


















Preview text:
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI
ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI LÀ BƯỚC NGOẶT LỊCH
SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM. NHIỆM VỤ CỦA SINH
VIÊN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
NỘI DUNG ......................................................................................................... 4
CHƯƠNG I. ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI ..................... 4
1.1. Tình hình quốc tế và trong nước .................................................. 4
1.2. Đường lối đổi mới ............................................................................... 6
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI HIỆN NAY ....................................................................................... 13
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 18 2 MỞ ĐẦU
Quyết định đổi mới tại Đại hội VI (tháng 12.1986) của Đảng Cộng sản
Việt Nam với nội dung quan điểm đổi mới đề ra, được Đại hội VII, VIII, IX, X,
XI, XII và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng bổ sung, cụ thể
hóa và phát triển. Quyết định đổi mới đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho
Đảng Cộng sản và cho đất nước ta trong tình hình lúc bấy giờ, đường lối đổi
mới đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực tiễn cuộc sống kiểm
nghiệm, khẳng định là đúng đắn. Đường lối đó là cả một quá trình Đảng ta tìm
tòi, nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta trên cơ sở vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu có phê phán, chọn lọc kinh nghiệm của
cách mạng thế giới, tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, đặc biệt
là các nước trong khu vực. Khẳng định quyết định đổi mới đất nước của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI là một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Trên nền tảng giá trị khoa học và hiện thực, trong công cuộc đổi mới này, sinh
viên cần phải nhận thức rõ và hành động thực tiễn tốt hơn nữa, góp phần vào
thực hiện hóa đường lối đổi mới của Đảng và xây dựng một xã hội phồn vinh. 3 NỘI DUNG
CHƯƠNG I. ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI
1.1. Tình hình quốc tế và trong nước
Nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và trong nước
diễn biến hết sức phức tạp:
Trên bình diện quốc tế, mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ
nghĩa bộc lộ những khuyết tật. Nhằm khắc phục những hạn chế, tìm kiếm giải
pháp khắc phục những mâu thuẫn vốn có của mô hình chủ nghĩa xã hội, nhiều
đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa chủ trương tiến hành
công cuộc cải cách, mở cửa và cải tổ.
Lúc này chiến tranh lạnh kết thúc vì thế xu thế đối đầu trở thành đối
ngoại. Toàn cầu hóa trở thành xu thế khách quan. Chủ nghĩa tư bản còn tiềm
năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, bất công.
Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở
nên sâu sắc. Khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, xuất hiện hình
thái kinh tế mới của thời đại công nghệ thông tin là kinh tế tri thức, tác động sâu
sắc đến sự phát triển của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Các nước đang
phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp
chống tình trạng đói nghèo, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược
để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia - dân tộc. Nhân dân thế giới đứng trước
những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Các 4
nước cần thiết phải hợp tác với nhau để chống nguy cơ chiến tranh, khủng bố,
dịch bệnh, biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường sinh thái.
Công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa diễn ra trong điều kiện các nước với chế độ xã hội và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Trên thực tế, cơ hội, thuận lợi đan xen với
những khó khăn, thách thức. Đổi mới và phát triển đất nước đòi hỏi phải giải
quyết những mối quan hệ lớn, đồng thời, nhạy bén nắm bắt những vấn đề mới
nảy sinh bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Ở trong nước, Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Sản xuất kém phát triển, các chỉ tiêu cơ bản như: lương thực, thực
phẩm, điện, than, xi măng, phân bón, gỗ, vải, hàng xuất khẩu không đạt, hiệu quả sản xuất thấp.
