong các hoạt động học tập, lao động, vệ sinh trường lớp, văn
hóa văn nghệ, thể dục, thể thao…của tập thể các lớp, các câu lạc bộ nhà trường…VD: “Người
đạt điểm cao nhất trong tháng”, “Người có nhiều đóng góp y dựng bài nhất trong tháng”…; “Lớp
học xanh, sạch, đẹp”….
Ý nghĩa của phương pháp thi đua:
+ Thi đua kích thích nhu cầu khẳng định bản thân của người được giáo dục. Những người được
giáo dục sẽ nỗ lực hết mình tham gia vào quá trình hoạt động thi đua để dành thắng lợi cao nhất
trên cơ sở đó đạt được các mục tiêu giáo dục đặt ra.
+ Thi đua tạo môi trường hoạt động tích cực và hiệu quả của những người giáo dục tham gia
trên cơ sở đó mục tiêu giáo dục đạt được hiệu quả cao.
+ Trong hoạt động thi đua, với sự nỗ lực hết mình của người tham gia, người được giáo dục
sẽ tự nhận thức, đánh giá được bản thân mình trên cở sđó sự điều chỉnh kịp thời đối với bản
thân.
- Yêu cầu khi thực hiện phương pháp thi đua:
+ Mục tiêu thi đua phải được xác định: cụ thể, rõ ràng và thiết thực
+ Các hoạt động thi đua cần phải động viên được tất cả mọi người được giáo dục hăng hái
tham gia với động cơ đúng đắn.
+ Các hình thức hoạt động thi đua phải thể hiện sự sáng tạo, mới mẻ, hấp dẫn người được giáo
dục tham gia.
+ Thi đua cần có phương thức đánh giá kết quả thi đua tường minh, công khai kích thích sự
tham gia hết mình của các thành viên và cần có so sánh công khai kết quả thi đua mà họ đạt được.
+ Tiến hành tổng kết các hoạt động thi đua đều đặn để giúp người được giáo dục điều chỉnh
kịp thời hoạt động của bản thân trên cơ đó đạt hiệu quả cao nhất của hoạt động thi đua.
+ Nhà giáo dục cần biểu dương khen thưởng công bằng, thích đáng các cá nhân và tập thể đạt
thành tích cao hoặc có nhiều nỗ lực trong thi đua. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
Câu 9: phương pháp giáo dục gì? Đặc điểm của pp giáo dục? cách phân loại các phương
pháp giáo dục. những yêu cầu khi lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục
Trình bày khái niệm và đặc điểm của phương pháp giáo dục
Phương pháp một thành tố quan trọng của quá trình giáo dục. Thực tiễn hoạt động giáo
dục cho thấy: trong cùng một hoạt động giáo dục với mục tiêu, chủ thể, đối tượng, điều kiện, phương
tiện thực hiện hoạt động là như nhau nhưng kết quả của hoạt động mang lại khác nhau.
Có thể lí giải sự khác nhau này chính là do phương pháp tiến hành hoạt động đó có sự khác nhau.
Phương pháp là từ gốc tiếng Hy Lạp “Metodos” có nghĩa là con đường theo dõi đối tượng.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61470371
ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN GIÁO DỤC HỌC
Câu 1: Trình bày, phân tích các khái niệm cơ bản của GDH.
1. Kể tên các khái niệm cơ bản của GDH.
- Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng): Là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục
trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
- Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ,
tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng
đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu.
- Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho người học
lĩnh hội những tri thức khoa học, phát triển năng lực tư duy và năng lực hoạt động sáng tạo, trên
cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân cách của người học theo mục đích giáo dục.
2. Phân biệt khái niệm dạy học và giáo dục.
Từ nội hàm của các khái niệm trên, có thể thấy: Quá trình giáo dục (nghĩa rộng) bao gồm
hai quá trình bộ phận là quá trình dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Điểm chung giữa
các quá trình này là đều hướng tới mục tiêu hình thành, phát triển nhân cách cho người học (người
được giáo dục). Đồng thời, trong các quá trình đó, vai trò của nhà giáo dục (người dạy) đều là chủ đạo.
Tuy nhiên, giữa hai quá trình này có những điểm khác biệt được thể hiện cụ thể qua bảng so sánh như sau: Tiêu chí Giáo dục DẠY HỌC
Chức năng trội Giúp học sinh hình thành, phát triển Giúp học sinh lĩnh hội tri thức, phát
các phẩm chất đạo đức
triển năng lực trí tuệ
Lực lượng tiến - Chủ yếu được tiến hành dưới vai trò Chủ yếu được tiến hành dưới vai trò hành
của giáo viên chủ nhiệm lớp phối kết chủ đạo của các giáo viên bộ môn
hợp với các lực lượng giáo dục khác
(trong nhà trường và ngoài nhà trường)
Cách thức tiến Được thực hiện thông qua việc tổ Được thực hiện chủ yếu thông qua các hành
chức các hoạt động giáo dục giờ học trên lớp Thời gian
Đòi hỏi quá trình lâu dài, thường Có thể thực hiện trong thời gian tương xuyên, liên tục đối ngắn
Như vậy, điểm khác biệt giữa QTDH và QTGD là:
Thứ nhất, về chức năng trội, quá trình giáo dục có ưu thế là hình thành và phát triển các
phẩm chất đạo đức cho học sinh (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực…); còn quá trình dạy học
lại có ưu thế khi hình thành tri thức và phát triển các năng lực của người học. Các năng lực cốt lõi
như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo được hình thành chủ yếu trong quá trình dạy học... Thứ hai, về lực lượng tiến hành:...
Thứ ba, về cách thức tổ chức...
3. Mối quan hệ giữa các khái niệm:
Các khái niệm dạy học và giáo dục tuy có sự khác nhau tương đối về chức năng trội, về lực
lượng tiến hành cũng như cách thức thực hiện, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động
biện chứng với nhau. Kết quả của quá trình dạy học là cơ sở để thực hiện tốt quá trình giáo dục và lOMoAR cPSD| 61470371
ngược lại, việc thực hiện chưa tốt quá trình giáo dục cũng sẽ dẫn đến những hạn chế nhất định và
kém hiệu quả đối với quá trình dạy học. 4. KLSP
- Do dạy học và giáo dục đều có những ưu thế riêng trong sự hình thành, phát triển nhan cách
học sinh, nhà giáo dục cần ý thức được vai trò quan trọng của cả quá trình giáo dục và quá trình
dạy học khi tác động đến học sinh.
- Để giáo dục học sinh toàn diện thì bản thân giáo viên không chỉ trau dồi chuyên môn của bản
thân mà còn phải bồi dưỡng và rèn luyện các phẩm chất đạo đức của nhà giáo mẫu mực.
- Khi tổ chức các hoạt động giáo dục, cần lưu ý đến việc trang bị tri thức, phát triển trí tuệ cho
học sinh. Không những thế, còn phải thông qua hoạt động đó, bồi dưỡng cho học sinh các phẩm
chất cần có theo mục tiêu, yêu cầu của giáo dục đề ra.
- Nhà giáo dục cần không ngừng mở rộng kiến thức, nâng cao năng lực sư phạm để giáo dục học
sinh toàn vẹn và hiệu quả.
- Nhà giáo dục cần thay đổi nội dung phù hợp, hấp dẫn để kích thích hoạt động học của HS diễn ra sôi nổi, tích cực.
- Để đạt được hiệu quả giáo dục, nhà giáo dục cần phải tổ chức tốt hoạt động dạy học, áp dụng
khao học kĩ thuật trong giảng dạy.
- Nhà giáo dục cần lưu ý khi tổ chức các hoạt động cần hướng mục tiêu cụ thể tới đối tượng học
sinh, tổ chức có hiệu quả.
Câu 2: Phân tích các chức năng xã hội của giáo dục?
Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng): Là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong
các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, giáo dục tác động vào từng cá nhân để trở thành những
nhân cách theo yêu cầu phát triển của xã hội. Giáo dục tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đến các quá trình xã hội mà con người là chủ thể. Những tác động đó, xét dưới góc độ xã hội
học, được gọi là những chức năng xã hội của giáo dục. Giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã
thực hiện 3 chức năng xã hội của mình: Chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- xã hội
và chức năng tư tưởng- văn hóa.
