I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.1 Bối cảnh lịch sử
1.1.1 Tình hình thế giới Việt Nam
a. Tình hình thế giới
Từ nửa sau thế k XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Thực hiện chính sách tăng ờng áp bức bóc
lột nhân dân lao động đẩy mạnh qtrình m ợc áp bức các dân tộc thuộc địa.
Trước bối cảnh đó, sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động
trên thế giới trở nên cùng cực, mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đến quốc
ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ các nước
thuộc địa.
Năm 1917, thắng lợi Cách mạng tháng Mười Nga đã làm biến đổi sâu sắc tình hình
thế giới. chủ nghĩa Mác Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới
trong lịch sử loài người. Đó ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức thức tỉnh
đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản do V.I. Lênin đứng đầu được thành lập. Quốc tế
Cộng sản ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản phong
trào công nhân quốc tế: vạch ra chiến lược cho cách mạng sản, đề cập đến các vấn đ
dân tộc thuộc địa và chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc. Hơn nữa, Quốc tế Cộng
sản vai trò quan trọng trong việc truyền chủ nghĩa Mác Lênin thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
b. Tình hình Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng m lược Việt Nam từng ớc thiết lập bộ
máy thống trị biến nước ta trở thành một xứ thuộc địa, dân ta vong quốc nô, T
quốc ta bị giày xéo
dưới gót sắt của kẻ thung ác”.
1
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho
hội Việt Nam có nhiều thay đổi như sau:
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực dân. Pháp thực hiện
chính sách “chia để trị”, chúng chia rẽ ba ớc Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ
(Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) thực hiện chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp thi nh
chính sách chuyên chế với bộ y đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong
tay các viên quan cai trị người Pháp từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ,
khám sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kđến các bộ y quân đội, cảnh sát, tòa án,... tước
bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền nhà Nguyễn và biến vua quan Nam triều
thành bù nhìn và tay sai.
Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu
tranh của dân ta trong biển máu. Chúng thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia
nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng nhập ba k đó với nước Lào
Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta ra khỏi bản đồ
thế giới. Chúng y chia rẽ hận thù giữa Bắc Trung Nam, giữa các tôn giáo, các n
tộc, các địa phương với các dân tộc khác trên bán đảo Đông Dương.
Chúng chia rẽ người Kinh với các n tộc khác, giữa miền xuôi miền núi, giữa
các tôn giáo... Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu các xứ tỉnh các viên quan của
người Pháp. Dưới tỉnh phủ, huyện, châu. Đơn vị hành chính sở Việt Nam vẫn
làng xã, do các chức tịch địa phương cai quản. Bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa
phương đều do thực dân Pháp chi phối. Thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay đàn
áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta khủng bố, cấu kết với địa chủ. Thực dân
Pháp tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn.
1
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (04/06/20211), Bản lĩnh độc lập và tư duy sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc
Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, truy cập từ: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ban-linh-
doc-lap-va-tu-duy-sang-tao-cua-nguyen-ai-quoc--ho-chi-minh-tren-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-73763.html
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc
lột tàn bạo,vơ vét tài nguyên của cải của nhân dân lao động, ban hành nhiều thuế khóa
nặng nề như thuế chợ, thuế đỏ, thuế thân…Ngoài ra chúng còn tác động mạnh mẽ
đến mọi mặt từ nông công thương nghiệp của nước ta.
Đối với nông nghiệp vào m 1897, Pháp ép triều Nguyễn điều ước “nhượng”
quyền khai khẩn đất hoang” cho chúng. Ngay sau đó, Pháp tăng ờng cướp đoạt đất
đai, lập các khu đồn điền lớn để trồng cao su, thứ cây công nghiệp Pháp coi trọng khi
đó.
Đối với công nghiệp, chúng chú trọng khai thác mỏ than kim loại. Tuy nhiên
Pháp không xây nhà máy luyện kim tại Việt Nam, tất cả kim loại khai thác được chở về
Pháp. Phần lớn các nghiệp khai thác mỏ nằm trong tay các tập đoàn bản Pháp.
Phương thức hoạt động tận dụng nhân công lao động rẻ mạt, sao cho chi phí sản xuất
giảm xuống mức thấp nhất để thu lợi nhuận tối đa.
Đối với thương nghiệp, Pháp muốn biến Việt Nam trở thành thị trường độc quyền
của chúng, Pháp độc quyền thu thuế xuất nhập khẩu. Tất cả hàng hoá Việt Nam Pháp
cần đều phải ưu tiên xuất sang Pháp, không được xuất sang nước khác, những hàng hoá
Pháp thừa ế hoặc m chất ợng so với với các nước khác thì Việt Nam vẫn phải
mua của Pháp.
Đối với giao thông vận tải, xây dựng hệ thống giao thông hiện đại, vừa phục vụ làm
ăn lâu dài, vừa nhằm mục đích quân sự.
Ngoài ra chúng còn tiến hành chính sách khai thác để cướp đoạt tài nguyên, bóc lột
nhân công rẻ mạt, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của bản Pháp, độc quyền về
kinh tế để dễ bề vét, độc hành về thuế phát hành giấy bạc, duy trì hình thức bóc lột
phong kiến, kìm hãm nền kinh tế Việt Nam trong vòng lạc hậu, làm cho kinh tế nước ta
phụ thuộc vào kinh tế Pháp.
Đặc biệt hơn là chúng độc quyền về muối, rượu và thuốc phiện. Đối với muối là một
trong nhứng thứ nhu yếu phẩm, đặc biệt lại là một sản phẩm quan tọng trong miếng ăn
người Việt. Chính thế đối với người Việt Nam, muối trở thành một sản phẩm vô cùng
quan trọng không khác gì gạo. Hơn nữa, nước ta không có mỏ muối. Chỉ ở một số vùng
biển nhất định ở nước ta mới khả năng sản xuất. Những yếu tố này đã khiến cho muối
trở nên khan hiếm ở trên thị trường. Biết được những yếu tốy, các nhà làm chính sách
thuế khoá trong chính quyền Pháp nghĩ ngay đến biện pháp phân phối độc quyền muối.