Bên cạnh đó, phân phối, lưu thông rối ren do Nhà nước áp dụng chính
sách “ngăn sông, cấm chợ”. Các công cụ đòn bẩy kinh tế như chính sách về giá
cả, tiền tệ, tài chính, tiền lương... đều không phát huy tác dụng, dẫn đến lạm
phát gia tăng mạnh (trên 300% năm 1985 và lên tới 774,7% năm 1986). Những
khó khăn về sản xuất và phân phối, lưu thông dẫn đến mất cân đối lớn trong nền
kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nguyên vật
liệu, giữa thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Trong xã hội, xuất hiện nhiều tiêu cực, pháp luật, kỷ cương không
nghiêm. Một số cán bộ, công chức, viên chức nhà nước lộng quyền, tham
nhũng. Đời sống của nhân dân, nhất là nông dân, công nhân, công chức, viên
chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. Nhiều nhu cầu chính đáng của
người dân như ăn, ở, thuốc men không được đáp ứng. Trước tình hình đó, niềm 5
tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng.
Lợi dụng những khó khăn của Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức kích
động, lôi kéo người vượt biên trái phép. Trong xã hội xuất hiện làn sóng người
vượt biên trái phép đến các nước, các vùng trong khu vực như Malaisia, Hồng
Kông để từ đó đi tiếp những nước khác.
Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải ổn định kinh tế - xã hội, tùng bước đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng. Đó là tiền đề để đưa đất nước phát triển, thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu và tình trạng kém phát triển. Yêu cầu cấp thiết trước tình
hình đó là phải sửa đổi cơ chế, chính sách, cơ cấu kinh tế trên cơ sở đổi mới tư
duy lý luận, nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những đặc điểm riêng của đất nước, khắc
phục những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng
vội và cả những biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong tư duy, quan điểm và hoạt động thực tiễn.
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông nối liền một
dải, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong niềm vui chiến thắng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
1.2. Đường lối đổi mới
Trải qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn kết hợp với đổi mới tư
duy lý luận, quan điểm và chính sách đổi mới của Đảng đã từng bước hình
thành và thực hiện từng phần. 6
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp
tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội đã thẳng thắn chỉ
ra những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong những năm 1975-1985, trong đó, có cả những sai lầm, khuyết
điểm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc những thành công và hạn chế sau 10 năm cả nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Nội
dung đường lối đổi mới được xác định trên những vấn đề cơ bản:
* Đổi mới cơ cấu kinh tế: Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của
V.I.Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ” [6, tr.389-390]. Các thành phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc
doanh, tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế tự nhiên tự túc, tự cấp. Nhận thức và vận dụng đúng quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện
3 chương trình kinh tế lớn.
* Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, hành chính, bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch
hóa với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là
“xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật
khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế” [1, tr.63]. Trong cơ chế
quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng thứ nhất và sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai. Thực chất của cơ chế mới về quản lý 7
kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
* Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý: điều hành của Nhà nước về kinh
tế: Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thành một thể
thống nhất, có sự phân biệt rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy
cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ: “Phân biệt rõ chức năng quản lý hành
chính - kinh tế của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương với chức
năng quản lý sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở” [6, tr.398],
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, thực hiện cơ chế
“Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chi bằng đạo lý” [6, tr.455].
* Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại: Trên cơ sở mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua
việc công bố chính sách khuyến khích đầu tư với nhiều hình thức, nhất là những
ngành đòi hỏi kỹ thuật cao và làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện
cho người nước ngoài và Việt kiều về nước đầu tư, hợp tác kinh doanh.
* Đổi mới chính sách văn hóa - xã hội: Ban hành các chính sách xã hội cơ
bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả
năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Chú trọng phát huy yếu tố
con người và lẩy việc phục vụ con người là mục đích cao cả nhất.
* Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng: Trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận,
vận dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc
bảo thủ trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy
kinh tế trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin, kế thừa tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phải nắm vững thực tiễn và không ngừng nâng
cao trình độ trí tuệ và đổi mới phong cách, phương pháp làm việc. 8
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước, Ðại hội
nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm. Ðổi mới tư duy, nhận
thức rõ hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những
thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm
đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn,
Ðại hội đề ra đường lối đổi mới.