1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao hơn,
thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển những năng lực
chung và năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất lao động cao hơn, thúc
đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội hiện đại đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực: có trình độ học
vấn cao, có tay nghề vững vàng, năng động, sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những
yêu cầu của tiến trình phát triển xã hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một trong giải pháp quan
trọng để phát triển năng lực hành động cho người học trong các nhà trường, đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm: lOMoAR cPSD| 61470371 -
Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội. -
Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. -
Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực
hành động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
2. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến các bộ phận, các thành phần xã
hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ
phận, thành phần đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, củng
cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội, nhằm duy trì, củng cố thể chế
chính trị- xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, làm cho các
giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội.. ngày càng xích lại gần nhau.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền lực “của dân,
do dân, vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục là sự
nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Giáo dục phục vụ cho mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm: -
Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước. -
Giúp học sinh hiểu, tin tưởng và thực hiện theo đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước
3. Chức năng tư tưởng – văn hóa
Với chức năng tư tưởng- văn hóa, giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tư tưởng chi
phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ
thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thấm đến từng con người, giáo dục hình
thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng được bảo tồn và
phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm
- Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân,nhằm tạo
cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời
- Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng. lOMoAR cPSD| 61470371
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng quan
trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn hóa.
Câu 3: trình bày tính chất của giáo dục
Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng): Là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch,
có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ
quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
(1) Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục
Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã hội,
giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn tại,
là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người, là con đường đặc trưng
cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
(2) Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội)
Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội này sang
hình thái kinh tế – xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi theo.
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội và đáp
ứng các yêu cầu kinh tế – xã hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi trong quá
trình phát triển của lịch sử loài người, không có một nền giáo dục rập khuôn cho mọi hình thái
kinh tế – xã hội, cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế – xã hội cũng như cho mọi quốc gia,
chính vì vậy giáo dục mang tính lịch sử. Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau
về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn
được hoàn thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
(3) Tính giai cấp của giáo dục
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định – giai cấp thống trị xã hội.
Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của mình.
Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp – đối với
giai cấp bị bóc lột, bị thống trị.
Giáo dục làm phương tiện đánh tranh, lật đổ giai cấp thống trị
Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục và nó chi phối,
định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
Theo V.I.Lênin: Trong xã hội có giai cấp, không thể có thêm một nền giáo dục, một nhà
trường nào lại đứng trên hay đứng ngoài giai cấp.
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là hướng tới xoá bỏ áp bức bóc lột, từ đó hướng tới
sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt
tích cực cơ bản vẫn có những mặt trái khó tránh được, nhà nước ta đã cố gắng đưa ra những chính
sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
- Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
- Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào tạo lên
cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v.v. . Tiến hành xoá
mù chữ, phổ cập giáo dục.
- Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo cơ hội học
tập cho mọi tầng lớp nhân dân. lOMoAR cPSD| 61470371
Bên cạnh những tính chất trên, giáo dục còn có những tính chất như: Tính đại chúng, Tính
nhân văn, Tính dân tộc, Tính thời đại
Câu 4: Vai trò của giáo dục với sự phát triển, hình thành nhân cách? Trả lời
(1) Khái niệm con người, cá nhân và nhân cách
- Con người là một thực thể sinh vật- xã hội mang bản chất xã hội, là chủ thể của hoạt động
nhận thức và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và giao tiếp.
- Cá nhân là một thực thể sinh vật- xã hội- văn hóa với các đặc điểm về sinh lý, tâm lý và xã
hội trong sự liên hệ thống nhất với các chức năng xã hôi chung của loài người.
- Nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với sự trưởng thành về phẩm
chất và năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội của mình, được xã hội đánh giá và thừa nhận.
(2) Khái niệm sự phát triển cá nhân
Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định trình
độ phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự phát triển nhân cách cá nhân được biểu hiện qua những dấu hiệu sau:
Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp,
sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của cơ thể.
Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá nhân:
trình độ nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm, tình cảm, tâm tư,
nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, v.v...
Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ với
những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.
(3) Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
- Yếu tố Di truyền – Bẩm sinh - Yếu tố Môi trường
- Yếu tố hoạt động cá nhân - Yếu tố giáo dục
(4) Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
(5) Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, bởi vì nó được
thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
(6) Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện: lOMoAR cPSD| 61470371
- Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn.
- Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà các yếu
tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát.
- Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc không
phù hợp vối yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan trọng của giáo dục lại đối
với trẻ em hư hoặc người phạm pháp.
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng do bệnh
tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có phương pháp giáo dục,
rèn luyện đặc biệt cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện khoa học có thể giúp cho người khuyết
tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác nhằm bù
trừ những chức năng bị khiếm khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng.
- Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích ứng với
các yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo
một gia tốc phù hợp mã di truyền và môi trường không thể thực hiện được.
o Chú ý: Liên hệ để xây dựng ví dụ minh họa cho từng nội dung
(7) Kết luận sư phạm
- Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học - Tổ chức quá
trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
+ Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
+ Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
+ Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
+ Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
+ Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động cá nhân của học sinh
nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
Câu 5: Phân tích đặc điểm của quá trình giáo dục? lOMoAR cPSD| 61470371
Giáo dục (theo nghĩa rộng): Là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội
dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan
giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Đặc điểm của quá trình giáo dục
(1) Giáo dục là một quá trình có tính mục đích: Mọi tác động giáo dục đều có mục đích nhất định.
Mục đích giáo dục xuất phát từ những yêu cầu xã hội về phẩm chất nhân các con người, bị
chi phối bởi trình độ kinh tế xã hội.
- Giáo dục là một quá trình có tính lâu dài: Quá trình giáo dục nhằm hình thành những phẩm
chất, những nhân cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính
chất lâu dài của quá trình giáo dục đựoc xem xét ở các góc độ sau:
+ Quá trình giáo dục được thực hiện trong suốt cả cuộc đời con người từ khi sinh ra cho đến
khi không còn sống nữa (Giáo dục suốt đời).
+ Vệc hình thành một phẩm chất nhân cách cũng cần có thời gian lâu dài. Việc hình thành
vả trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài
đi từ nhận thức đến niềm tin, thái độ đến hành vi thói quen, công việc đó không phải một sớm một chiều mà có được.
+Quá trình hình thành một phẩm chất nhân cách đòi hỏi một thời gian lâu dài, việc sửa đổi,
cải tạo một nét nhân cách lài đòi hỏi lâu dài hơn.
+ Những phẩm chất mới của nhân cách chỉ có được và trở nên vững chắc khi người được
giáo dục tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện và thể nghiệm, thể hịên, đấu tranh bản thân
trong cuộc sống thực tế để trở thành kinh nghiệm sống của chính mình càng đòi hỏi một thời gian lâu dài.
+ Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành nhận thức mới, niềm tin
...thường khó nhận thấy ngay và có thể kết quả đó lại bị biến đổi hoặc bị mất đi. Do đó công tác
giáo dục phải đựoc tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn định, lâu dài đồng thời trong
quá trình giáo dục phải phát huy cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người
được giáo dục thì mới đạt được hiệu quả cả quá trùnh giáo dục.
Kết luận sư phạm: Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục không được nôn nóng, vội vàng,
đốt cháy giai đoạn. Nhà giáo dục cần phải có đức tính kiên trì, bền bỉ, có tính tự kiềm chế cao.
(2) Giáo dục là một quá trình có tính phức tạp và chịu tác động bởi nhiều nhân tố: Tính
phức tạp được thể thiện ở chỗ:
+ Tính phức tạp của quá trình giáo dục trước hết nằm ở đối tượng của nó. Đối tượng của
quá trình giáo dục là con người, thực chất là tâm hồn con người, cái người khác không trực tiếp
nhìn thấy, còn đối tượng của các quá trình hoạt động khác có thể nhìn thấy được một cách trực
quan, có thể tri giác trực tiếp. Quá trình giáo dục tạo ra sự chuyển biến trong tâm hồn mỗi con người
cũng không thể đánh giá ngay được, khó định lượng được một cách rõ ràng. Mỗi cá nhân là một
thế giới đầy bí ẩn và hết sứ phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian và điều kiện mới có thể nhận thức được.
