/18
MỤC LỤC
Phần I ......................................................................................................................... 5
1. do chọn đề tài ............................................................................................. 5
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5
3. Nhiệm vụ của đề tài ......................................................................................... 5
4. Giới hạn của đề i ........................................................................................... 5
5. Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 5
Phần II........................................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TỪ NĂM
1936 ĐẾN NĂM 1939 ........................................................................................... 6
1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................ 6
1.1. Tình hình thế giới ................................................................................... 6
1.2. Tình hình trong nước .............................................................................. 6
2. Chủ trương nhận thức mới của Đảng ...................................................... 6
CHƯƠNG 2. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
CỦA ĐẢNG CSVN TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1941 ....................................... 10
1. Chủ trương chiến lược mới của Đảng ........................................................ 10
1.1. Ba hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.............................. 10
1.1.1. Hội nghị lần thứ 6 ........................................................................... 10
1.1.2. Hội nghị lần thứ 7 ........................................................................... 10
1.1.3. Hội nghị lần thứ 8 ........................................................................... 10
1.2. Nội dung quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược ....................... 11
2. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với chủ trương chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung
ương Đảng (5/1941) .......................................................................................... 12
3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến ợc ..................................... 13
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO
CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG (1939-1941) ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................... 15
1. Chuyển hướng đấu tranh đúng đắn, sáng to ............................................ 15
2. Bài học trong Cách Mạng tháng 8 năm 1945 ............................................ 16
Phần III .................................................................................................................... 18
Phần IV ................................................................................................................... 19
Phần V ..................................................................................................................... 21
2
Phần I
PHẦN MỞ ĐẦU
1. do chọn đề tài
Thông qua quá trình từ chuẩn bị và tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám ta có
thể thấy được quá trình phát triền dần lớn mạnh của Đảng, Nhà Nước cũng
như phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Cũng như
qua đó ta thể thấy được sự tài tình của Bác Hồ của Đảng ta trong quá trình
nắm bắt thời cơ một cách hợp lý trong quá trình chuyển hướng chỉ đạo qua
từng thời kì của cuộc kháng chiến để tiến tới giải phóng cho toàn dân tộc và
xây dựng một chế độ Xã Hôi Chủ Nghĩa ở nước ta.
Sự bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo trong việc hoạch
định đường lối phương pháp cách mạng. Tiếp thu vận dụng luận chủ
nghĩa Mac- Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, có tham khảo những
kinh nghiệm tốt của cách mạng thế giới nhưng không sao chép bất cứ một
mô hình có sẵn nào.
2. Mục đích nghiên cu
Giúp cho sinh viên chúng em nắm vững những nội dung chủ yếu sau:
- Những chủ trương lớn của Đảng thông qua các văn kiện nổi bật trong giai
đoạn 1936-1945:
+Chủ trương của Đảng năm 1936-1939
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 ( tháng 11/1939).
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5/1941).
- Nội dung ý nghĩa của việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng giai
đoạn 1939- 1941.
- Quá trình chuẩn bị đấu tranh giành chính quyền giai đoạn 1941- 1945.
- Bối cảnh lịch sử và quá trình thực hiện Cách mạng tháng Tám .
- Thắng lợi, ý nghĩa bài học kinh nghiệm của cách mạng Tháng Tám.
3. Nhiệm vụ của đề tài
+Phân tích hoàn cảnh lịch sư thế giới và ViệtNam từ năm 1936 đến năm 1939
+Chỉ ra những chủ trương chuyên hướng chiến lược của Đảng CSVN từ 1939-
1941
+ từ đó nêu ra những bài học lịch sử từ sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
Đảng(1939-1941) đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
4. Giới hạn của đề tài
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng CSVN từ 1639 đến 1945, và
những bìa học rút ra cho quá trình đổi mới từ 1991 cho đến nay. Đây là thời kỳ
Đảngnh đạo tiến hành đổi mới toàn diện nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp
thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia làm 3 chương
như sau:
Chương 1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới việt nam từ năm 1936 đến năm 1939
3
Chương 2. Những chủ trương chuyển hướng chiến lược của đảng csvn từ năm
1939 đến năm 1941
Chương 3.i học lịch sử về sự chuyển ớng chỉ đạo chiến lược của đảng
(1939-1941) đối với cách mạng việt nam hiện nay
Phần II
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VIỆT NAM TỪ
NĂM 1936 ĐẾN NĂM 1939
1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1. Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 các nước thuộc
hệ thống bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa bản
ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
Nguy chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền
hòa bình và an ninh quốc tế. Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện và thắng thế một
số nơi như phát xít Hitle Đức, phát xít Phrăngcô Tây Ban Nha, phát xít
Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Chế độ độc tài phát xít là nền
chuyên chế của những thế lực phản động nhất, tàn bạo man nhất. Chúng
tiến hành chiến tranh xâm lược, bành trướng dịch các nước khác. Tập
đoàn phát xít cầm quyền Đức, Italia Nhật đã liên kết với nhau thành khối
“Trục”, ráo riết chuẩn bchiến tranh để chia lại thị trường thế giới và thực hiện
mưu đồ tiêu diệt Liên - thành trì cách mạng thế giới, nhằm hy vọng đẩy lùi
phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ.
Đại hội lần VII- Quốc tế Cộng sản xác định kẻ thù nguy hiểm ngay trước
mắt của giai cấp sản nhân dân lao động thế giới chủ nghĩa phát xít.
Vạch ra nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân nhân dân lao động thế
giới đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hòa
bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi.