Qua chính sách đánh thuế bất nhân này, chúng đã vơ về ngân quỹ của Pháp một khoản
tiền khổng lồ để có thể đủ trả lương cho 50% công chức ở Đông Dương. Đối với rượu,
trong thực tế rượu là thứ gắn bó với nếp sống văn hoá của người Việt dù ở bất kì xã hội
văn minh hay lạc hậu. Biết rõ tính cách quan trọng của rựou trong nếp sống văn hoá của
người Việt Nam là vậy, với chủ trương cố hữu nắm trọng quyền kiểm soát tất cả mọi
ngành sinh hoạt trong xã hội, Giáo Hội La Mã và thực dân Pháp bèn quyết định nắm độc
quyền sản xuất và phân phối rượu, rồi cưỡng bách nhân dân ta hàng năm phải tiêu thụ số
lượng rượu theo đúng chỉ tiêu mà chúng đề ra. Với việc nắm trong tay độc quyền về sản
xuất rượu trong nước, thực dân Pháp không chỉ thu về lợi nhuận hàng năm, mà còn có
khả năng khống chế và đầu độc nhân dân ta. Đối với thuộc phiện là một sản phẩm có tác
hại vô cùng nguy hiểm cho cả người sử dụng nói riêng và mọi người xung quanh nói
chung. Thế nhưng, từ khi dân ta rơi vào ách thống trị, Pháp chủ động nhập cảng, thiết lập
các cơ sở chế biến, tổ chức hệ thống phân phối, khuyến khích mở các tiệm hút và tiệm
bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buôn bán sản phẩm này. Như
vậy là chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi cho khá nhiều người mà đa số thuộc thành
phần khá giả dễ dàng a dua đua đòi rồi sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả
cuộc đời. Nhìn rộng ra, nếu quốc gia quá nhiều người nghiện hút thuốc phiện như vậy,
thì dân nước sẽ không còn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự
tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh
lệ thuộc nước ngoài. Tuy nhiên, thiết nghĩ rằng, ngoài chủ trương làm tiêu tan ý chí đấu
tranh của dân tộc Việt Nam, Pháp còn có chính sách độc quyền nhập cảng lậu và phân
phối thuốc phiện vừa để lấy tiền chi phi cho bộ máy cai trị tại Đông Dương, vừa để trả
lương hậu hĩnh cho công chức người Pháp trong bộ máy cai trị y với mục đích khích lệ
họ tích cực thẳng tay đàn áp và bóc lột dân ta chế và đầu độc nhân dân ta.
Về văn hoá xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân;
dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu... Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai
trị thực dân Đông Dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục
nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu...
chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học
tập” .
Pháp tiến hành chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhiều nhà hơn trường học, chúng
dung túng duy trì các hủ tục lạc hậu. Hệ thống giáo dục mới sau hai lần cải cách, đến năm
1917 đã thực sự trở thành “Pháp hoá” gồm có ba cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng và
đại học. Ở cấp tiểu học học sinh sẽ theo học trong 5 năm. Nhưng với mục đích hạn chế
việc đến trường của thanh thiếu niên Việt Nam, học sinh sau khi học xong ba năm bậc sơ
đẳng phải thi lấy bằng “sơ học yếu lược” rồi mới được học tiếp hai năm còn lại của bậc
tiểu học và thi tốt nghiệp. Trong ba năm học đầu tiên đó, học sinh phải học bằng tiếng
Pháp. Hơn nữa, chính quyền thuộc địa lại quy định rất chặt chẽ về hạn tuổi vào học các
cấp học nên càng góp phần gạt bỏ số học sinh muốn theo học. Nội dung chương trình
giảng dạy của hệ thống giáo dục này, thực dân Pháp đã loại trừ những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp”
nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần yêu nước và ý
thức về số phận của người dân mất nước, nô lệ để từ đó phục vụ đắc lực cho công cuộc
thống trị của thực dân.
Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách đầu
độc, truỵ lạc hoá đối với người dân, đặc biệt là thanh niên với mọi thủ đoạn. Những thói
hư tật xấu được chính quyền các cấp ra sức dung dưỡng. Nạn cờ bạc được khuyến khích
bằng cách cho mở các sòng bạc để thu thuế. Ngoài những sòng bạc công khai tính chất
thường xuyên, tổ chức quy mô ở Chợ Lớn, Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai còn
có nhiều sòng bạc kín được tổ chức ở các dịp chợ phiên, ở những vòng đua ngựa ở Hà
Nội, Hải Phòng, Sài Gòn..
Tệ nạn uống rượu không bị hạn chế mà thậm chí nhân dân còn bị bắt phải uống một loại
rượu nặng độ do hãng rượu độc quyền Phông ten sản xuất trên cả nước. “Cứ 1.000 làng
thì đến 1.500 đại bán lẻ rượuthuốc phiện. Nhưng cũng trong số 1.000 làng đó lại
chỉ vẻn vẹn 10 trường học... Hàng năm người ta cũng đã tặng từ 23 đến 24 triệu lít rượu
cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con”
2
.
Thuốc phiện đã trở thành một công cụ hữu hiệu để đầu độc người dân, đặc biệt là giới
trẻ. Chúng mở các cơ quan thu mua và các công ty bán thuốc phiện một cách công khai.
Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh trích đăng bức thư của Toàn
quyền Đông Dương Xarô gửi viên Công sứ dưới quyền: “Tôi trân trọng yêu cầu ông vui
lòng giúp đỡ những cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý bán lẻ
thuốc phiện và rượu... Để tiến hành việc đó tôi xin gửi ông một bản danh sách những đại
cần đặt trong cácđã kể tên...”
3
Chính quyn các cấp đã tìm mọi cách để ép các viên
chức từ công sứ cho tới các nhân viên văn phòng tăng mức tiêu thụ rượu và thuốc phiện
lên mức cao nhất có th.
Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp dung túng và trở nên phổ biến ở các thành
phố lớn... nông thôn và miền núi, các hủ tục về ma chay cưới xin còn tồn tại, nạn bói
toán, đồng bóng, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề.
2
,3 Trần Thanh Giang, (21/02/2013), Chính sách dịch về văn hóa của thực dân Pháp một số trào lưu văn hóa
trước năm 1945 ở Việt Nam, link truy cập: http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/340-Chinh-sach-no-dich-ve-van-hoa-
cuathuc-dan-Phap-va-mot-so-trao-luu-van-hoa-truoc-nam-1945-o-Viet-Nam
3
Dưới tác động của chính sách cai trị chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân,
hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc các giai cấp và hình thành các mâu thuẫn
cơ bản rõ rệt như sau:
Giai cấp địa chủ: cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân, đây là giai cấp
bị bóc lột nặng nề nhất. Các giai cấp tầng lớp khác trong hội Việt Nam đều mang thân
phận người dân mất nước bị thực dân Pháp áp bức nên họ đều căm phẫn bọn thực
dân. Do đó, trong hội Việt Nam lúc y, không chỉ mâu thuẫn giữa nhân dân chủ
yếu nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, lúc y đã nảy sinh mâu thuẫn càng
gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam,
bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của
giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay
sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và
quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân: ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp,
giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài Gòn,
Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân
t giai cấp nông dân, nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi
hành Việt Nam. Vì vậy, giai cấp công nhân quan hệ trực tiếpchặt chẽ với giai cấp
nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc
điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là: “ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc
Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin”.
Giai cấp tư sản Việt Nam: bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp... Ngay
từ khi ra đời, giai cấp sản Việt Nam đã bị sản Pháp vả sản người Hoa cạnh tranh
chèn ép, do đó thế lực kinh tếđịa vị chính trị của giai cấp sản Việt Nam nhỏ bé, yếu
ớt. Vì vậy, giai cấp sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí thức, viên chứcnhững người làm
nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp
tiểu sản. Đời sống của tiểu sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những
ngườisản. Tiểu sản Việt Nam ng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại
chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực
lượng có tinh thần cách mạng cao.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đă tác động mạnh mẽ đến xã hội
Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra
đời của hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác
nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực
dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó
mâu thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn
lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong
kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó,
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước yêu cầu của lịch sử, phong trào đấu tranh Pháp trước khi Đảng diễn ra
mạnh mẽ. Phong trào Cần ơng do n Thất Thuyết đứng đầu (1885 1896), nhiều
cuộc khởi nghĩa đã diễn ra sôi nổi rộng khắp thể hiện tinh thần quật ờng chống
ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân khi triều đình phong kiến đã đầu hàng. Nhưng ngọn
cờ phong kiến lúc đó không còn ngọn cờ tiêu biểu để tập hơn một cách rộng rãi, toàn
thể các tầng lớp nhân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn
quốc nên cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại m 1896 lúc chấm dứt vai trò
lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước Việt Nam. Phong trào tự
phát của nông dân Yên Thế (Bắc Giang) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, đây cuộc đấu
tranh anh ng cuả nông dân Việt Nam kéo dài gần 30 m, ghi mốc son trong lịch sử
đấu tranh thực dân Pháp. Sự bền bỉ, ngoan cường của phong trào thể hiện sức mạnh to
lớn của nông dân nhưng phong trào vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến” không khả
năng mở rộng hợp tác thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
nên cuối cùng ng bị thực dân Pháp đàn áp. Ngoài ra còn các phong trào yêu ớc
theo khuynh hướng dân chủ sản tiêu biểu xu hướng bạo động của Phan Bội Châu
(1867 1940) tổ chức, lãnh đạo và xu hướng cải cách do Phan Châu Trinh (1872 1926)
đề xướng. Nhìn chung các phong trào yêu nước trước khi Đảng đều biểu dương tinh
thần yêu nước, bất khuất lúc bấy giờ của dân tộc Việt Nam nhưng hầu hết đều thất bại do
các phong trào đều yêu nước từ các lập trường phong kiến không có đường lối lãnh đạo
đúng đắn do giai cấp phong kiến, địa chủ không còn khả năng dẫn dắt nhân n thực hiện
sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Đồng thời, các phong trào yêu nước theo
khuynh ớng sản do đường lối chính trị không ràng, nhất không biết dựa vào
quần chúng nhân dân chủ yếu dựa trên uy tín nhân nên không thể tạo sức mạnh
tổng hợp, không sự thống nhất trong những người lãnh đạo phong trào, chính vậy
nên khi người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
1.1.2 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng sản sự thành lập Đảng
a. Sự ra đời của phong trào yêu nướcsản
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trước cảnh lầm than của đất ớc dân tộc, các
phong trào cứu nước theo các lập trường phong kiến, dân chủ tư sản, đã diến ra quyết liệt
nhưng không thành ng. Việt Nam m vào cảnh khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước: mất phương hướng hiện tại mờ mịt tương lai. Bởi, hệ tư tưởng phong kiến
và hệ tư tưởng tư sản không phải là con đường phù hợp cho cách mạng nước ta.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành Nguyễn Ái Quốc quyết chí ra đi tìm đường cứu
nước với mục tiêu: Cái i cần nhất trên đời đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc ta
được độc lập”. Bằng chính quá trình xâm nhập vào thực tiễn: lao động kiếm sống và hoạt
động cách mạng, bằng chính quá trình từ sản hoá chính mình đã giúp Người hiểu
hơn về bản chất kẻ thù (khác với tiền bối). Người đã m hiểu về ch mạng sản Anh,
Cách mạng sản Pháp rồi nhưng Người thấy rằng cuộc cách mạng y đều “không
đến nơi”, “không triệt để” bởi cuộc cách mạng y không đáp ứng được nhu cầu giải
phóng các tầng lớp nhân dân lao động mà chỉ đem lại quyền lợi cho giai cấp tư sản. Trên
con đường tìm kiếm đó, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận ánh sáng cách mạng từ trong bản
Soạn thảo lần thứ nhất những luận cương vvấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của
V.I.Lenin đăng trên o Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút tính
chất cách mạng triệt để của nó. Người đi đến khẳng định “Muốn cứu nước, giải phóng
dân tộc, không còn còn đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
b. Sự chuẩn bị về tưởng chính trị tổ chức việc thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam.