+ Thứ hai kết quả quá trình giáo dục chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan, bên trong, bên ngoài khác nhau. Vì vậy trong quá trình tiến hành giáo dục nhà giáo dục cần
quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố khách quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài của quá trình
giáo dục. Đó là các điều kịên kinh tế chính trị, tôn giáo, phong tục tập quán, văn hoá...đặc điểm tâm
sinh lý, hoàn cảnh sống, điều kiện gia đình...của đối tượng. Muốn giáo dục có hiệu quả nhà giáo
dục phải hiểu đối tượng, nắm bắt được đối tượng.
+ Thứ ba, kết quả quá trình giáo dục không nhìn thấy ngay được, không đánh giá ngay được,
là những cái khó định tính, định lượng một cách chính xác. Kết quả giáo dục phải có thời gian, có
điều kiện , hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài
. Vì vậy việc đánh giá con người, đánh giá kết quả quá lOMoAR cPSD| 61470371
trình giá dục phải hết sức thận trọng, đòi hỏi phải có phương pháp phù hơp, phải có thời gian và
hoàn. Kết quả của hoạt động giáo dục nhiều khi không tỷ lệ thuận với cường độ lao động, với sự
đầu tư... tất cả những điều đó nói lên tính khoá khăn, phức tạp của quá trình giáo dục.
(3) Quá trình giáo dục bao giờ cũng mang tính cụ thể:
Quá trình giáo dục đựơc thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mối cá nhân.
Với tư cách là người được giáo dục, tiếp nhận các tác động giáo dục theo những quy luật chung
mang tính khái quát, đồng thời giáo dục lại phải chú ý tới những đặc điểm riêng biệt, cụ thể của đối
tượng thì mới có hiệu quả do tránh được những tác động một các cứng nhắc, công thức giáo điều.
Tính cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện:
+ Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với nhữung tình huống giáo
dục cụ thể, riêng biệt.
+ Mỗi học sinh đề là một cá nhân có tính độc lập tương đối của nó về trình độ được giáo
dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, về tình cảm, thói quen…nên quá trình tác động giáo dục phải
ohù hợp với cái riêng, cụ thể của họ, giáo dục phải đi sát, phù hợp với đối tượng chính là thể hiện
sự nhận thức đúng đắn về đặc điểm này của quá trình giáo dục.
+ Công tác giáo dục phải tính đến đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể: Đặc điểm tâm lý
lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biết phức tạp, éo le cảu từng tình huống cụ thể để
nhà giáo dục có thể tìm thấy hoặc dự đoán những nguyên nhân của các biểu hiện ( thái độ, hành vi,
thói quen ) từ đó mới có biện pháp phù hợp.
+ Quá trình giáo dục luôn phải giả quyết những mâu thuẫn, xung đột cụ thể giữa yêu cầu,
nhiệm vụ giáo dục và phẩm chất, năng lực tâm lý của người được giáo dục . Mâu thuẫn trong quá
trình giáo dục thường nảy khi học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ giáo dục mới nhưng trình độ
giáo dục hiện có lại chưa đủ.
+ Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, kỹ năng
thể hiện các yêu cầu, nội dung giáo dục, biến những yêu cầu từ bên ngoài thành nét tính cách riêng,
độc đáo của mỗi con người. Đó cũng chính là kết quả phải đạt được của quá trình giáo dục.
+ Quá trình giáo dục được diên ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể.
+ Kết quả quá trình giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng loại dối tượng giáo dục, đối
với từng mặt, từng yêu cầu giáo dục hoặc tổng quát trọn vẹn của một quá trình giáo dục cho những đối tượng cụ thể.
Vì giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể tức là giáo dục phải phù hợp với từng cá nhân cụ thể,
từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới có hiệu quả nên trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục phải
thực sự thương yêu học sinh, quan tâm sâu sát học sinh để hiểu tường tận về các em, có vậy mới có
thể có cách tác động phù hợp với từng đối tượng.
(4) Quá trình giáo dục thống nhất biến chứng với quá trình dạy học -
Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát triển
nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. -
Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu
quảnội đung học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen. . . hai hoạt
động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ
dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình thành và phát triển,
ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học là quá trình
điều khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát. -
Học sinh là khách thể (đối tượng) của quá trình giáo dục, là chủ thể của quá trình
tựugiáo dục: Trong quá trình giáo dục học sinh luôn nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo
dục các lực lượng giáo dục khác, khi đó học sinh là khách thể của quá trình giáo dục. Nhưng khi
tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học không hoàn toàn thụ động mà là một thực thể xã hội,
có ý thức mang tính tích cực, học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình giáo dục khi nó tự giác, lOMoAR cPSD| 61470371
chủ động và tích cực thực hiện các yêu cầu của giáo dục từ bên ngoài. Hiệu quả quá trình giáo dục
phụ thuộc rất lớn vào vào tính chủ thể này củ người được giáo dục.
Tóm lại: Trên đây là những đặc điểm cơ bản của quá trình giáo dục. Để thực hiện tốt quá
trình giáo dục, các nhà giáo dục cần nghiên cứu kỹ và nắm vững được những đặc điểm nêu trên của quá trình giáo dục.
Câu 6: phân tích bản chất của quá trình giáo dục?
Giáo dục (theo nghĩa hẹp): là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ, tình
cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong
xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu
Bản chất của quá trình giáo dục
a. Quá trình giáo dục – quá trình xã hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu cầu khách
quan thành yêu cầu chủ quan của cá nhân -
Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành những thành
viên xã hội. Những thành viên này phải thỏa mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các
yêu cầu xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội làm
cho nó tồn tại và phát triển. Những nét bản chất của cá nhân con người chính là do các mối quan hệ xã hội hợp thành. -
Quá trình giáo dục là quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được các quan hệ xã hội
và các giá trị của nó, biết vận dụng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa – xã hội,
đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình, ứng xử … nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và yêu cầu của xã hội.
b. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối tượng giáo dục -
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người – bản chất xã hội trong mỗi cá
nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã
hội. Triết học mác – xít đã khẳng định: Bản chất xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia
vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hóa (văn hóa
vật chất và tinh thần). -
Quá trình giáo dục vừa mang tính chất của hoạt động, vừa mang tính chất của giao lưu. Giáo
dụclà một quá trình tác động qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục,
giữa các đối tượng giáo dục với nhau và với các lực lượng, các quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.
=> Như vậy, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động
và giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo nhằm
chuyển hóa những yêu cầu của các chuẩn mực của xã hội quy định thành hành vi và thói quen hành
vi tương ứng ở họ trên cơ đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
* Kết luận sư phạm -
Làm cho học sinh hiểu được nội dung các chuẩn mực, ý nghĩa xã hội của việc thực hiện
đúng đắn các chuẩn mực đó, hình thành xúc cảm tích cực niềm tin đối chuẩn mực. lOMoAR cPSD| 61470371 -
Giúp họ tích quỹ được kinh nghiệm thực tiễn tích cực, có nhu cầu và thói quen hành động
đúng trong các quan hệ đó. -
Xây dựng cho họ ý chí và năng lực xóa bỏ tàn dư của những quan hệ cũ, chối bỏ, chống lại quanhệ xấu.
Câu 7: Phân tích các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp
Phân tích logic của quá trình giáo dục
1. Khái niệm logic của Quá trình giáo dục
Lôgic của quá trình giáo dục là trình tự vận động hợp quy luật của quá trình giáo dục, nhằm
đảm bảo cho người được giáo dục đi từ trình độ tri thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, thói quen
hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội tương ứng từ lúc bắt đầu tham gia một hoạt động giáo
dục nào đó, đến trình độ trình độ tri thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội, tương ứng với lúc kết thúc hoạt động giáo dục.
2. Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất kì một phẩm chất
nhân cách nào đó đều phải tác động vào tất cả các mặt của đời sống tâm lý cá nhân: nhận thức, tình
cảm, kĩ năng hành động ý chí, … Từ lý luận và thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy quá trình giáo dục
diễn ra theo các khâu cơ bản sau:
a. Tổ chức điều khiển người được GD nắm vững những tri thức về các chuẩn mực xã hội đã quy định
Các chuẩn mực xã hội là thước đo giá trị hành vi của con người được xã hội thừa nhận, có
tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của cá nhân, của nhóm xã hội trong những điều kiện nhất
định. Chuẩn mực xã hội cũng chính là những điều kiện mà xã hội kiểm tra hành vi của cá nhân và
cá nhân lại có thể sử dụng nó để kiểm tra hành vi của mình trên cơ sở đó hướng tới sự phát triển xã hội.
Trong xã hội tồn tại rất nhiều hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội: giá trị chuẩn mực về pháp
luật, chuẩn mực về đạo đức, chuẩn mực về truyền thống, chuẩn mực về phong tục tập quán, chuẩn
mực về thẩm mỹ…Trong đó, nhiều loại chuẩn mực về đạo đức, pháp luật đã được lựa chọn và đưa
vào nội dung quá trình giáo dục.
Nhận thức là cơ sở, là kim chỉ nam cho sự hình thành và điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành
vi của mỗi cá nhân. Muốn người được giáo dục tự giác tích cực thực hiện theo các chuẩn mực xã
hội đã quy định. Đòi hỏi nhà giáo dục cần phải tác động tới nhận thức của người được giáo dục,
giúp cho người được giáo dục nắm vững được những tri thức về các chuẩn mực xã hội bao gồm:
- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực xã hội quy định.
- Nội dung của các chuẩn mực (bao gồm các khái niệm tương ứng) -
Cách thức thực hiện theo các yêu cầu chuẩn mực đó.
Tuy nhiên, kết quả của quá trình nhận thức đó phụ thuộc vào trình độ văn hóa, kinh khái niệm
về đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về quy tắc sống, chuẩn mực xã hội, những giá trị văn hóa sẽ được hình thành. lOMoAR cPSD| 61470371
b. Tổ chức điều kiển người được giáo dục hình thành niềm tin và tình cảm tích cực với các
chuẩn mực xã hội quy định
Chính trong quá trình hình thành, phát triển tri thức về các chuẩn mực xã hội cho người được
giáo dục thì thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực đối với các chuẩn mực xã hội ở họ dần được hình thành.
Trong quá trình giáo dục, niềm tin đối với các chuẩn mực xã hội được thể hiện ở người được
giáo dục theo các mức độ tăng dần như sau:
- Người được giáo dục nắm được nghiệm sống, sự trải nghiệm của mỗi người, là sản phẩmcủa
quá trình học tập và tự tu dưỡng. Đối với học sinh phổ thông, giáo dục ý thức cá nhân là khâu cực
kì quan trọng, quá trình này được thực hiện thông qua quá trình học tập và các hoạt động rèn luyện
trong và ngoài nhà trường. Qua đó những những tri thức về các chuẩn mực xã hội
- Tin về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn đối với tính chân lý đúng đắn của các chuẩn mựcxã hội
- Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩn mực xã hội.
- Bước đầu có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Hài lòng về hành vi của mình khi đã hoàn thành phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi của người khác có mâu thuẫn
vớinhững chuẩn mực xã hội.
Chính niềm tin đó cùng với những tri thức tương ứng thu lượm được sẽ tạo nên ở người được
giáo dục ý thức đúng đắn. Trong quá trình hình thành ý thức nói chung, niềm tin nói riêng cho
người được giáo dục đã làm nảy nở những xúc cảm, tình cảm tốt đẹp đối với các chuẩn mực xã hội.
Những xúc cảm, tình cảm tích cực đó như là những “chất men” kích thích người được giáo dục
chuyển hoá ý thức cá nhân thành hành vi thói quen tương ứng.
Kinh nghiệm thực tiễn giáo dục cho thấy:
- Nếu ý thức về các chuẩn mực xã hội của người được giáo dục bị hạn chế thì tình cảmtương
ứng cũng bị hạn chế, điều đó dẫn tới hành vi tương ứng mang tính chất hình thức, thậm chí không
hình thành hoặc rơi vào tình trạng sai lệch.
- Nếu người được giáo dục có nhận thức đúng về các chuẩn mực xã hội mà không có tìnhcảm
tương ứng thì hành vi tương ứng sẽ khô khan cứng nhắc và thậm chí không hình thành hay sai lệch:
“Yêu nên tốt, ghét nên xấu”
- Nếu người được giáo dục nắm các chuẩn mực xã hội một cách không tự giác sẽ dẫn đến
tìnhtrạng nói và làm không đi đôi với nhau và kết quả giáo dục là hình thành bộ mặt nhân cách giả tạo.
Đối với các trường phổ thông thì công tác giáo dục thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực cho
học sinh đối với việc học tập, các mối quan hệ gia đình, bè bạn, xã hội, đối với tự nhiên và môi
trường xung quanh là điều có ý nghĩa rất quan trọng. Giáo dục xây dựng niềm tin cho các em vào
chân lí, lẽ phải, giáo dục tình cảm yêu mến, kính trọng thầy cô giáo, cha mẹ; thân ái với bạn bè,…
và đồng thời chú ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện thái độ lệch lạc, thiếu trong sáng
làm ảnh hưởng tới hiệu quả quá trình giáo dục.
c. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành hành vi và thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội đã quy định
Nhân cách của mỗi ngưòi được thể hiện bằng hành vi và thói quen hành vi của họ chứ không
chỉ dừng ở sự hiểu biết của họ. Hành vi là biểu hiện cụ thể nhất của bộ mặt tâm lí, đạo đức của con người.
Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành ở người được giáo dục phẩm chất nhân cách
của người công dân, người lao động đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó, quá trình giáo dục quan trọng
nhất là phải tổ chức, điều khiển ngưòi được giáo dục tham gia vào những mối quan hệ hoạt động
và giao lưu để họ tự rèn luyện nhằm hình thành những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội
và lặp đi lặp lại những hành vi đó thành thói quen tương ứng. Bởi hành vi văn hóa khi đã trở thành lOMoAR cPSD| 61470371
thói quen sẽ mang tính bền vững và tự động hóa trong cách ứng xử của mọi tình huống cuộc sống
hàng ngày của người được giáo dục.
Hành vi và thói quen hành vi của mỗi người được hình thành trong quá trình hoạt động và
được rèn luyện trong các tình huống cụ thể, đa dạng của cuộc sống. Giáo dục hành vi, thói quen
hành vi có văn hóa là kết quả của cả một quá trình học tập tu dưỡng và rèn luyện lâu dài của người được giáo dục.
Chính vì vậy, quá trình giáo dục phải tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú dưới nhiều
hình thức khác nhau và ngày càng phức tạp đồng thời chú ý bồi dưỡng cho người được giáo dục ý
thức tự rèn luyện, năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên trên cơ sở đó các thói quen hành
vi đạo đức của người được giáo dục mới được hình thành.
Lưu ý: những hành vi hình thành ở người được giáo dục phải thoả mãn các tiêu chí sau đây: •
Hành vi đó có phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định hay không? •
Hành vi đó có được thể hiện ở mọi nơi mọi lúc hay không? •
Hành vi có được duy trì bền vững theo thời gian hay không? •
Hành vi đó có động cơ đúng hay sai? Có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế nào?
Tóm lại: Các khâu trên đây của quá trình giáo dục tác động đồng bộ tới nhận thức, tình cảm,
hành vi thói quen của người được giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau thậm
trí là thâm nhập vào nhau: nhận thức là cơ sở là điều kiện cần cho việc hình thành tình cảm, hành
vi tương ứng ở người được giáo dục; Niềm tin, tình cảm là động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động để
biến nhận thức thành hành động; Việc thể nghiệm hành vi và rèn luyện hành vi là yếu tố quyết định
sự hình thành phát triển nhân cách của người được giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo
dục không nhất thiết phải tuân theo trình tự các khâu nêu trên. Việc vận dụng các khâu sao cho phù
hợp với từng đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục và hoàn cảnh cụ thể nhằm phát huy tính hiệu
quả của quá trình giáo dục.