6/1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền Pháp, thi hành cải cách tiến bộ
thuộc địa: Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình,
cử Toàn quyền mới, nới rộng quyền tự do báo chí… tạo thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-19331 đã tác động sâu sắc không những
đến đời sống các giai cấp tầng lớp nhân dân lao động, còn đến cả những
nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động
Đông Dương vẫn ra sức vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ
thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình này làm cho các giai cấp tầng lớp tuy quyền lợi khác nhau,
nhưng đều căm tthực dân, bản độc quyền Pháp, đều nguyện vọng
4
chung trước mắt đấu tranh đòi được quyền sống, quyền tdo, dân chủ, cơm
áo hòa bình. Trong lúc này, hệ thống tổ chức của Đảng các sở cách
mạng của quần chúng đã được khôi phục. Mặt khác, Chính phủ Mặt trận bình
dân Pháp ban hành một số chính sách dân chủ lợi cho các thuộc địa. Đây
những yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát triển mới của phong trào
cách mạng nước ta.
2. Chủ trương nhận thức mới của Đảng
Căn cứ vào chỉ đạo của Quốc tế Cộng Sản tại Đại hội VII (7/1935), trước
những chuyển biến của tình hình trong nước thế giới, trong những năm
1936-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp
Hội nghị lần thứ hai (7/1936), lần thba (3/1937), lần thứ (9/1937) lần
thứ năm (3/1938)… đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức hình
thức đấu tranh phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.
Chủ trương đòi quyền dân chủ, dân sinh:
1936 1939: Đòi dân ch dân sinh.
Kẻ thù trước mắt: bè lũ tay sai, bọn phản động.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: tạm gác lại nhiệm vụ chống Pháp,
tạm gác lại khẩu hiệu Độc lập dân tộc người cày ruộng”. Thực
hành khẩu hiệu “ Đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”.
Hình thức tổ chức biện pháp đấu tranh:Mít tinh, biểu tình với các biện
pháp :công khai- nửa công khai, hợp pháp- nửa hợp pháp.
Đoàn kết quốc tế: ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt
trận nhân dân Pháp để cùng nhau chống lại kthù chung bọn phát xít
và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.
Ý nghĩa
- Đánh dấu sự chuyển hướng đầu tiên về chủ trương của Đảng.
- Thể hiện snhạy bén, sáng suốt của Đảng khi tình hình trong nước
thế giới có sự thay đổi.
Ban Chấp hành Trung ương xác định, cách mạng Đông Dương vẫn
"cách mạng sản dân quyền - phản đế điền địa- lập chính quyền của công
nông bằng hình thức Viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa". Song, xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị tổ
chức chưa tới tình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công
nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp thiết trước mắt của
nhân dân ta lúc này tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. vậy, Đàng phải nắm
lấy những yêu cẩu để phát động quần chúng đấu tranh, tạo nền để đưa cách
mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân
Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và tay sai
của chúng.
5
Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phátxít, chống chiến tranh
đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa tay sai, đòi tdo, dân chủ, cơm áo
và hòa bình. Để thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, Ban Chấp
hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các
giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể chính trị, hội tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau, với nòng cốt liên minh công - nông. Để phù kợp với yêu cầu tập
hợp lực lượng cách mạng trong tình hình mới, Mặt trận nhân dân phản đế
được đổi tên thành Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, lập chĩa mũi nhọn đấu tranh vào
bọn phản động thuộc địa tay sai của chúng Đông Dương, đòi các quyền tự
do, dân chủ, dân sinh, thì không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân và Đảng Cộng sản Pháp, "ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp", còn phải
đề ra khẩu hiệu "ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau
chống lại kè thù chung Phátxít Pháp bọn phản động thuộc địa Đông
Dương.
Về hình thức tổ chức biện pháp đấu tranh: Phải chuyển hình thức tổ
chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai
nửa công khai, hợp pháp nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự
quan hvới quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh
bằng các hình thức khẩu hiệu thích hợp. Trong khi tranh thủ mở rộng các
hình thức tổ chức đấu tranh công khai, hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa
công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt
động mật của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa mật công khai, hợp
pháp không hợp pháp và phải đảm bảo sự lãnh đạo của tổ chức Đảng mật
đối với những tổ chức và hoạt động công khai, hợp pháp.
Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế điền
địa:
Nội dung nhận thức:
Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết kết chặt với cuộc cách mạng điền địa.
Cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, xác định vấn đề nào quan trọng hơn để
giải quyết trước, xác định kẻ thù nào là chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực
lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng.
Các Hội ngh lần thứ ba (3-1937) lần thứ (9-1937)
- Điu hơn về công tác tổ chức của Đảng
- Chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức hoạt động để tập hợp
được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa.
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (3-1938) nhấn mạnh vấn đề lập mặt
trận thống nhất dân chủ
+ Ra Tuyên ngôn của ĐCSĐD đối với thời cuộc (3-1939)
+ Tháng 3-1939, ra Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với
thời cuộc. Tháng 7-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản cuốn Tự
chỉ trích của Tổng thư Nguyễn Văn Cừ. Tác phẩm đã phân tích những
6
vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết những kinh nghiệm cuộc vận
động dân chủ của Đảng.
Đây nhận thức mới của Ban Chấpnh Trung ương, phù hợp với tinh thần
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn
chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
Tuy nhiên, hoàn cảnh lúc đó Đảng phải tập trung chỉ đạo đấu tranh đòi các
quyền dân sinh, dân chủ, nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc chưa
thể đặt ra một cách trực tiếp, cho nên quan điểm này chưa trở thành tưởng
chỉ đạo cuộc đấu tranh của dân tộc.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời kỳ này đánh dấu
bước trưởng thành của Đảng về chính trị tưởng, thể hiện bản lĩnh tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, mở ra một phong trào đấu tranh sôi
động trong cả nước: phong trào dân chủ dân sinh 1936-1939.
Xuyên suốt thời kỳ 1936-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã có bước trưởng
thành mới trong nhận thức, thể hiện qua việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ.