Về mặt tưởng và chính trị, Người đã viết bài đăng các báo: “Người cùng khổ” do
Người sáng lập, báo Nhân đạo” quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp, báo
“Đời sống công nhân” tiếng nói nói của giai cấp công nhân, báo “S thật” của Liên Xô,
báo Thanh Niên (Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội). Các tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh” mang tên Người. Qua nội dung các bài báo
và các tác phẩm đó, Người tập trung lên án chế độ đế quốc, chủ nghĩa thực dân nói chung
chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng. Người vạch trần bản chất xâm lược, phản động,
bốc lột đàn áp tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Bằng những dẫn chứng cụ thể, sinh động,
Người đã tố cáo tước luận Pháp và thế giới về tội ác tày trời của thực dân Pháp đối với
nhân dân các nước thuộc địa.
Về mặt tổ chức, sau khi lựa chọn con đường cách mạng sản cho dân tộc Việt
Nam Người cũng khẳng định phải “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết
họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. vậy cuối 1924, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc từ Liên trvề Quảng Châu để tìm hiểu hoạt động của người yêu
nước Việt Nam tại đây.
Tháng 2/1925, Người thành lập “Cộng sản đoàn” với 9 thành viên. Sau đó 6/1925,
Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nòng cốt Cộng sản đoàn, tổ
chức tính chất cách mạng quần chúng rộng rãi. Hộ tổ chức các lớp huấn luyện
chính trị do lanh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về ớc lựa chọn
đưa một số thanh niên sang Quảng Châu để bồi dưỡng, đào tạo về luận chính trị. Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc,
thành lập chính quyền công nông binh, phát triển sản xuất xây dựng chủ nghĩa
cộng sản ở Việt Nam.
Với những hoạt động đó, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã truyền chủ
nghĩa Mác Lênin, luận điểm về giải phóng dân tộc tổ chức, vận động nhân dân đấu
tranh, khơi dậy tinh thần yêu nước làm cho dân chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ.
c. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng hội Pháp Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III tức Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập. Người trở thành người Cộng sản
đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tưởng lập
trường chính trị của Người: muốn cứu nước giải phóng dân tộc không còn con đường
nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.
Từ năm 1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền chủ nghĩa Mác-Lênin,
chuẩn bị về luận chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Người nhấn
mạnh muốn thành ng thì phải Đảng chân chính lãnh đạo, hệ tưởng tiên tiến dẫn
đường tưởng c-Lênin. Cuối m 1929, trước nhu cầu cấp bách của phong trào
cách mạng trong ớc phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, Nguyễn Ái Quốc
đã chủ động để tiến hành tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời
Từ 6/1 đến 7/2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã tchức chủ trì Hội nghị hợp nhất
Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc. Hội nghị quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng
(Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông ơng Cộng sản Liên
đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận thông qua các văn kiện:
Chánh ơng vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình m tắt Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
1.1.2 Nội dung
Nội dung của Sách lược vắn tắt như sau:
“1. Đảng đội tiên phong của sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.
3. Đảng phải làm cho c đoàn thể ththuyền dân y (công hội, hợp c
xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu sản, trí thức, trung nông, Thanh niên,
Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới (1) làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng
một chút lợi ích gì của công nông đi vào đường thoả hiệp, trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu ớc An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền thực
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc sản giai cấp thế giới, nhất sản
giai cấp Pháp.”
4
Nội dung của Chánh cương vắn tắt của Đảng như sau:
“Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh
sản m cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ
một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp
nhiều. Vậy bản bản xứ không thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về
phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới thế lực đứng hẳn về phe đế
4
Nguyễn Ái Quốc, (02/1930), Sách lược vắn tắt, Link truy cập: https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/van-kien-tu-
lieu/chanh-cuong-dau-tien-cua-dang-ta-717949
quốc chủ nghĩa n ch trương làm sản dân quyền cách mạng thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
A. Về phương diệnhội thì:
a) Dân chúng được tự do tổ chức.
b) Nam nữ bình quyền, v.v..
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
B. Về phương diện chính trị:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) m cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra chính phủ công nông binh.
d) Tổ chức ra quân đội công nông.
C. Về phương diện kinh tế:
a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của
bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản
lý.
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo.
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo.
e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp.
f) Thi hành luật ngày làm 8 giờ.”
5
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện cô động các luận điểm
cách mạng bản, đánh giá chính xác tính chất hội Việt Nam thuộc địa chỉ
5
Nguyễn Ái Quốc, (2/1930), Chánh cương vắn tắt của Đảng, link truy cập: https://kllct.dlu.edu.vn/vi/tai-lieu-tham-
khao-2785/chanh-cuong-van-tat-cua-dang-1930-3ed1e
mâu thuẫn bản, chủ yếu giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân
xâm lược; xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt
Nam. Cương lĩnh đã xác định: chống đế quốc, phong kiến nhiệm vụ để giành độc lập
cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày.
Về phương diện hội, Chánh ơng khái quát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân được tự do, nam nữ bình quyền, giáo
dục…
Về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh
đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực thể hiện sự thấm
nhuần tiếp thu tưởng cách mạng bạo lực khởi nghĩa trang của chủ nghĩa
Mác Lênin. Con đường phát triển chỉ thcách mạng chứ không thể cải lương,
thỏa hiệp. Xác định cách mạng Việt Nam một bộ phận của thế giới, đề cao đoàn kết
quốc tế với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đấu tranh lợi ích dân tộc.