Câu 8: trình bày pp nêu gương, khen thưởng, trách phạt, thi đua, kể chuyện, giảng giải đàm
thoại, tập luyện, giao việc, rèn luyện.
1. Khái niệm phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là hệ thống cách thức hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo
dục thực hiện trong sự thống nhất với nhau nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục phù hợp với
mục đích giáo dục đặt ra.
2. Một số cách phân loại các phương pháp giáo dục
Quá trình giáo dục là một quá trình phức tạp, các phương pháp giáo dục được hiểu trên
nhiều bình diện khác nhau và có cách phân chia nhóm phương pháp giáo dục gọi tên khác nhau.
Sau đây là một số cách phân loại các phương pháp giáo dục: -
Dựa trên cơ sở lực lượng giáo dục tham gia vào quá trình giáo dục ta có các phương
pháp giáo dục: Nhóm phương pháp giáo dục gia đình, nhóm phương pháp giáo dục xã hôi, nhóṃ
phương pháp giáo dục đoàn thể, nhóm phương pháp giáo dục nhà trường. -
Dựa trên cơ sở nôi dung giáo dục, ta c ̣ ó các phương pháp giáo dục: phương pháp
giáo dục đạo đức, phương pháp giáo dục thẩm mỹ, phương pháp giáo dục pháp luật.... -
Dựa trên cơ sở đặc điểm tâm lý lứa tuổi của đối tượng giáo dục ta có các phương
pháp giáo dục: phương pháp giáo dục trẻ trước tuổi học, phương pháp giáo dục học sinh tiểu học,
phương pháp giáo dục học sinh THPT.... -
Dựa trên cơ sở tiếp cận phương thức tác động giáo dục trực tiếp hay gián tiếp đối
tượnggiáo dục ta có: phương pháp giáo dục tác động “tay đôi”, phương pháp “bùng nổ sư phạm”,
phương pháp giáo dục tác động song song, phương pháp tạo dư luận… lOMoAR cPSD| 61470371 -
Dựa trên cơ sở quy trình các khâu của quá trình giáo dục, ta có 3 nhóm phương pháp giáodục sau đây:
+ Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục về các
chuẩn mực xã hội quy định (Đàm thoại, Kể chuyện, Giảng giải, Nêu gương)
+ Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động hình thành hành vi và thói quen hành vi ứng
xử cho người được giáo dục phù hợp với các chuẩn mực xã hội (CMXH) quy định (Phương pháp
giao việc, Phương pháp tập luyện, Phương pháp rèn luyện)

+ Nhóm các phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo
dục phù hợp với các CMXH quy định (Khen thưởng, Trách phạt, Phương pháp thi đua )
Các cách phân chia phương pháp giáo dục nêu trên đều dựa trên các cách tiếp cận khác
nhau và tùy thuộc vào mục đích, mục tiêu giáo dục đặt ra mà nhà giáo dục lựa chọn, sử dụng các
phương pháp giáo dục cho phù hợp.
3. Hệ thống các phương pháp giáo dục
Theo cách phân loại phổ biến về hệ thống các phương pháp giáo dục - cách phân loại dựa
trên cơ sở lôgic của quá trình giáo dục, hệ thống các phương pháp giáo dục bao gồm:
(1) Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục - Đàm thoại - Kể chuyện - Giảng giải - Nêu gương
(2) Nhóm các PP hình thành hành vi và thói quen hành vi của người được giáo dục - Yêu cầu sư phạm - Luyện tập - Rèn luyện
(3) Nhóm các PP kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục - Khen thưởng - Trách phạt- Thi đua
Cách phân chia các phương pháp giáo dục thành 3 nhóm phương pháp nêu trên chỉ có tính
chất tương đối. Quá trình giáo dục tác động tới người được giáo dục không nhất thiết phải tuần tự
tác động tới nhận thức, cảm xúc, tình cảm rồi mới tác động tới hành vi, thói quen hành vi ứng xử
của người được giáo dục. Trong thực tiễn giáo dục, các tác động giáo dục luôn đan xen vào nhau,
hỗ trợ cho nhau và thực hiện một cách linh hoạt với những đặc điểm tâm lý lứa tuổi của người được
giáo dục khác nhau, trong những tình huống, bối cảnh giáo dục đa dạng của cuộc sống.
(1) Trình bày và phân tích nội dung của PP đàm thoại trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Đàm thoại là phương pháp trò chuyện chủ yếu giữa nhà giáo dục và người được giáo dục về các
chủ đề có liên quan đến các CMXH nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ nói
riêng bằng một hệ thống các câu hỏi do nhà giáo dục chuẩn bị trước.
Các loại đàm thoại: tùy vào mục tiêu của hoạt động đàm thoại, ta có các loại như sau: đàm thoại
gợi mở, đàm thoại củng cố, hệ thống hoá...
Ý nghĩa của phương pháp đàm thoại:
+ Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có cơ hội giải thích, đánh giá những sự kiện,
hiện tượng có liên quan đến các hành vi tích cực hay tiêu cực, giải thích những tình huống đạo đức,
pháp luật…trên cơ sở đó nắm vững được những tri thức về các CMXH quy định và từ đó rút ra
những kết luận bổ ích cho bản thân.
+ Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có điều kiện để khắc sâu, phát triển, hệ thống
hoá những vấn đề có liên quan đến các CMXH đã được giáo dục, từ đó hình thành, phát triển xúc
cảm, tình cảm tích cực đối với các CMXH. lOMoAR cPSD| 61470371
+ Qua đàm thoại sẽ hình thành và phát triển được ở người được giáo dục niềm tin đối với
các CMXH và trên cơ sở đó hình thành được ý thức cá nhân của người được giáo dục đối với các CMXH quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp đàm thoại:
+ Công tác chuẩn bị đàm thoại:
Nhà giáo dục cần xác định rõ chủ đề, mục tiêu, nội dung của buổi đàm thoại; xây dựng hệ
thống câu hỏi (chính – phụ) và thông báo cho người được GD chuẩn bị trước.
+ Tổ chức đàm thoại: Người tổ chức nêu lên chủ đề, mục tiêu, nội dung và các câu hỏi đặt
ra của buổi đàm thoại; Sau đó tổ chức trò chuyện giữa nhà giáo dục với người được giáo dục và
giữa những người được giáo dục với nhau; Các ý kiến được lật đi lật lại cho đến khi hoàn thành
mục tiêu chủ đề đàm thoại.
+ Kết thúc đàm thoại: Nhà giáo dục cần kích thích những người được giáo dục rút ra những
kết luận, bài học cần thiết đối với bản thân và những người xung quanh. Sau cùng nhà giáo dục
tổng kết đánh giá kết quả đàm thoại. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(2) Trình bày và phân tích nội dung của PP kể chuyện trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Kể chuyện là phương pháp tác động rất mạnh mẽ tới cảm xúc của người nghe thông qua
cách thức kể chuyện của người kể và các nhân vật, tình huống trong nội dung của cốt truyện. Vì
vậy, kể chuyện là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giáo dục với những người
được giáo dục nhỏ tuổi. -
Định nghĩa kể chuyện là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói, điệu bộ, cử
chỉ, nét mặt để thuật lại một cách sinh động một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục. -
Ý nghĩa của phương pháp kể chuyện:
+ Qua nội dung truyện kể và cách thức kể chuyện, người được giáo dục sẽ hình thành phát
triển tri thức, xúc cảm tình cảm tích cực, niềm tin đúng đắn đối với các CMXH.