7
CHƯƠNG 2. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN HƯỚNG CHIẾN
LƯỢC CỦA ĐẢNG CSVN TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1941
1. Chủ trương chiến lược mới của Đảng
1.1. Ba hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
1.1.1. Hội nghị lần thứ 6
Tại Hội nghị Trung ương sáu, tháng 11/1939, đánh dấu sự trưởng thành của
Đảng về duy chính trịsự chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong công cuộc lãnh
đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trước sphát triển gay gắt của những mâu
thuẫn giữa đế quốc Pháp các dân tộc Đông Dương sau chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ, Hội nghị kịp thời đưa ra những quyết định chiến lược rất quan
trọng về con đường cách mạng của các dân tộc Đông Dương: “Bước đường
sinh tồn của dân tộc Đông Dương không con đường nào khác hơn con
đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm luận da trắng hay
da vàng để giải phóng dân tộc”. Hội nghị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộcn vị
trí hàng đầu, cách mạng ruộng đất mọi vấn đề khác cũng phải phục vụ cho
mục tiêu cao nhất đó. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng
sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương Mặt trận phản đế của từng quốc gia dân tộc Việt,
Miên, Lào. Mặt trận đó sự liên hiệp các dân tộc, các giai cấp tầng lớp
hội, các đảng phái chính trị chống đế quốc Pháp và bọn tay sai của chúng, thực
hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
1.1.2. Hội nghị lần thứ 7
Tại Hội nghị Trung ương bảy, tháng 11/1940, sau khi phân tích tình hình
thế giới ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ Hai tới Đông Dương, Hội
nghị dự đoán: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn
bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: nh đạo cho các dân tộc bị áp bức
Đông Dương trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”. Kẻ thù chính
của nhân dân Đông Dương lúc này phát xít Pháp-Nhật. vậy, Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế lúc này Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít
Pháp-Nhật Đông Dương. Hội nghị chủ trương, đi đôi với việc mở rộng Mặt
trận phản đế, phải lựa chọn những người hăng hái nhất trong các đoàn thể của
mặt trận, tổ chức các đội tự vệ, “trực tiếp trang cho dân chúng”, “tổ chức
nhân dân cách mạng quân”, tiến lên trang bạo động. Ngoài ra Hội nghị
những quyết định quan trọng vkhởi nghĩa Bắc Sơn, và xem xét hoản khởi
nghĩa Nam Kỳ. Những quyết định của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940
đánh dấu sự bổ sung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Hội nghị Trung ương
sáu vạch ra, chuẩn bị điều kiện cho khởi nghĩa võ trang giành chính quyền.
1.1.3. Hội nghị lần thứ 8
Tiến theo xu hướng đó, Hội ngh Trung ương tám, tháng 5/1941 đã bổ sung,
kế thừa hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Hội
nghị Trung ương sáu. Hội nghị Trung ương tám đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của vấn đdân tộc cách mạng giải phóng dân tộc. Sau khi quân Nhật vào
chiếm đóng Đông Dương. Thực dân Pháp và Phát xít Nhật cấu kết nhau áp bức,
bóc lột nhân dân làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Đông Dương đế
8
quốc Pháp Nhật ngày càng gay gắt. Trước tình hình đó, Hội nghị quyết định:
“Khẩu hiệu của Đảng ta trước hết phải làm sao giải phóng cho được các
dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật”. Nhiệm vụ chủ yếu
của Đảng là phải tập hợp tối đa các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng
cứu nước, các n giáo, các dân tộc chống đế quốc Pháp-Nhật. Tất cả quyền lợi
của giai cấp đều phải được đặt dưới quyền lợi dân tộc. Trên cơ sở đó, Hội nghị
nhất trí với chủ trương của Hội nghị Trung ương sáu tạm gác khẩu hiệu ch
mạng ruộng đất chỉ mới thực hiện giảm tô, chia ruộng đất công cho nông
n.
Xuất phát từ chủ trương khơi dậy tinh thần yêu nước ý chí đấu tranh
độc lập, tự do của từng dân tộc Việt, Miên, Lào, Hội nghị quyết định thành lập
Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương và giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào thành lập Mặt trận Cao
Miên độc lập đồng minh Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh; các hội quần
chúng đều lấy tên hội cứu quốc để thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước tham
gia; khi giành độc lập, sẽ xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới thành
lập chính quyền cách mạng của chung toàn thể dân tộc không phải thuộc quyền
riêng của một giai cấp nào.
1.2. Nội dung quyết định chuyển hướng ch đạo chiến lược
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng
11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941). Trên sở nhận định khả
năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai căn cứ vào tình hình cụ thể
trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược như sau:
Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Ban chấp hành Trung ương nêu máu thuẫn chủ yếu nước ta đòi hỏi phải
được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít
Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng giảm tô,
giảm tức"
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực
lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt
Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi
tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu
quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên
9
cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt
thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang lả nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực
lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến
xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc
"chuẩn bị khởi nghĩa nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta dân ta trong giai
đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng trang Bắc Sơn và chủ
trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức
trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển sở cách
mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở
nước ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào hội
thuận tiện hơn cả đánh lại quân thù... với lực lượng sằn có, ta thể lãnh
đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng thể dành
thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng
nhằm nâng cao lực lượng tổ chức lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương
gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận,
quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
2. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với chủ trương chuyển hướng ch
đạo chiến lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của
Trung ương Đảng (5/1941)
Ngày 8-2-1941 Nguyễn ái Quốc-Hồ Chí Minh về nước vùng Pắc (Hà
Quảng-Cao Bằng).
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 họp Pắc Bó từ ngày
10 đến 19/5/1941, do Nguyễn ái Quốc chủ trì.
Với cương vị là người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam đại biểu Quốc
tế cộng sản, Người đã cùng các đại biểu tham dự Hội nghị phân tích tình hình
thế giới tình hình Đông Dương trong hoàn cảnh chiến tranh, đề ra chủ trương
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng , bao gồm những nội dung sau:
Dự đoán sự phát triển của tình hình thế giới: Nếu cuộc chiến tranh đế
quốc lần trước đra Liên một nước hội chủ nghĩa thì cuộc chiến tranh
lần này sđẻ ra nhiều nước hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều
nước thành công”.