1.2.1 Tính thực tin
Một là, Cương nh c định nhiệm vụ, mục tiêu bản của cách mạng sản
dân quyền chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc người cày
ruộng. Xuất phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối
quan hệ gắn giữa hai nhiệm vụ bản chống đế quốc chống phong kiến gắn
chặt chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập.
Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được y dựng từ Cương lĩnh chính trị
đầu tiên tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định ớng hội chủ nghĩa hiện nay.
tưởng y thể hiện trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các lực
lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ đều được
Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng do công nông làm nòng
cốt.
Ba là, xác định sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn tắt và Lời kêu
gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng
lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ bản đế
quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh).
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (04/06/20211), Bản lĩnh độc lập và tư duy sáng
tạo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, truy cập từ:
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ban-linh-doc-lap-va-tu-duy-sang-tao-cua-
nguyen-ai-quoc--ho-chi-minh-tren-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-73763.html
3. Nguyễn Ái Quốc, (02/1930), Sách c vắn tắt, Link truy cập:
https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/van-kien-tu-lieu/chanh-cuong-dau-tien-cua-dang-ta-
717949
4. Nguyễn Ái Quốc, (02/1930), Chánh cương vắn tắt của Đảng, link truy cập:
https://kllct.dlu.edu.vn/vi/tai-lieu-tham-khao-2785/chanh-cuong-van-tat-cua-dang-1930-
3ed1e

Preview text:

I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.1 Bối cảnh lịch sử
1.1.1 Tình hình thế giới và Việt Nam a. Tình hình thế giới
Từ nửa sau thế kỳ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Thực hiện chính sách tăng cường áp bức bóc
lột nhân dân lao động và đẩy mạnh quá trình xâm lược áp bức các dân tộc thuộc địa.
Trước bối cảnh đó, sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động
trên thế giới trở nên cùng cực, mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đến quốc
ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, thắng lợi Cách mạng tháng Mười Nga đã làm biến đổi sâu sắc tình hình
thế giới. chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới
trong lịch sử loài người. Đó là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức thức tỉnh và
đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản do V.I. Lênin đứng đầu được thành lập. Quốc tế
Cộng sản ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và phong
trào công nhân quốc tế: vạch ra chiến lược cho cách mạng vô sản, đề cập đến các vấn đề
dân tộc và thuộc địa và chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc. Hơn nữa, Quốc tế Cộng
sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. b. Tình hình Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ
máy thống trị biến nước ta trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ
quốc ta bị giày xéo
dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.1 Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã
hội Việt Nam có nhiều thay đổi như sau:
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực dân. Pháp thực hiện
chính sách “chia để trị”, chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ
(Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp thi hành
chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong
tay các viên quan cai trị người Pháp từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ,
khám sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, tòa án,... tước
bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền nhà Nguyễn và biến vua quan Nam triều thành bù nhìn và tay sai.
Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu
tranh của dân ta trong biển máu. Chúng thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia
nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào và
Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta ra khỏi bản đồ
thế giới. Chúng gây chia rẽ và hận thù giữa Bắc Trung Nam, giữa các tôn giáo, các dân
tộc, các địa phương với các dân tộc khác trên bán đảo Đông Dương.
Chúng chia rẽ người Kinh với các dân tộc khác, giữa miền xuôi và miền núi, giữa
các tôn giáo... Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu các xứ và tỉnh là các viên quan của
người Pháp. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu. Đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam vẫn là
làng xã, do các chức tịch địa phương cai quản. Bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa
phương đều do thực dân Pháp chi phối. Thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay đàn
áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta và khủng bố, cấu kết với địa chủ. Thực dân
Pháp tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn.
1 Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (04/06/20211), Bản lĩnh độc lập và tư duy sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước
, truy cập từ: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ban-linh-
doc-lap-va-tu-duy-sang-tao-cua-nguyen-ai-quoc--ho-chi-minh-tren-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-73763.html
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc
lột tàn bạo,vơ vét tài nguyên của cải của nhân dân lao động, ban hành nhiều thuế khóa
nặng nề vô lý như thuế chợ, thuế đỏ, thuế thân…Ngoài ra chúng còn tác động mạnh mẽ
đến mọi mặt từ nông – công – thương nghiệp của nước ta.
Đối với nông nghiệp vào năm 1897, Pháp ép triều Nguyễn kí điều ước “nhượng”
quyền “khai khẩn đất hoang” cho chúng. Ngay sau đó, Pháp tăng cường cướp đoạt đất
đai, lập các khu đồn điền lớn để trồng cao su, thứ cây công nghiệp mà Pháp coi trọng khi đó.
Đối với công nghiệp, chúng chú trọng khai thác mỏ than và kim loại. Tuy nhiên
Pháp không xây nhà máy luyện kim tại Việt Nam, tất cả kim loại khai thác được chở về
Pháp. Phần lớn các xí nghiệp khai thác mỏ nằm trong tay các tập đoàn tư bản Pháp.
Phương thức hoạt động là tận dụng nhân công lao động rẻ mạt, sao cho chi phí sản xuất
giảm xuống mức thấp nhất để thu lợi nhuận tối đa.
Đối với thương nghiệp, Pháp muốn biến Việt Nam trở thành thị trường độc quyền
của chúng, Pháp độc quyền thu thuế xuất nhập khẩu. Tất cả hàng hoá Việt Nam mà Pháp
cần đều phải ưu tiên xuất sang Pháp, không được xuất sang nước khác, những hàng hoá
mà Pháp thừa ế hoặc kém chất lượng so với với các nước khác thì Việt Nam vẫn phải mua của Pháp.
Đối với giao thông vận tải, xây dựng hệ thống giao thông hiện đại, vừa phục vụ làm
ăn lâu dài, vừa nhằm mục đích quân sự.