+ Người được giáo dục sẽ học tập được những gương tốt và tránh được những gương phản
diện với óc phê phán nhận xét, đánh giá thông qua nội dung câu chuyện. -
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp kể chuyện:
+ Lựa chọn truyện kể: Nhà giáo dục cần trên cơ sở mục tiêu giáo dục, với đối tượng giáo
dục cụ thể xác định chủ đề truyện kể; Lựa chọn cốt truyện được xây dựng phong phú, hấp dẫn chứa
đựng các tình huống giáo dục hướng tới mục tiêu giáo dục; Lưu ý khối lượng truyện kể phải phù
hợp về mặt thời gian, phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý người được giáo dục.
+ Người kể chuyện phải thể hiện lời nói sinh động, giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phải
phù hợp với các tình tiết, các nhân vật trong cốt truyện. Nhằm gây sự tập trung chú ý, cảm xúc
mạnh mẽ cho người được giáo dục; Lưu ý có thể có thể kết hợp với băng hình, các bức tranh ảnh
minh hoạ cho những tình huống nổi bật.
+ Sau khi kể chuyện : Đối với người được giáo dục tuổi nhỏ, nhà giáo dục có thể yêu cầu
trẻ tập kể lại và nêu một số câu hỏi cho người được giáo dục trao đổi nhằm khắc sâu những bài học
về các CMXH, củng cố niềm tin đối với các CMXH và phát triển năng lực tưởng tượng sáng tạo
của người được giáo dục.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(3) Trình bày và phân tích nội dung của phương pháp giảng giải trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Giảng giải là phương pháp trong đó, nhà giáo dục dùng lơì nói để giải thích, chứng minh các
CMXH đã được qui định, nhằm giúp cho người được giáo dục hiểu và nắm được ý nghĩa, nội dung,
qui tắc thực hiện các chuẩn mực này.
Ý nghĩa phương pháp giảng giải: lOMoAR cPSD| 61470371
+ Người được giáo dục nắm vững những tri thức về các CMXH một cách tự giác trên cơ sở
những luận cứ, luận chứng khoa học, ví dụ cụ thể, rõ ràng… thông qua cách phân tích, giảng giải của nhà giáo dục.
+ Thông qua giảng giải giúp hình thành niềm tin ở người được giáo dục về các CMXH quy định.
+ Qua giảng giải người được giáo dục tránh được các tình trạng: nắm các CMXH, mù quáng,
máy móc, hình thức dẫn đến những hành vi tương ứng không tự giác.
- Yêu cầu trong quá trình giảng giải:
+ Chuẩn bị nội dung diễn giải đầy đủ, chính xác, đáp ứng các câu hỏi: Tại sao? Nội dung
gồm? Thực hiện theo qui tắc nào? + Khi giảng giải phải: •
Lời nói: rõ ràng, khúc triết, không lan man dài dòng. •
Lập luận: chính xác, dễ hiểu, lô gíc. •
Minh hoạ: Tranh ảnh, băng hình (nếu cần), giáo dục thực tế gần gũi đời thường
của người được giáo dục. •
Có thể và nên thu hút người được giáo dục tham gia vào giải thích chứng
minh… và rút ra kết luận trong quá trình giảng giải. •
Nên liên hệ để người được giáo dục liên hệ với thực tế, với bản thân. Sinh viên
liên hệ để lấy ví dụ
(4) Trình bày và phân tích nội dung của PP nêu gương trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Nêu gương là phương pháp dùng những tấm gương sáng của các cá nhân hoặc của tập thể để
kích thích những người được giáo dục học tập và làm theo. lOMoAR cPSD| 61470371
Phương pháp nêu gương có thể dùng những tấm gương tốt để người được giáo dục học tập và
gương xấu để tránh những hành vi tương tự.
+ Nêu gương tốt (chính diện) nhằm giúp người được giáo dục khắc phục những khó khăn gặp
phải của bản thân, học tập và làm theo gương tốt, hướng vào những hành vi tích cực (làm việc thiện).
Ví dụ về những tấm gương tốt: học sinh học giỏi, giúp đỡ bạn, giúp đỡ những người có hoàn
cảnh khó khăn, luôn có trách nhiệm, nhiệt tình trong các hoạt động, “sinh viên nghèo vượt khó”,
“các nhà doanh nghiệp trẻ”, lao động giỏi, dũng cảm hy sinh vì nước vì dân, …
+ Nêu gương xấu (gương phản diện) nhằm giúp người được giáo dục phân tích, tránh hành vi tương tự.
Ví dụ gương xấu như: lười học, chơi bời lêu lổng, cờ bạc rượu chè, ăn cắp, gây gổ, ăn nói vô lễ, chốn thuế…
Ý nghĩa phương pháp nêu gương:
+ Qua nêu gương, nhà giáo dục sẽ giúp người được giáo dục phát triển năng lực phê phán,
đánh giá được hành vi của người khác và rút ra những kết luận bổ ích.
+ Người được giáo dục biết học những gương tốt đồng thời biết tránh gương xấu trong cuộc
sống và các hoạt động thực tiễn.
+ Qua việc phân tích, đánh giá của nhà giáo dục về những tấm gương sẽ giúp người được giáo
dục hình thành niềm tin về các CMXH và mong muốn có những hành vi phù hợp với các CMXH quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp nêu gương:
+ Trên cơ sở: mục tiêu, nội dung giáo dục cụ thể, đặc điểm tâm sinh lí của người được
giáo dục, nhà giáo dục lựa chọn những tấm gương sáng và gương phản diện cho phù hợp. Tránh
lạm dụng những gương phản diện vì dễ dẫn tới tác dụng phản giáo dục.
+ Những tấm gương lựa chọn phải thoả mãn điều kiện sau đây: •
Gần gũi với cuộc sống đời thường của người được giáo dục, tránh xa lạ, không thích hợp. •
Có tính điển hình, cụ thể. Tránh lan man, chung chung. •
Phải có tính khả thi với người được giáo dục. “Tránh” quá lí tưởng nên người được
giáo dục chỉ có thể “chiêm ngưỡng” mà không bắt chước được.
+ Trong quá trình nêu gương, nhà giáo dục nên khuyến khích người được giáo dục liên hệ
thực tế, nêu những tấm gương cần học tập, phê phán và tham gia tích cực vào phân tích, đánh giá
những tấm gương đó để rút ra kết luận bổ ích.
+ Nhà giáo dục cần phải tự rèn luyện, xây dựng nhân cách bản thân trở thành là một tấm
gương sáng trước người được giáo dục. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(5) Trình bày và phân tích nội dung của phương pháp nêu yêu cầu sư phạm trong giáo
dục. Liên hệ thực tiễn
Giao việc (nêu yêu cầu sư phạm) là phương pháp nhà giáo dục lôi cuốn người được giáo dục
vào các hoạt động đa dạng với những công việc nhất định, với những nghĩa vụ cá nhân và xã hội
nhất định mà người được giáo dục phải hoàn thành.
- Ý nghĩa của phương pháp giao việc: Qua thực hiên công việ c, họ ạt đông đự ợc giao
người được giáo dục sẽ hình thành những hành vi, thói quen phù hợp với các yêu cầu công việc
được giao, yêu cầu của các CMXH quy định và được thể hiện những kinh nghiệm ứng xử của mình
trong mối quan hệ đa dạng.
Yêu cầu thực hiện phương pháp giao việc:
+ Trước khi giao việc, nhà giáo dục cần giúp người được giáo dục ý thức đầy đủ về ý nghĩa
xã hội và ý nghĩa cá nhân của công việc phải làm và kích thích họ tự giác, tích cực hoạt động thực
hiện công việc được giao. lOMoAR cPSD| 61470371
+ Nhà giáo dục đưa ra những yêu cầu cụ thể mà người được giáo dục phải hoàn thành và giúp
họ định hướng đúng đắn toàn bộ chuỗi hành động phải hoàn thành.
+ Giao việc phải tính tới hứng thú, năng khiếu, điều kiện thực tiễn và tính khả thi của hoạt
động của người được giáo dục nhằm phát huy thế mạnh ở họ trong hoạt động.
+ Quá trình thực hiện hoạt động nhà giáo dục cần theo dõi, giúp đỡ tạo điều kiện (nếu cần)
để người được GD hoàn thành mọi yêu cầu của công việc được giao.