Nhận định vphong trào cách mạng Đông Dương: “Mặc sự đàn áp
liên miên sức tàn bạo của giặc Pháp, phong trào cách mạng vẫn sôi nổi một
cách mạnh mẽ....”. Đặc biệt hơn cuộc khởi nghĩa trang của nhân dân tỉnh
Bắc Sơn và Nam Kỳ cùng anh em binh lính Đô Lương.
Những chủ trương của Đảng: Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước
mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Các dân tộc Đông Dương hiện nay
bị dưới hai tầng áp bức bóc lột của giặc Pháp-Nhật....” Pháp. Nhật ngày càng
không phải chỉ kẻ thù của công nông nữa kẻ thù của cả dân tộc Đông
10
Dương”. “ Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, quyền lợi của bộ phận giai
cấp đến Việt Nam cũng không đòi được”.
Muốn đánh đuổi Pháp đuổi Nhật phải lực lượng thống nhất của tất thẩy
các dân tộc Đông Dương.
Theo đnghị của Người, Hội nghị quyết định thành lập mặt trận Việt Nam
độc lập Đồng Minh gọi tắt Việt Minh thay cho mặt trận dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương. Lào tổ chức Ai Lào độc lập đồng minh, Miên tổ chức
ra Cao Miên độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng
minh.
Hội nghị dự kiến những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trang giành chính
quyền . Hội nghị chỉ ra phương hướng tiến hành khởi nghĩa: khởi nghĩa từng
phần, từng địa phương, mở đường cho tổng khởi nghĩa, lập ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ của toàn quốc.
Hội nghị coi trọng công tác y dựng Đảng, đào tạo cán bộ đĐảng đủ
năng lực lãnh đạo cách mạng Đông Dương đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì ý
nghĩa lịch sử : hoàn chỉnh việc chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới, có ý nghĩa
quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng ch đạo chiến lược
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số
một của cách mạng độc lập dân tộc đề ra nhiều chủ trương đứng đắn để
thực hiện mục tiêu ấy.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt
trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và
thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn
đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi
Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp nh Trung ương (tháng 5-1941),
Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh
đuổi Pháp Nhật. Người nhấn mạnh: " Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn
Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng".
Thực hiện Nghị quyết của Đảng lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các
cấp bđảng Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc
của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị phong trào đấu
tranh của quần chúng. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bra đời.
Mặt trận Việt Minh đã tuyên bố ra 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân nên
được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Từ đầu nguồn cách mạng Pác , Việt
Minh đã lan tỏa khắp nông thôn, thành thị có hệ thống từ
11
Trung ương đến sở. Một tổ chức chính trị yêu nước ra đời đã tham gia
làm thảnh viên của Mặt trận Việt Minh nĐảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6-
1944). Lực lượng chính trị quần chúng ngày càng đông đảo được rèn luyện
trong đấu tranh chống Pháp - Nhật theo khẩu hiệu của Mặt trận Việt Minh.
Trên sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo việc
trang cho quần chúng cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng
trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc quân, Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Việt Nam giải phóng quân. Đảng chỉ
đạo việc lập các chiến khu căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu căn cứ Bắc
Sơn - Nhai và căn cứ Cao Bằng. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa trang
diễn ra sôi nổi các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả nước đã cổ
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quân chúng vùng lên đấu tranh
giành chính quyền.
12
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO
CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG (1939-1941) ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT
NAM HIỆN NAY
1. Chuyển hướng đấu tranh đúng đắn, sáng tạo
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính quyền thực dân
Pháp Đông Dương ngay lập tức thi hành chính sách thời chiến rất hà khắc:
Một mặt, trắng trợn phát xít hóa bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào
cách mạng, tập trung chĩa mũi nhọn tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương; mặt
khác, ra sức vét của cải tăng cường bắt lính phục vụ chiến tranh đế quốc
chủ nghĩa.
Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng 8 vạn binh lính người Việt Nam bị đưa
sang chiến trường châu Âu. Chính sách phản động đó đã đẩy các tầng lớp nhân
dân lao động vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu
thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp tay sai càng trở nên gay
gắt.
Trước sự khủng bố quyết liệt của kthù, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ
động rút vào hoạt động mật. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh cách mạng trong
tình hình mới, ngày 6/11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 6 họp tại Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng thư Nguyễn Văn Cừ
chủ trì. Hội nghị thống nhất một nhận định quan trọng: Trong điều kiện lịch sử
cụ thể lúc này, vấn đề giải phóng dân tộc nhiệm vụ hàng đầu cấp bách
nhất của cách mạng.
Trên snhận định đó, Hội nghị đã quyết định những vấn đbản. Về
mục tiêu đấu tranh: Đánh đổ đế quốc tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị nhấn mạnh: “Bước
đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác
hơn con đường đánh đđế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, luận
da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”.
Về phương pháp đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc tay sai; từ hoạt
động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương (thay cho Mặt trận Dân chủ không còn phù hợp) nhằm đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các nhân yêu nước tập trung
đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xít.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn vchỉ
đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt sở
nền tảng cho toàn bộ cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1939 -
1945, mở đường đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.
Bước sang năm 1940, đầu năm 1941, bối cảnh quốc tế trong nước
những chuyển biến mạnh mẽ. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan
rộng khốc liệt. Các nước thực dân, đế quốc phát xít đẩy mạnh vét sức
người, sức của các thuộc địa. trong nước, tháng 9/1940, quân đội phát xít
13
Nhật tiến công Lạng Sơn. Chính quyền thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng,
rồi mở cửa cho chúng vào Đông Dương.