Ngoài ra chúng còn tiến hành chính sách khai thác để cướp đoạt tài nguyên, bóc lột
nhân công rẻ mạt, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của tư bản Pháp, độc quyền về
kinh tế để dễ bề vơ vét, độc hành về thuế và phát hành giấy bạc, duy trì hình thức bóc lột
phong kiến, kìm hãm nền kinh tế Việt Nam trong vòng lạc hậu, làm cho kinh tế nước ta
phụ thuộc vào kinh tế Pháp.
Đặc biệt hơn là chúng độc quyền về muối, rượu và thuốc phiện. Đối với muối là một
trong nhứng thứ nhu yếu phẩm, đặc biệt lại là một sản phẩm quan tọng trong miếng ăn
người Việt. Chính vì thế đối với người Việt Nam, muối trở thành một sản phẩm vô cùng
quan trọng không khác gì gạo. Hơn nữa, nước ta không có mỏ muối. Chỉ ở một số vùng
biển nhất định ở nước ta mới có khả năng sản xuất. Những yếu tố này đã khiến cho muối
trở nên khan hiếm ở trên thị trường. Biết được những yếu tố này, các nhà làm chính sách
thuế khoá trong chính quyền Pháp nghĩ ngay đến biện pháp phân phối độc quyền muối.
Qua chính sách đánh thuế bất nhân này, chúng đã vơ về ngân quỹ của Pháp một khoản
tiền khổng lồ để có thể đủ trả lương cho 50% công chức ở Đông Dương. Đối với rượu,
trong thực tế rượu là thứ gắn bó với nếp sống văn hoá của người Việt dù ở bất kì xã hội
văn minh hay lạc hậu. Biết rõ tính cách quan trọng của rựou trong nếp sống văn hoá của
người Việt Nam là vậy, với chủ trương cố hữu nắm trọng quyền kiểm soát tất cả mọi
ngành sinh hoạt trong xã hội, Giáo Hội La Mã và thực dân Pháp bèn quyết định nắm độc
quyền sản xuất và phân phối rượu, rồi cưỡng bách nhân dân ta hàng năm phải tiêu thụ số
lượng rượu theo đúng chỉ tiêu mà chúng đề ra. Với việc nắm trong tay độc quyền về sản
xuất rượu trong nước, thực dân Pháp không chỉ thu về lợi nhuận hàng năm, mà còn có
khả năng khống chế và đầu độc nhân dân ta. Đối với thuộc phiện là một sản phẩm có tác
hại vô cùng nguy hiểm cho cả người sử dụng nói riêng và mọi người xung quanh nói
chung. Thế nhưng, từ khi dân ta rơi vào ách thống trị, Pháp chủ động nhập cảng, thiết lập
các cơ sở chế biến, tổ chức hệ thống phân phối, khuyến khích mở các tiệm hút và tiệm
bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buôn bán sản phẩm này. Như
vậy là chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi cho khá nhiều người mà đa số thuộc thành
phần khá giả dễ dàng a dua đua đòi rồi sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả
cuộc đời. Nhìn rộng ra, nếu quốc gia có quá nhiều người nghiện hút thuốc phiện như vậy,
thì dân nước sẽ không còn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự
tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh
lệ thuộc nước ngoài. Tuy nhiên, thiết nghĩ rằng, ngoài chủ trương làm tiêu tan ý chí đấu
tranh của dân tộc Việt Nam, Pháp còn có chính sách độc quyền nhập cảng lậu và phân
phối thuốc phiện vừa để lấy tiền chi phi cho bộ máy cai trị tại Đông Dương, vừa để trả
lương hậu hĩnh cho công chức người Pháp trong bộ máy cai trị này với mục đích khích lệ
họ tích cực thẳng tay đàn áp và bóc lột dân ta chế và đầu độc nhân dân ta.
Về văn hoá – xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân;
dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu... Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai
trị thực dân ở Đông Dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục
nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu...
chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập” .
Pháp tiến hành chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhiều nhà tù hơn trường học, chúng
dung túng duy trì các hủ tục lạc hậu. Hệ thống giáo dục mới sau hai lần cải cách, đến năm
1917 đã thực sự trở thành “Pháp hoá” gồm có ba cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng và
đại học. Ở cấp tiểu học học sinh sẽ theo học trong 5 năm. Nhưng với mục đích hạn chế
việc đến trường của thanh thiếu niên Việt Nam, học sinh sau khi học xong ba năm bậc sơ
đẳng phải thi lấy bằng “sơ học yếu lược” rồi mới được học tiếp hai năm còn lại của bậc
tiểu học và thi tốt nghiệp. Trong ba năm học đầu tiên đó, học sinh phải học bằng tiếng
Pháp. Hơn nữa, chính quyền thuộc địa lại quy định rất chặt chẽ về hạn tuổi vào học ở các
cấp học nên càng góp phần gạt bỏ số học sinh muốn theo học. Nội dung chương trình
giảng dạy của hệ thống giáo dục này, thực dân Pháp đã loại trừ những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp”
nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần yêu nước và ý
thức về số phận của người dân mất nước, nô lệ để từ đó phục vụ đắc lực cho công cuộc
thống trị của thực dân.
Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách đầu
độc, truỵ lạc hoá đối với người dân, đặc biệt là thanh niên với mọi thủ đoạn. Những thói
hư tật xấu được chính quyền các cấp ra sức dung dưỡng. Nạn cờ bạc được khuyến khích
bằng cách cho mở các sòng bạc để thu thuế. Ngoài những sòng bạc công khai có tính chất
thường xuyên, tổ chức quy mô ở Chợ Lớn, Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai còn
có nhiều sòng bạc kín được tổ chức ở các dịp chợ phiên, ở những vòng đua ngựa ở Hà
Nội, Hải Phòng, Sài Gòn..