Ðại hội xác định: Ðảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát
triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn
đề mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Ðể tăng
cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Ðảng phải đổi mới
về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức; đổi
mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
Ðại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Ðiều lệ
Ðảng cho phù hợp tình hình mới.
Ðổi mới toàn diện thật sự là ý Ðảng, lòng dân. Nghị quyết Ðại hội VI
vào cuộc sống là quá trình thể nghiệm, tìm tòi, từng bước cụ thể hóa, phát triển
và tổ chức thực hiện những định hướng lớn. Ðảng và Nhà nước vừa tập trung
giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách, giữ vững ổn định chính trị,
vừa thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chủ trương, chính
sách đổi mới bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân
dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát
huy, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên.
Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt
trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đã tìm lối thoát
cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bằng việc đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ 9
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới là sản phẩm và tư duy khoa học
của toàn Đảng, toàn dân, thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng.
Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được khởi xướng trên
những cơ sở khách quan, khoa học, trước bối cảnh quốc tế có những chuyển
biến hết sức sâu sắc và nhanh chóng. Đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và
ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của nó, điều đó cho thấy tinh thần
độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Đường lối đổi mới của Đại hội VI là kết quả của sự khảo
nghiệm thực tiễn sinh động và sự đổi mới tư duy lý luận, trước
hết là tư duy kinh tế. Đổi mới nhằm nhận thức đúng đắn thực
tiễn của đất nước, thật sự tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, đề
ra đường lối, chính sách thiết thực, có hiệu quả. Đổi mới là nhận
thức đúng đắn hơn những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen,
V.I.Lê-nin và Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa..
Với đường lối đổi mới và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, với sự quản lý,
điều hành của Nhà nước, sự phấn đấu của toàn dân, toàn quân, tranh thủ cơ hội
và vượt qua những thách thức 35 năm qua, đất nước đã đạt những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. 10
35 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát
triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến
sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn
dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Đã chuyển đổi thành công cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Từ nền kinh
tế tập trung, kế hoạch hóa, quản lý bằng biện pháp hành chính, bao cấp, kinh tế
hiện vật, khép kín chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, kinh tế tăng trưởng nhanh, đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hội (1996), từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát
triển có mức thu nhập trung bình (2008), GDP và thu nhập bình quân đầu người
tăng hơn 20 lần. Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, vận hành đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.
Không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo
và cầm quyền của Đảng được tăng cường, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều thành công với việc làm rõ các đặc trưng của
Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp, xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là Hiến pháp
1992 và Hiến pháp 2013, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thực hiện
tốt hơn chức năng giám sát và phản biện xã hội. Đổi mới hệ thống chính trị
được kết hợp chặt chẽ với đổi mới kinh tế, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. 11
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và củng cố vững chắc đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện có kết quả các chính sách xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội.
Các chính sách về lao động, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe,
bảo hiểm và cứu trợ xã hội, chính sách ưu đãi với người có công được thực hiện
tốt hơn, bảo đảm an sinh xã hội. Các Chương trình 135 (1998), 134 (2004), 304
(2008) đã hướng vào hỗ trợ những xã nghèo, hộ nghèo, huyện nghèo. Thực hiện
thành công tám mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Đã giảm tỷ lệ hộ
nghèo từ 58% (1993) hiện nay còn dưới 4,5%, có 43 triệu người thoát nghèo.