+ Cần kiểm tra đánh giá công khai kết quả hoàn thành công việc của cá nhân hay tập thể
người được giáo dục. Lưu ý: nhà giáo dục luôn có nhận xét cụ thể, những chỉ dẫn hỗ trợ và khuyến
khích, động viên người được giáo dục tiếp tục tham gia các hoạt động thực tiễn.
+ Có thể phát huy ý thức tự quản của tập thể học sinh bằng việc để tập thể học sinh giao việc
cho cá nhân trong các hoạt động của lớp mà không nhất thiết giáo viên giao việc. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(6) Trình bày và phân tích nội dung của PP luyện tập trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Tập luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục thực hiện một cách đều đặn và có
kế hoạch các hoạt động nhất định, nhằm biến những hành động đó thành những thói quen ứng xử
ở người được giáo dục.
Ý nghĩa của phương pháp luyện tập:
+ Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để trải nghiệm, củng cố, phát triển
niềm tin đối với các CMXH và biến ý thức cá nhân về các CMXH thành những hành vi tương ứng ở họ.
+ Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để lặp đi lặp lại các hành vi hoạt
động theo quy trình xác định trên cơ sở đó tạo lập thành những thói quen hành vi ứng xử tương ứng
ở họ, đảm bảo tính bền vững của hành vi ứng xử phù hợp với các CMXH quy định ở người được giáo dục.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp luyện tập:
+ Nhà giáo dục cần giúp cho người được giáo dục nắm được quy tắc hành vi và hình dung rõ
hành vi đó cần thực hiện như thế nào? để giúp họ có thể định hướng cho việc thực hiện hành vi qua tập luyện.
+ Trong những trường hợp cần thiết, nhà giáo dục có thể làm mẫu cho người được giáo dục về
những hành vi cần tập luyện.
+ Cần tạo điều kiện cho người được giáo dục tập luyện theo quy tắc hành vi, theo mẫu hành vi đã giới thiệu.
+ Nhà giáo dục cần khuyến khích người được giáo dục tập luyện thường xuyên, lặp đi lặp lại
những hành vi đã tập luyện qua việc thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày, các hoạt động thực tiễn của cuộc sống.
+ Nhà giáo dục cần tiến hành kiểm tra uốn nắn thường xuyên hành vi hoạt động của người
được giáo dục theo yêu cầu quy trình chuẩn đồng thời khuyến khích, động viên họ tự kiểm tra, tự
uốn nắn hành vi của mình trong quá trình luyện tập. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(7) Trình bày và phân tích nội dung của PP rèn luyện trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Rèn luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục được thể nghiệm ý thức, tình cảm,
hành vi của mình về các CMXH trong những tình huống đa dạng của cuộc sống. Qua đó hình thành
và củng cố được những hành vi phù hợp với các CMXH đã quy định. Ý nghĩa của phương pháp rèn luyện:
+ Thông qua những tình huống, hoạt động mới, đa dạng của cuộc sống thực, người được giáo dục
được trải nghiệm là chính mình đưa ra những quyết định và chịu trách nhiệm với những quyết định
đó. Trên cơ sở đó nhận ra mình là ai, những cái phù hợp và chưa phù hợp từ đó điều chỉnh bản thân
đáp ứng yêu cầu của CMXH. lOMoAR cPSD| 61470371
+ Chính trong quá trình “thâm nhập” vào những tình huống mới, đa dạng của cuộc sống, người
được giáo dục phải tiến hành cuộc đấu tranh động cơ để tự xác định động cơ đúng đắn, định hướng
cho hoạt động nhằm giải quyết đúng đắn những tình huống đó. Điều đó sẽ giúp cho ý thức về các
CMXH ở người được giáo dục được khắc sâu, phát triển đảm bảo những hành vi, hoạt động tương
ứng mang tính tự giác, bền vững cao và hình thành thói quen hành vi tương ứng ở họ. + Quá trình
được trải nghiệm, lặp đi lặp lại những hành vi đó trong những tình huống khác nhau của cuộc sống
thực sẽ giúp người được giáo dục biến những hành vi đó trở thành thói quen bền vững. Yêu cầu:
+ Tạo cơ hội cho người được giáo dục “Thâm nhập” vào những tình huống đa dạng từ đơn
giản đến phức tạp, từ dễ đến khó của cuộc sống thực.
+ Tạo cơ hội cho người được giáo dục dựa vào kết quả của tập luyện, lặp đi lặp lại những
hành vi đó trong những tình huống khác nhau của cuộc sống thực để những hành vi đó trở thành thói quen bền vững.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra của nhà giáo dục và tự kiểm tra của người được giáo dục .
+ Tổ chức liên tục có hệ thống các hoạt động thông qua tình huống tự nhiên của cuộc sống
thực hoặc tạo ra những tình huống thích hợp nhằm thu hút người được giáo dục tích cực tham gia.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(8) Trình bày và phân tích nội dung của PP khen thưởng trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Khen thưởng là phương pháp biểu thị sự đồng tình, sự đánh giá tích cực của nhà giáo dục đối
với thái độ, hành vi ứng xử của người được giáo dục trong những tình huống nhất định nhằm đạt
được mục tiêu giáo dục đặt ra.
Ý nghĩa của khen thưởng:
+ Khen thưởng là cách thức để khẳng định hành vi của người được giáo dục là đúng đắn, phù
hợp với các CMXH đã quy định.
+ Qua việc khen thưởng sẽ giúp người được giáo dục tự khẳng định những hành vi tốt của mình,
củng cố và phát triển niềm tin đối với các CMXH có liên quan đến những hành vi tốt của mình đã thực hiện.
+ Khen thưởng sẽ kích thích người được giáo dục duy trì, phát triển những hành vi tích cực đồng
thời tránh được những hành vi tiêu cực không phù hợp các CMXH.
Vì vậy có thể nói: khen thưởng là phương pháp rất quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc đối với người
được giáo dục, khen thưởng mang lại sức mạnh và niềm tin cho người được giáo dục trong quá
trình học tập và rèn luyện bản thân.
Các hình thức khen thưởng: Để lựa chọn đưa ra quyết định về hình thức và mức độ khen
thưởng phù hợp với người được giáo dục , đòi hỏi nhà giáo dục cần căn cứ vào: tính chất, mức độ,
phạm vi ảnh hưởng, động cơ, sự nỗ lực của ngưòi được giáo dục … đối với hành vi tích cực đó mà
nhà giáo dục có hình thức, mức độ khen thưởng phù hợp.
Ví dụ: về các mức độ khen thưởng đối với hành vi tích cực của người được giáo dục (theo chiều tăng dần):
+ Tỏ thái độ đồng tình, ủng hộ những hành vi tốt một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Tỏ lời khen với những hành vi tốt.
+ Biểu dương những hành vi tốt.
+ Tặng giấy khen, bằng khen có kèm thưởng
Lưu ý: thưởng có thể bằng nhiều hình thức như vật phẩm, tiền mặt, học bổng, chuyến du lịch…
Yêu cầu khi thực hiện khen thưởng:
+ Đảm bảo khen thưởng trên cơ sở hành vi thực tế đạt được của người được giáo dục. lOMoAR cPSD| 61470371
VD: Nhà giáo dục cần xem xét hành vi đó thể hiện có phù hợp với các CMXH hay không?
Có động cơ đúng đắn không? Có tính phổ biến, tính thường xuyên không?
+ Đảm bảo khen thưởng phải khách quan, công bằng không vì thiên vị mà đánh giá cao, thành
kiến mà đánh giá thấp.
+ Đảm bảo khen thưởng phải kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, tránh khen thưởng ở những nơi không
thích hợp, tuỳ tiện quá sớm hay quá muộn.
+ Đảm bảo kết hợp khen thưởng thường xuyên với khen thưởng quá trình.
+ Đảm bảo khen thưởng phải gây được dư luân tập thể đồng tình, ủng hộ.