Tệ nạn uống rượu không bị hạn chế mà thậm chí nhân dân còn bị bắt phải uống một loại
rượu nặng độ do hãng rượu độc quyền Phông ten sản xuất trên cả nước. “Cứ 1.000 làng
thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số 1.000 làng đó lại
chỉ vẻn vẹn 10 trường học... Hàng năm người ta cũng đã tặng từ 23 đến 24 triệu lít rượu
cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con”2.
Thuốc phiện đã trở thành một công cụ hữu hiệu để đầu độc người dân, đặc biệt là giới
trẻ. Chúng mở các cơ quan thu mua và các công ty bán thuốc phiện một cách công khai.
Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh trích đăng bức thư của Toàn
quyền Đông Dương Xarô gửi viên Công sứ dưới quyền: “Tôi trân trọng yêu cầu ông vui
lòng giúp đỡ những cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý bán lẻ
thuốc phiện và rượu... Để tiến hành việc đó tôi xin gửi ông một bản danh sách những đại
lý cần đặt trong các xã đã kể tên...” 3 Chính quyền các cấp đã tìm mọi cách để ép các viên
chức từ công sứ cho tới các nhân viên văn phòng tăng mức tiêu thụ rượu và thuốc phiện
lên mức cao nhất có thể.
Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp dung túng và trở nên phổ biến ở các thành
phố lớn... Ở nông thôn và miền núi, các hủ tục về ma chay cưới xin còn tồn tại, nạn bói
toán, đồng bóng, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề.
2,3 Trần Thanh Giang, (21/02/2013), Chính sách nô dịch về văn hóa của thực dân Pháp và một số trào lưu văn hóa
trước năm 1945 ở Việt Nam,
link truy cập: http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/340-Chinh-sach-no-dich-ve-van-hoa-
cuathuc-dan-Phap-va-mot-so-trao-luu-van-hoa-truoc-nam-1945-o-Viet-Nam 3
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã
hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc các giai cấp và hình thành các mâu thuẫn cơ bản rõ rệt như sau:
Giai cấp địa chủ: cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân, đây là giai cấp
bị bóc lột nặng nề nhất. Các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân
phận là người dân mất nước và bị thực dân Pháp áp bức nên họ đều căm phẫn bọn thực
dân. Do đó, trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, mà lúc này đã nảy sinh mâu thuẫn càng
gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam,
bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của
giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay
sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân: ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp,
giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài Gòn,
Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân
từ giai cấp nông dân, nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi
hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp
nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc
điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là: “ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc
Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Giai cấp tư sản Việt Nam: bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp... Ngay
từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp vả tư sản người Hoa cạnh tranh
chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu
ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm
nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp
tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những
người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại
chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực
lượng có tinh thần cách mạng cao.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đă tác động mạnh mẽ đến xã hội
Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra
đời của hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác
nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực
dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó
mâu thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn
lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong
kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó,
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước yêu cầu của lịch sử, phong trào đấu tranh Pháp trước khi có Đảng diễn ra
mạnh mẽ. Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885 – 1896), nhiều
cuộc khởi nghĩa đã diễn ra sôi nổi rộng khắp và thể hiện tinh thần quật cường chống
ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân khi triều đình phong kiến đã đầu hàng. Nhưng ngọn
cờ phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hơn một cách rộng rãi, toàn
thể các tầng lớp nhân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn
quốc nên cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại năm 1896 là lúc chấm dứt vai trò
lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước Việt Nam. Phong trào tự
phát của nông dân Yên Thế (Bắc Giang) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, đây là cuộc đấu
tranh anh dũng cuả nông dân Việt Nam kéo dài gần 30 năm, ghi mốc son trong lịch sử
đấu tranh thực dân Pháp. Sự bền bỉ, ngoan cường của phong trào thể hiện sức mạnh to
lớn của nông dân nhưng phong trào vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến” không có khả
năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
nên cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp. Ngoài ra còn có các phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu
(1867 – 1940) tổ chức, lãnh đạo và xu hướng cải cách do Phan Châu Trinh (1872 – 1926)
đề xướng. Nhìn chung các phong trào yêu nước trước khi có Đảng đều biểu dương tinh
thần yêu nước, bất khuất lúc bấy giờ của dân tộc Việt Nam nhưng hầu hết đều thất bại do
các phong trào đều yêu nước từ các lập trường phong kiến không có đường lối lãnh đạo
đúng đắn do giai cấp phong kiến, địa chủ không còn khả năng dẫn dắt nhân dân thực hiện
sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Đồng thời, các phong trào yêu nước theo
khuynh hướng tư sản do đường lối chính trị không rõ ràng, nhất là không biết dựa vào
quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa trên uy tín cá nhân nên không thể tạo sức mạnh
tổng hợp, không có sự thống nhất trong những người lãnh đạo phong trào, chính vì vậy
nên khi người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
1.1.2 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và sự thành lập Đảng
a. Sự ra đời của phong trào yêu nước vô sản
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trước cảnh lầm than của đất nước và dân tộc, các
phong trào cứu nước theo các lập trường phong kiến, dân chủ tư sản, đã diến ra quyết liệt
nhưng không thành công. Việt Nam lâm vào cảnh khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước: mất phương hướng ở hiện tại và mờ mịt ở tương lai. Bởi, hệ tư tưởng phong kiến
và hệ tư tưởng tư sản không phải là con đường phù hợp cho cách mạng nước ta.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc quyết chí ra đi tìm đường cứu
nước với mục tiêu: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc ta
được độc lập”. Bằng chính quá trình xâm nhập vào thực tiễn: lao động kiếm sống và hoạt
động cách mạng, bằng chính quá trình từ vô sản hoá chính mình đã giúp Người hiểu rõ
hơn về bản chất kẻ thù (khác với tiền bối). Người đã tìm hiểu về Cách mạng tư sản Anh,
Cách mạng tư sản Pháp rồi Mĩ nhưng Người thấy rằng cuộc cách mạng ấy đều “không
đến nơi”, “không triệt để” bởi cuộc cách mạng ấy không đáp ứng được nhu cầu giải
phóng các tầng lớp nhân dân lao động mà chỉ đem lại quyền lợi cho giai cấp tư sản. Trên
con đường tìm kiếm đó, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận ánh sáng cách mạng từ trong bản
Soạn thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I.Lenin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút vì tính
chất cách mạng triệt để của nó. Người đi đến khẳng định “Muốn cứu nước, giải phóng
dân tộc, không còn còn đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
b. Sự chuẩn bị về tư tưởng – chính trị và tổ chức việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Về mặt tư tưởng và chính trị, Người đã viết bài đăng các báo: “Người cùng khổ” do
Người sáng lập, báo “Nhân đạo” – cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp, báo
“Đời sống công nhân” – tiếng nói nói của giai cấp công nhân, báo “Sự thật” của Liên Xô,
báo Thanh Niên (Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội). Các tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh” mang tên Người. Qua nội dung các bài báo
và các tác phẩm đó, Người tập trung lên án chế độ đế quốc, chủ nghĩa thực dân nói chung
và chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng. Người vạch trần bản chất xâm lược, phản động,
bốc lột đàn áp tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Bằng những dẫn chứng cụ thể, sinh động,
Người đã tố cáo tước dư luận Pháp và thế giới về tội ác tày trời của thực dân Pháp đối với
nhân dân các nước thuộc địa.