Không ngừng phát triển giáo dục, văn hóa, khoa học, công nghệ, xây dựng con
người. Đang tập trung thực hiện hai chương trình lớn: Chương trình quốc gia
giảm nghèo bền vững và Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đến
nay đã có 11 huyện, 1.300 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Đã tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn bạo loạn, lật đổ và “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Kết hợp chặt
chẽ chiến lược quốc phòng, an ninh với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đối
ngoại. Chú trọng xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đã thực hiện nhất quán và thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước, vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự 12
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đến
nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 186 nước, quan hệ đối tác chiến
lược với 15 nước, tham gia có trách nhiệm trong các tổ chức quốc tế và khu
vực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tạo dựng môi trường hòa bình, hữu
nghị, hợp tác để xây dựng và phát triển đất nước. Những thành tựu to lớn trên
tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong những năm
tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử để chúng ta vững bước
trên con đường xã hội chủ nghĩa. Hơn 30 mươi năm thực hiện đường lối đổi
mới, mặc dù còn nhiều vấn đề mới nảy sinh cần tiếp tục thử nghiệm và hoàn
thiện, song con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác
định rõ hơn. Nền chính trị ổn định, kinh tế tiếp tục tăng trưởng, kết cấu hạ tầng
xây dựng đồng bộ và ngày càng khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của
đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện. Điều đó cho phép chúng ta hoàn
toàn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, với quyết định mang tính chất bước ngoặt cùng với đường lối đúng đắn, khoa học và sáng tạo.
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Quyết định đổi mới và đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi
ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực
thực hiện là do Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp
với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra
những chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình
hình thế giới và trong nước thay đổi. Đối với sinh viên – thanh niên – hàng ngũ 13
tri thức trẻ hiện nay, lực lượng xung kích trong nghiên cứu khoa học, sáng tạo,
tình nguyện và tham gia các hoạt động giao lưu, hội nhập cần phải nỗ lực phấn
đấu, tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức góp phần thực
hiện đường lối đổi mới của đất nước ta hiện nay.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, sinh viên cần phải kiên trì thực hiện
đường lối và mục tiêu đường lối đổi mới, tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao
trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng, kiên định và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn
học tập và cuộc sống, đồng thời phải luôn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sinh viên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng
yêu nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đổi mới đất nước, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh;
tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ
Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đấu tranh
chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực,
tệ nạn xã hội, tham nhũng…
Sinh viên cần tích cực học tập và tự học tập, trau dồi vốn kiến thức, chủ
động tìm kiếm thông tin, để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học,
kỹ thuật, tay nghề. Trong thời kỳ đổi mới, sinh viên nước ta cần nâng cao trình
độ học vấn, tay nghề, khả năng thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị
trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Sinh viên phải tích
cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương châm: người sinh viên nào
cũng phải học, ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học; người sinh viên nào
cũng phải xác định tham gia học tập thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân. 14
Sinh viên phải biết giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống, nâng cao phẩm
chất chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và phát huy những thế mạnh
của mình để giúp cho việc phát triển Đảng trong sinh viên ngày càng mạnh và
đạt được hiệu quả cao nhất.
Sinh viên phải tích cực xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân, phải tích cực tham gia xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vững chắc. Đặc biệt, sinh viên hiện nay cần tự giác tham gia
vào các Hội của Đoàn thanh niên, phấn đấu trở thành Đoàn viên, đảng viên của
Đảng và hội viên của các tổ chức quần chúng nhân dân.
Sinh viên cần phải tích cực tham gia xây dựng môi trường nhà trường, xã
hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Đồng thời, phải
xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự
nguyện, tự giác tham gia các thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt
động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Sinh viên có trách nhiệm với chính bản thân và những người xung quanh.
Có trách nhiệm với công việc mình được giao, hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình, không để công việc bị chậm trễ, trì hoãn làm ảnh hưởng tới công việc của cả tập thể.
Cuối cùng, trong công cuộc đổi mới và bối cảnh thế giới và trong nước có
nhiều tác động tiêu cực, sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập
quốc tế; tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại
giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ
động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn
hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và 15
ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa
và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, lợi dụng những kẽ hở trong quá trình
đổi mới đất nước, các thế lực thù địch nhăm nhe nhằm mục đích âm mưu phá
hoại sự nghiệp đổi mới của đất nước, mà sinh viên lại là những đối tượng dễ bị
lôi kéo, dễ dao động nhất, bởi các thế lực thù địch đã luôn coi sinh viên là đối
tượng chủ yếu để tuyên truyền, chống phá. Nếu như đối với các nước xã hội chủ
nghĩa trước kia, các thế lực thù địch lợi dụng các hình thức truyền thống như
tuyên truyền “rỉ tai” với mục đích “mưa dầm thấm lâu” bằng tờ rơi, báo chí,
phát thanh… thì ngày nay, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng mạng xã hội
để tấn công vào sinh viên.