Thực tế, mâu thuẫn, nhưng Pháp Nhật câu kết chặt chẽ với nhau đ
cùng áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương. Các tầng lớp nhân dân bị đẩy đến
tình trạng vô cùng cực khổ, mâu thuẫn dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc phát xít
càng thêm sâu sắc. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra, tiêu biểu khởi nghĩa Bắc
Sơn (27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940), cuộc binh biến Đô Lương
(13/1/1941). bị kẻ thù đàn áp, chịu nhiều tổn thất, song các cuộc đấu tranh
đó đã nêu cao tinh thần yêu nước, để lại cho cách mạng những bài học, kinh
nghiệm quý báu.
Trước tình hình ngày càng khẩn trương và cấp bách đó, đầu năm 1941, lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 8 (t10-19/5/1941), họp tại Pác (Cao Bằng). Hội nghị nhận
định: Việt Nam Đông Dương lúc này, mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết
cấp bách nhất mâu thuẫn dân tộc với đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Từ đó,
Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng.
Mục tiêu đấu tranh được xác định là giải phóng cho được các dân tộc Đông
Dương khỏi ách cai trị của Pháp - Nhật, nhấn mạnh: “Nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hội nghị cũng đi đến thống nhất về chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
giải phóng trong phạm vi từng nước Đông Dương. Mỗi nước Đông Dương cần
thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Việt Nam sẽ thành lập Mặt
trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), gồm các tchức quần
chúng lấy tên hội cứu quốc nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước đấu tranh
giành độc lập.
Bên cạnh đó, Hội nghị quyết định xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng,
xây dựng lực lượng để chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm
vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại.
Như vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) đã hoàn chỉnh sự
chuyển hướng chiến lược sách lược cách mạng đã đề ra từ Hội nghị Trung
ương lần thứ 6 (11/1939), thể hiện rõ sphát triển sáng tạo về mặt chủ trương,
đường lối lãnh đạo của Đảng, tác dụng quyết định trong việc vận động toàn
Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945.
2. Bài học trong Cách Mạng tháng 8 năm 1945
Bài học kinh nghiệm hàng đầu Cách mạng Tháng Tám đã để lại đó
trên cơ sở nắm chắc và phân tích đúng tình hình thực tiễn, cần phải đề ra đường
lối chiến lược đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Khi
cuộc Chiến tranh thế giới II xảy ra, Đảng ta đã kịp thời sự chuyển hướng
chiến lược; từ Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) Hội nghị Trung ương 7(11-
1940) Đảng đã bắt đầu những điều chỉnh về chiến lược lãnh đạo cách
mạng. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), dưới sự chủ trì của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc với tư cách đại diện Quốc tế Cộng sản, trên sở phân tích
tình hình, Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược cách mạng từ
14
mục tiêu đánh đổ thực dân, phong kiến; chống sản, địa chủ sang mục tiêu của
cách mạng lúc bấy giờ là giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân Pháp và Phát xít
Nhật, chống Việt gian. Hội nghi xác định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm ng
không đòi lại được”. Trên cơ sở chiến lược cách mạng, Đảng ta đã xác định lực
lượng cách mạng đề ra phương pháp đầu tranh, tiến hành chuẩn bị đầy đủ
mọi điều kiện, chờ đợi thúc đẩy thời cách mạng chín mùi, lãnh đạo nhân
đứng lên đấu tranh trang, khởi nghĩa từng phần, tiến đề Tổng khởi nghĩa
1945. Đây bài học đầu tiên tính quyết định để Đảng ta lãnh đạo nhân dân
đứng lên làm cách mạng thành công, giành lại độc lập tự do cho đất nước.
Bài học kinh nghiệm thứ hai cuộc Cách mạng Tháng Tám để lại cho
chúng ta, đó là: Đảng đã biết tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào mục tiêu chung của cách mạng. Tại Hội
nghị Trung ương 8 (5-1945) Đảng đã đề ra chủ trương thành lập Việt Nam độc
lập đồng minh hội (tức Mặt trận Việt Minh) để tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp,
thành phần xã hội vào Mặt trận Việt Minh (với các tổ chức trực thuộc Hội
Cứu quốc như: Hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc…). Tháng 6-1941 Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư cho toàn quốc nhằm kêu
gọi nhân dân đoàn kết tham gia cách mạng. Người viết: “Trong lúc quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại để đánh đổ bọn
đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sâu, lửa nóng…Việc
cứu quốc việc chung, ai người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một
phần trách nhiệm…”. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời
không ngừng lớn mạnh, chỗ dựa vững chắc cho cách mạng. Hoạt động của
Mặt trận Việt Minh đã khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân, góp phần
thúc đẩy thời cơ cách mạng mau chín mùi.
Song, trước sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng, sự chuyển biến mau lẹ
của tình hình, hoạt động của Mặt trận Việt Minh vẫn chưa đủ sức để đoàn kết
rộng rãi hơn mọi thành phần đảng phái chính trị người Việt Nam trong và ngoài
nước vào cuộc đấu tranh giành độc lập. Nhận thấy điều này, năm 1943, Đảng ta
đã quyết định mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với chủ trương liên minh
với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước trong và ngoài nước chưa gia nhập
Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động các giai tầng hội (công nhân, nông
dân, trí thức, sản, đại chủ yêu nước) tham gia. Chính vậy, Đảng ta đã phát
huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong cao trào kháng Nhật cứu
nước và trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Bên cạnh việc đề ra chiến lược cách mạng phù hợp với tình hình (chuyển
hướng chiến lược kịp thời) và tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc tham gia vào mục tiêu chung thì việc chớp thời cách mạng, lãnh đạo
15
nhân dân đứng lên làm cuộc cách mạng “long trời, lở đất” cũng là bài học kinh
nghiệm lớn Cách mạng Tháng Tám để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Phần III
KẾT QUẢ
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng thời kỳ
1939-1945 xuất phát từ đòi hỏi khách quan của thực tiễn cách mạng Đông
Dương đặt ra. Đó là chủ trương đúng đắn, khoa học của Đảng trong giải quyết
mối quan hệ giữa chiến lược chỉ đạo chiến lược trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Trên thực tế, chủ trương đó đã được Đảng Hồ Chí Minh hiện
thực hóa trong thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Đông
Dương, chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng được lực lượng
cách mạng 3 nước quán triệt, thực hiện khẩn trương: thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất trong từng nước; chủ động xây dựng phát triển lực lượng chính
trị quần chúng, lực lượng vũ trang; củng cố, phát triển tổ chức đoàn thể cách
mạng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng phát triển lực lượng với tổ chúc quần
chúng tranh đấu giành độc lập dân tộc.