Về mặt tổ chức, sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt
Nam Người cũng khẳng định phải “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết
họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Vì vậy cuối 1924, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở về Quảng Châu để tìm hiểu hoạt động của người yêu
nước Việt Nam tại đây.
Tháng 2/1925, Người thành lập “Cộng sản đoàn” với 9 thành viên. Sau đó 6/1925,
Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nòng cốt là Cộng sản đoàn, tổ
chức có tính chất cách mạng và quần chúng rộng rãi. Hộ tổ chức các lớp huấn luyện
chính trị do lanh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước lựa chọn và
đưa một số thanh niên sang Quảng Châu để bồi dưỡng, đào tạo về lý luận chính trị. Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc,
thành lập chính quyền công – nông – binh, phát triển sản xuất và xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Với những hoạt động đó, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin, luận điểm về giải phóng dân tộc và tổ chức, vận động nhân dân đấu
tranh, khơi dậy tinh thần yêu nước làm cho dân chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ.
c. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III tức là Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập. Người trở thành người Cộng sản
đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập
trường chính trị của Người: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường
nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.
Từ năm 1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin,
chuẩn bị về lý luận chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Người nhấn
mạnh muốn thành công thì phải có Đảng chân chính lãnh đạo, hệ tư tưởng tiên tiến dẫn
đường – tư tưởng Mác-Lênin. Cuối năm 1929, trước nhu cầu cấp bách của phong trào
cách mạng trong nước phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, Nguyễn Ái Quốc
đã chủ động để tiến hành tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời
Từ 6/1 đến 7/2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất
Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc. Hội nghị quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng
(Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. 1.1.2 Nội dung
Nội dung của Sách lược vắn tắt như sau:
“1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác
xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên,
Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới (1) làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng
một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp, trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp.”4
Nội dung của Chánh cương vắn tắt của Đảng như sau:
“Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh
sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ
một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp
nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về
phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế
4 Nguyễn Ái Quốc, (02/1930), Sách lược vắn tắt, Link truy cập: https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/van-kien-tu-
lieu/chanh-cuong-dau-tien-cua-dang-ta-717949
quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
A. Về phương diện xã hội thì:
a) Dân chúng được tự do tổ chức.
b) Nam nữ bình quyền, v.v..
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
B. Về phương diện chính trị:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra chính phủ công nông binh.
d) Tổ chức ra quân đội công nông.
C. Về phương diện kinh tế:
a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý.
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo.
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo.
e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp.
f) Thi hành luật ngày làm 8 giờ.”5
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện cô động các luận điểm
cách mạng cơ bản, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa và chỉ rõ
5 Nguyễn Ái Quốc, (2/1930), Chánh cương vắn tắt của Đảng, link truy cập: https://kllct.dlu.edu.vn/vi/tai-lieu-tham-
khao-2785/chanh-cuong-van-tat-cua-dang-1930-3ed1e
mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân
xâm lược; xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt
Nam. Cương lĩnh đã xác định: chống đế quốc, phong kiến là nhiệm vụ để giành độc lập
cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày.
Về phương diện xã hội, Chánh cương khái quát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là được tự do, nam nữ bình quyền, giáo dục…
Về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh
đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực thể hiện sự thấm
nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Con đường phát triển chỉ có thể là cách mạng chứ không thể là cải lương,
thỏa hiệp. Xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của thế giới, đề cao đoàn kết
quốc tế với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đấu tranh vì lợi ích dân tộc.
1.2.1 Tính thực tiễn
Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản
dân quyền là chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày
có ruộng. Xuất phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối
quan hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó
chặt chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính trị
đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Tư
tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các lực
lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ đều được
Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng do công nông làm nòng cốt.
Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn tắt và Lời kêu
gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng
lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế
quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh).
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (04/06/20211), Bản lĩnh độc lập và tư duy sáng
tạo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, truy cập từ:
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ban-linh-doc-lap-va-tu-duy-sang-tao-cua-
nguyen-ai-quoc--ho-chi-minh-tren-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-73763.html 3.
Nguyễn Ái Quốc, (02/1930), Sách lược vắn tắt, Link truy cập:
https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/van-kien-tu-lieu/chanh-cuong-dau-tien-cua-dang-ta- 717949
4. Nguyễn Ái Quốc, (02/1930), Chánh cương vắn tắt của Đảng, link truy cập:
https://kllct.dlu.edu.vn/vi/tai-lieu-tham-khao-2785/chanh-cuong-van-tat-cua-dang-1930- 3ed1e