Nhận thấy, sinh viên, thanh niên là lực lượng chủ yếu sử dụng internet và
mạng xã hội, các thế lực thù địch đã ra sức đăng tải các bài viết, blog, hình ảnh,
clip… trên các kênh Youtube, mạng xã hội để đưa các thông tin bịa đặt, xuyên
tạc, vu khống. Với cách kiểu “rỉ tai”, kích động, “sử dụng đài phát thanh, truyền
hình, tạp chí tiếng Việt trong đó có nội dung rất phản động để tuyên truyền,
chống phá cách mạng Việt Nam, đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, truyền
đơn, băng hình… có nội dung phản động, đồi trụy vào Việt Nam, chỉ đạo bọn
cơ hội viết nhiều bài xuyên tạc, bôi nhọ tình hình Việt Nam, cho nên sinh viên
cần phải kiên định với lập trường của bản thân, với mục tiêu chính trị. Luôn tỉnh
táo, nâng cao cảnh giác, phòng chống và tố giác những người, đối tượng có
hành vi chống phá, đưa ra những luận điệu xuyên tạc con đường đổi mới đất
nước và xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Mỗi sinh viên phải có trách nhiệm với lời nói, hành động của chính mình.
Làm chủ những phát ngôn của mình, nhất là những vấn đề nhạy cảm cần đảm
bảo tính chính xác của thông tin. Mỗi sinh viên phải có trách nhiệm với lời nói,
hành động của chính mình. Trước khi phát ngôn hay hành động phải có sự cân 16
nhắc, suy nghĩ, bởi mỗi lời nói, hành động đều đại diện cho con người, phẩm
chất của chính bản thân người đó, hơn nữa còn là tiếng nói, bộ mặt đại diện cho
một tập thể mà cá nhân thuộc về như trường, lớp, cơ quan, đất nước. Nếu lời
nói, hành động đó có yếu tố tiêu cực, phản động, không đúng sự thật, không
đúng với thuần phong mỹ tục sẽ gây ảnh hưởng tới danh dự, hình ảnh của bản
thân cũng như hình ảnh của tập thể, của đất nước Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. KẾT LUẬN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và
quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Quyết định đúng đắn và
đường lối đổi mới của Đại hội đã mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của
cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới. Ðại
hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo chính
trị, tư tưởng, tổ chức. Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Mục tiêu đó đã đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách
lớn lao đối với thế hệ trẻ hôm nay, nhất là đối với sinh viên – thế hệ chủ nhân
của tương lai, của đất nước. Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của Đảng và dân tộc ta trong quá trình đổi mới, mỗi sinh viên Việt Nam hãy ra
sức học tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua
lao động và rèn luyện để hình thành một thế hệ thanh niên sinh viên tân tiến,
xứng tầm đòi hỏi của đất nước và thời đại. 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng
kết 30 năm đổi mới (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Đổi mới ở Việt Nam - Thực tiễn và nhận thức
lý luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Phú Trọng (2009), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
- Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội. 18
8. Ban Tuyên giáo Trung Ương - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dùng cho các trường đại học - Hệ
chuyên lý luận chính trị).
9. PGS.TS Nguyễn Viết Thông (2020), Ý nghĩa lịch sử của các Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng, Trang thông tin hội đồng lý luận Trung ương.
10. Dương Triều (2021), Phát huy tiềm năng trí tuệ của sinh viên Việt Nam
trong công cuộc dựng xây đất nước, Trung ương Hội sinh viên Việt Nam. 19