Cách mạng tháng Tám 1945 một trong những cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc thành công triệt để nhất trong lịch sử, minh chứng khẳng định sự lãnh
đạo, chỉ đạo tài tình, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trên sở nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, ng tạo
nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, t
đó kiên quyết tập trung mọi lực lượng để giành thắng lợi. Đó chính bài học
kinh nghiệm rất quý báu, được Đảng ta tiếp tục chắt lọc vận dụng sáng tạo vào
cuộc đấu tranh cách mạng giai đoạn sau, nhất qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ (1945 - 1975).
Phát huy tinh thần, giá trị bài học chỉ đạo chiến lược trong cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945 vào công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội
chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nguyên
tắc bản: Kiên định mục tiêu, tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh; thực
hiện chính sách mở rộng hội nhập quốc tế trên sở bình đẳng, cùng lợi,
trong đó phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; thường xuyên tự đổi
mới, tchỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, y
dựng đội ngũ cán bộ, nhất đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn
làm sở để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đáp ứng nhiệm
vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài
16
Phần IV
PHẦN PHỤ LỤC
1)
Phong trào dân ch
2)
Chỉ đạo chiến lược của Đảng
3)
Đội Cứu quốc quân tập luyện tại hang Lùng Đán, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn
17
4)
Hồ Chủ tịch đã lán này trong những ngày Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ
8 họp (tháng 5/1941), quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh) lãnh đạo
nhân dân cả nước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc
5)
Cách Mạng tháng Tám
18
Phần V
LIỆU, TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đại tá, ThS. Chế Đình Quang, “Viện KHXH&NVQS - Bộ Quốc phòng
http://www.hocvienchinhtribqp.edu.vn/index.php/bai-bao-khoa-hoc/chuyen-
huong-chi-dao-chien-luoc-cua-dang-nhan-to-quyet-dinh-thang-loi-cach-mang-
thang-tam-nam-1945.html
[I] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H.1998, t.6,
tr. 538.
[II] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7,
tr. 100.
[III] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000,
t.7, tr. 112.
[IV] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, t.3, tr.596.
[V] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, t.7, tr.26.
[2] - Bộ Giáo dục Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia
- Ngô Đăng Tri, Tiến trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Thông tin và
truyền thông, 2016
- Tài liệu học tập đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam, Khoa Lý luận
chính trị - ĐHKTKTCN, 2018
- Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Hội Đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo rình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác - nin, tưởng HCM,
NXB Chính trị quốc gia, 2008

Preview text:

MỤC LỤC
Phần I ......................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 5
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5
3. Nhiệm vụ của đề tài ......................................................................................... 5
4. Giới hạn của đề tài ........................................................................................... 5
5. Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 5
Phần II........................................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TỪ NĂM
1936 ĐẾN NĂM 1939 ........................................................................................... 6
1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................ 6
1.1. Tình hình thế giới ................................................................................... 6
1.2. Tình hình trong nước .............................................................................. 6
2. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng ...................................................... 6
CHƯƠNG 2. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
CỦA ĐẢNG CSVN TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1941 ....................................... 10
1. Chủ trương chiến lược mới của Đảng ........................................................ 10
1.1. Ba hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.............................. 10
1.1.1. Hội nghị lần thứ 6 ........................................................................... 10
1.1.2. Hội nghị lần thứ 7 ........................................................................... 10
1.1.3. Hội nghị lần thứ 8 ........................................................................... 10
1.2. Nội dung quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược ....................... 11
2. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với chủ trương chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung
ương Đảng (5/1941) .......................................................................................... 12
3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược ..................................... 13
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO
CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG (1939-1941) ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................... 15
1. Chuyển hướng đấu tranh đúng đắn, sáng tạo ............................................ 15
2. Bài học trong Cách Mạng tháng 8 năm 1945 ............................................ 16
Phần III .................................................................................................................... 18
Phần IV ................................................................................................................... 19
Phần V ..................................................................................................................... 21 Phần I PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thông qua quá trình từ chuẩn bị và tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám ta có
thể thấy được quá trình phát triền dần lớn mạnh của Đảng, Nhà Nước cũng
như phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Cũng như
qua đó ta có thể thấy được sự tài tình của Bác Hồ của Đảng ta trong quá trình
nắm bắt thời cơ một cách hợp lý trong quá trình chuyển hướng chỉ đạo qua
từng thời kì của cuộc kháng chiến để tiến tới giải phóng cho toàn dân tộc và
xây dựng một chế độ Xã Hôi Chủ Nghĩa ở nước ta.
Sự bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo trong việc hoạch
định đường lối và phương pháp cách mạng. Tiếp thu và vận dụng lý luận chủ
nghĩa Mac- Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, có tham khảo những
kinh nghiệm tốt của cách mạng thế giới nhưng không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào.
2. Mục đích nghiên cứu
Giúp cho sinh viên chúng em nắm vững những nội dung chủ yếu sau:
- Những chủ trương lớn của Đảng thông qua các văn kiện nổi bật trong giai đoạn 1936-1945:
+Chủ trương của Đảng năm 1936-1939
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 ( tháng 11/1939).