Vì khi dư luận tập thể đồng tình, ủng hộ sẽ làm tăng thêm giá trị, ý nghĩa của hành vi tốt, kích
thích người được GD tiếp tục phát triển hành vi tốt và kích thích, định hướng cho những người
khác noi theo những hành vi tốt.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(9) Trình bày và phân tích nội dung của phương pháp trách phạt trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Trách phạt là phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự phản đối, sự phê phán những hành
vi sai trái của người được giáo dục so với các CMXH quy định. Ý nghĩa của việc trách phạt:
+ Trách phạt sẽ buộc ngưòi mắc lỗi trong ứng xử phải ngừng ngay hành vi sai trái một cách tự
giác, nâng cao ý thức tự kìm chế trong tương lai không tái phạm nữa mà trái lại có những hành vi
đúng đắn, tích cực phù hợp với các CMXH quy định.
+ Tạo cơ hội nhắc nhở những người khác không vi phạm các CMXH, không rơi vào những hành
vi sai trái như người bị trách phạt. Các hình thức trách phạt :
Tùy vào từng trường hợp mà nhà giáo dục có thể đưa ra quyết định hình thức, mức độ trách phạt
phù hợp theo mức độ tăng dần như sau: Nhắc nhở (khuyên bảo), chê trách, phê bình, cảnh cáo,
buộc thôi học, đuổi học.
Khi đưa ra quyết định lựa chọn hình thức, mức độ trách phạt đòi hỏi nhà giáo dục cần căn cứ
vào các yếu tố sau đây:
+ Loại hình của hành vi sai lệch là học tập, lao động hay ứng xử ? sẽ có cách trách phạt khác nhau.
+ Tính chất của hành vi sai lệch (Nghiêm trọng hay không nghiêm trọng? thường xuyên hay không
thường xuyên? cố tình hay vô ý?).
+ Phạm vi và mức độ tai hại do hành vi sai lệch gây ra (Tai hại nhiều hay ít?, ở diện rộng hay diện hẹp?) Yêu cầu khi trách phạt:
+ Đảm bảo trách phạt phải khách quan: Nhà giáo dục phải thận trọng xem xét đánh giá những
hành vi sai lệch của người được giáo dục, cũng như đưa ra những quyết định về mức độ, hình thức
trách phạt sao cho đúng đắn, chính xác và thoả đáng. Tránh tình trạng đánh giá sai, không phù hợp
với thực tế (Quá cao hay quá thấp)
+ Đảm bảo trách phạt phải công bằng: Nhà giáo dục khi đưa ra quyết định trách phạt cần phải
công bằng với mọi người, tránh thiên vị mà trừng phạt nhẹ, thành kiến mà trừng phạt nặng.
+ Đảm bảo khi trách phạt phải làm cho người được giáo dục thấy rõ được sai lầm của mình
và chấp nhận hình thức, mức độ trách phạt đối với mình “Tâm phục, khẩu phục”. Cụ thể: Khi trách
phạt phải làm cho người được giáo dục thấy rõ được lý do bị trách phạt, tính tất yếu của sự trách
phạt; Người được giáo dục thể hiện thái độ ân hận về lỗi lầm của mình và chấp nhận tính hợp lý
của hình thức và mức độ trách phạt. Có như vậy ngưòi được giáo dục mới quyết tâm sửa chữa sai lầm, không tái phạm.
+ Đảm bảo tôn trọng nhân phẩm của người bị trách phạt: Cụ thể: Khi trách phạt nhà
giáo dục không được làm nhục, không xúc phạm tới thể xác người bị trách phạt; Không dùng trách
phạt để trả thù; Phải chỉ ra hướng để giúp cho người bị trách phạt sửa chữa sai lầm một cách tích
cực và tự tin; Đồng thời luôn tỏ thái độ chân thành, lòng tin tưởng ở sự tiến bộ của họ. lOMoAR cPSD| 61470371
+ Đảm bảo tính cá biệt trong trách phạt: Khỉ trách phạt, nhà giáo dục cần quan tâm tới
đặc điểm tâm sinh lý (xu hướng, năng lực, vốn kinh nghiệm, tính cách, điều kiện hoàn cảnh…) của
từng cá nhân người mắc lỗi trong từng bối cảnh cụ thể để có cách thức giáo dục phù hợp.
+ Đảm bảo trách phạt của nhà giáo dục phải tạo được dư luận tập thể đồng tình với sự
trách phạt. Sự đồng tình của dư luận tập thể với việc trách phạt của nhà giáo dục sẽ tạo thêm sức
mạnh hỗ trợ người bị trách phạt quyết tâm nhanh chóng sửa chữa sai lầm đồng thời ngăn chặn
những người khác không vi phạm sai lầm. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
(10) Trình bày và phân tích nội dung của PP thi đua trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Thi đua là phương pháp thông qua các phong trào hoạt động tập thể nhằm kích thích khuynh
hướng tự khẳng định ở người được giáo dục, thúc đẩy họ đua tài gắng sức, hăng hái nỗ lực vươn
lên ở vị trí hàng đầu và lôi cuốn những người khác cùng tiến lên giành thành tích cá nhân hay tập thể cao nhất.
Phong trào thi đua có thể tổ chức trong các hoạt động học tập, lao động, vệ sinh trường lớp, văn
hóa văn nghệ, thể dục, thể thao…của tập thể các lớp, các câu lạc bộ ở nhà trường…VD: “Người
đạt điểm cao nhất trong tháng”, “Người có nhiều đóng góp xây dựng bài nhất trong tháng”…; “Lớp
học xanh, sạch, đẹp”….
Ý nghĩa của phương pháp thi đua:
+ Thi đua kích thích nhu cầu khẳng định bản thân của người được giáo dục. Những người được
giáo dục sẽ nỗ lực hết mình tham gia vào quá trình hoạt động thi đua để dành thắng lợi cao nhất
trên cơ sở đó đạt được các mục tiêu giáo dục đặt ra.
+ Thi đua tạo môi trường hoạt động tích cực và hiệu quả của những người giáo dục tham gia
trên cơ sở đó mục tiêu giáo dục đạt được hiệu quả cao.
+ Trong hoạt động thi đua, với sự nỗ lực hết mình của người tham gia, người được giáo dục
sẽ tự nhận thức, đánh giá được bản thân mình trên cở sở đó có sự điều chỉnh kịp thời đối với bản thân.
- Yêu cầu khi thực hiện phương pháp thi đua:
+ Mục tiêu thi đua phải được xác định: cụ thể, rõ ràng và thiết thực
+ Các hoạt động thi đua cần phải động viên được tất cả mọi người được giáo dục hăng hái
tham gia với động cơ đúng đắn.
+ Các hình thức hoạt động thi đua phải thể hiện sự sáng tạo, mới mẻ, hấp dẫn người được giáo dục tham gia.
+ Thi đua cần có phương thức đánh giá kết quả thi đua tường minh, công khai kích thích sự
tham gia hết mình của các thành viên và cần có so sánh công khai kết quả thi đua mà họ đạt được.
+ Tiến hành sơ tổng kết các hoạt động thi đua đều đặn để giúp người được giáo dục điều chỉnh
kịp thời hoạt động của bản thân trên cơ đó đạt hiệu quả cao nhất của hoạt động thi đua.
+ Nhà giáo dục cần biểu dương khen thưởng công bằng, thích đáng các cá nhân và tập thể đạt
thành tích cao hoặc có nhiều nỗ lực trong thi đua. Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ
Câu 9: phương pháp giáo dục là gì? Đặc điểm của pp giáo dục? cách phân loại các phương
pháp giáo dục. những yêu cầu khi lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục
Trình bày khái niệm và đặc điểm của phương pháp giáo dục
Phương pháp là một thành tố quan trọng của quá trình giáo dục. Thực tiễn hoạt động giáo
dục cho thấy: trong cùng một hoạt động giáo dục với mục tiêu, chủ thể, đối tượng, điều kiện, phương
tiện thực hiện hoạt động là như nhau nhưng kết quả của hoạt động mang lại khác nhau.
Có thể lí giải sự khác nhau này chính là do phương pháp tiến hành hoạt động đó có sự khác nhau.
Phương pháp là từ gốc tiếng Hy Lạp “Metodos” có nghĩa là con đường theo dõi đối tượng.