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5/1941).
- Nội dung và ý nghĩa của việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng giai đoạn 1939- 1941.
- Quá trình chuẩn bị đấu tranh giành chính quyền giai đoạn 1941- 1945.
- Bối cảnh lịch sử và quá trình thực hiện Cách mạng tháng Tám .
- Thắng lợi, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cách mạng Tháng Tám.
3. Nhiệm vụ của đề tài
+Phân tích hoàn cảnh lịch sư thế giới và ViệtNam từ năm 1936 đến năm 1939
+Chỉ ra những chủ trương chuyên hướng chiến lược của Đảng CSVN từ 1939- 1941
+ từ đó nêu ra những bài học lịch sử từ sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
Đảng(1939-1941) đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
4. Giới hạn của đề tài
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng CSVN từ 1639 đến 1945, và
những bìa học rút ra cho quá trình đổi mới từ 1991 cho đến nay. Đây là thời kỳ
Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp
thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới và việt nam từ năm 1936 đến năm 1939 2
Chương 2. Những chủ trương chuyển hướng chiến lược của đảng csvn từ năm 1939 đến năm 1941
Chương 3. Bài học lịch sử về sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng
(1939-1941) đối với cách mạng việt nam hiện nay Phần II PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1936 ĐẾN NĂM 1939
1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1. Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 ở các nước thuộc
hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản
ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền
hòa bình và an ninh quốc tế. Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở một
số nơi như phát xít Hitle ở Đức, phát xít Phrăngcô ở Tây Ban Nha, phát xít
Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Chế độ độc tài phát xít là nền
chuyên chế của những thế lực phản động nhất, tàn bạo và dã man nhất. Chúng
tiến hành chiến tranh xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước khác. Tập
đoàn phát xít cầm quyền ở Đức, Italia và Nhật đã liên kết với nhau thành khối
“Trục”, ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị trường thế giới và thực hiện
mưu đồ tiêu diệt Liên Xô- thành trì cách mạng thế giới, nhằm hy vọng đẩy lùi
phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ.
Đại hội lần VII- Quốc tế Cộng sản xác định kẻ thù nguy hiểm ngay trước
mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới là chủ nghĩa phát xít.
Vạch ra nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế
giới là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hòa
bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi.
6/1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, thi hành cải cách tiến bộ
ở thuộc địa: Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình,
cử Toàn quyền mới, nới rộng quyền tự do báo chí… tạo thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-19331 đã tác động sâu sắc không những
đến đời sống các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, mà còn đến cả những
nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở
Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và
thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình này làm cho các giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau,
nhưng đều căm thù thực dân, tư bản độc quyền Pháp, và đều có nguyện vọng 3
chung trước mắt là đấu tranh đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm
áo và hòa bình. Trong lúc này, hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách
mạng của quần chúng đã được khôi phục. Mặt khác, Chính phủ Mặt trận bình
dân Pháp ban hành một số chính sách dân chủ có lợi cho các thuộc địa. Đây là
những yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát triển mới của phong trào cách mạng nước ta.
2. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
Căn cứ vào chỉ đạo của Quốc tế Cộng Sản tại Đại hội VII (7/1935), trước
những chuyển biến của tình hình trong nước và thế giới, trong những năm
1936-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp
Hội nghị lần thứ hai (7/1936), lần thứ ba (3/1937), lần thứ tư (9/1937) và lần
thứ năm (3/1938)… đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình
thức đấu tranh phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.
Chủ trương đòi quyền dân chủ, dân sinh:
• 1936 – 1939: Đòi dân chủ dân sinh.
• Kẻ thù trước mắt: bè lũ tay sai, bọn phản động.
• Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: tạm gác lại nhiệm vụ chống Pháp,
tạm gác lại khẩu hiệu “ Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Thực
hành khẩu hiệu “ Đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”.
• Hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh:Mít tinh, biểu tình với các biện
pháp :công khai- nửa công khai, hợp pháp- nửa hợp pháp.
• Đoàn kết quốc tế: ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt
trận nhân dân Pháp để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phát xít
và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương. • Ý nghĩa
- Đánh dấu sự chuyển hướng đầu tiên về chủ trương của Đảng.
- Thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt của Đảng khi tình hình trong nước và
thế giới có sự thay đổi.
Ban Chấp hành Trung ương xác định, cách mạng ở Đông Dương vẫn là
"cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa- lập chính quyền của công
nông bằng hình thức Xô Viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa". Song, xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ
chức chưa tới tình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công
nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp thiết trước mắt của
nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đàng phải nắm
lấy những yêu cẩu để phát động quần chúng đấu tranh, tạo nền để đưa cách
mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân
Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. 4
Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phátxít, chống chiến tranh
đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo
và hòa bình. Để thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, Ban Chấp
hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các
giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể chính trị, xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau, với nòng cốt là liên minh công - nông. Để phù kợp với yêu cầu tập
hợp lực lượng cách mạng trong tình hình mới, Mặt trận nhân dân phản đế dã
được đổi tên thành Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào
bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng ở Đông Dương, đòi các quyền tự
do, dân chủ, dân sinh, thì không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân và Đảng Cộng sản Pháp, "ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp", mà còn phải
đề ra khẩu hiệu "ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau
chống lại kè thù chung là Phátxít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.
Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Phải chuyển hình thức tổ
chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai
và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự
quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh
bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Trong khi tranh thủ mở rộng các
hình thức tổ chức đấu tranh công khai, hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa
công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt
động bí mật của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai, hợp
pháp và không hợp pháp và phải đảm bảo sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật
đối với những tổ chức và hoạt động công khai, hợp pháp.
Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và điền địa: Nội dung nhận thức:
Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết kết chặt với cuộc cách mạng điền địa.
Cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, xác định vấn đề nào quan trọng hơn để
giải quyết trước, xác định kẻ thù nào là chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực
lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng.
Các Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937)
- Đi sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng
- Chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp
được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa.
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (3-1938) nhấn mạnh vấn đề lập mặt
trận thống nhất dân chủ
+ Ra Tuyên ngôn của ĐCSĐD đối với thời cuộc (3-1939)
+ Tháng 3-1939, ra Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với
thời cuộc. Tháng 7-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản cuốn Tự
chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Tác phẩm đã phân tích những 5
vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết những kinh nghiệm cuộc vận
động dân chủ của Đảng.
Đây là nhận thức mới của Ban Chấp hành Trung ương, nó phù hợp với tinh thần
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn
chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
Tuy nhiên, hoàn cảnh lúc đó Đảng phải tập trung chỉ đạo đấu tranh đòi các
quyền dân sinh, dân chủ, nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc chưa có
thể đặt ra một cách trực tiếp, cho nên quan điểm này chưa trở thành tư tưởng
chỉ đạo cuộc đấu tranh của dân tộc.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời kỳ này đánh dấu
bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, mở ra một phong trào đấu tranh sôi
động trong cả nước: phong trào dân chủ dân sinh 1936-1939.
Xuyên suốt thời kỳ 1936-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã có bước trưởng
thành mới trong nhận thức, thể hiện qua việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. 6
CHƯƠNG 2. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN HƯỚNG CHIẾN
LƯỢC CỦA ĐẢNG CSVN TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1941
1. Chủ trương chiến lược mới của Đảng
1.1. Ba hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
1.1.1. Hội nghị lần thứ 6
Tại Hội nghị Trung ương sáu, tháng 11/1939, đánh dấu sự trưởng thành của
Đảng về tư duy chính trị và sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong công cuộc lãnh
đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trước sự phát triển gay gắt của những mâu
thuẫn giữa đế quốc Pháp và các dân tộc Đông Dương sau chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ, Hội nghị kịp thời đưa ra những quyết định chiến lược rất quan
trọng về con đường cách mạng của các dân tộc ở Đông Dương: “Bước đường
sinh tồn của dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con
đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay
da vàng để giải phóng dân tộc”. Hội nghị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên vị
trí hàng đầu, cách mạng ruộng đất và mọi vấn đề khác cũng phải phục vụ cho
mục tiêu cao nhất đó. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng
sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương và Mặt trận phản đế của từng quốc gia dân tộc Việt,
Miên, Lào. Mặt trận đó là sự liên hiệp các dân tộc, các giai cấp và tầng lớp xã
hội, các đảng phái chính trị chống đế quốc Pháp và bọn tay sai của chúng, thực
hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
1.1.2. Hội nghị lần thứ 7
Tại Hội nghị Trung ương bảy, tháng 11/1940, sau khi phân tích tình hình
thế giới và ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ Hai tới Đông Dương, Hội
nghị dự đoán: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn
bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức
Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”. Kẻ thù chính
của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Pháp-Nhật. Vì vậy, Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế lúc này là Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít
Pháp-Nhật ở Đông Dương. Hội nghị chủ trương, đi đôi với việc mở rộng Mặt
trận phản đế, phải lựa chọn những người hăng hái nhất trong các đoàn thể của
mặt trận, tổ chức các đội tự vệ, “trực tiếp võ trang cho dân chúng”, “tổ chức
nhân dân cách mạng quân”, tiến lên võ trang bạo động. Ngoài ra Hội nghị có
những quyết định quan trọng về khởi nghĩa Bắc Sơn, và xem xét hoản khởi
nghĩa Nam Kỳ. Những quyết định của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940
đánh dấu sự bổ sung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược mà Hội nghị Trung ương
sáu vạch ra, chuẩn bị điều kiện cho khởi nghĩa võ trang giành chính quyền.
1.1.3. Hội nghị lần thứ 8
Tiến theo xu hướng đó, Hội nghị Trung ương tám, tháng 5/1941 đã bổ sung,
kế thừa và hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Hội
nghị Trung ương sáu. Hội nghị Trung ương tám đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Sau khi quân Nhật vào
chiếm đóng Đông Dương. Thực dân Pháp và Phát xít Nhật cấu kết nhau áp bức,
bóc lột nhân dân làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ở Đông Dương và đế 7
quốc Pháp – Nhật ngày càng gay gắt. Trước tình hình đó, Hội nghị quyết định:
“Khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các
dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật”
. Nhiệm vụ chủ yếu
của Đảng là phải tập hợp tối đa các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng
cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc chống đế quốc Pháp-Nhật. Tất cả quyền lợi
của giai cấp đều phải được đặt dưới quyền lợi dân tộc. Trên cơ sở đó, Hội nghị
nhất trí với chủ trương của Hội nghị Trung ương sáu là tạm gác khẩu hiệu cách
mạng ruộng đất và chỉ mới thực hiện giảm tô, chia ruộng đất công cho nông dân.
Xuất phát từ chủ trương khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh vì
độc lập, tự do của từng dân tộc Việt, Miên, Lào, Hội nghị quyết định thành lập
Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương và giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào thành lập Mặt trận Cao
Miên độc lập đồng minh và Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh; các hội quần
chúng đều lấy tên hội cứu quốc để thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước tham
gia; khi giành độc lập, sẽ xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới và thành
lập chính quyền cách mạng của chung toàn thể dân tộc không phải thuộc quyền
riêng của một giai cấp nào.
1.2. Nội dung quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng
11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941). Trên cơ sở nhận định khả
năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể
trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải
được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít
Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực
lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt
là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi
tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu
quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên 8
cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt
thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang lả nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực
lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến
xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc
"chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai
đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ
trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ
trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách
mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở
nước ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội
thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù... với lực lượng sằn có, ta có thể lãnh
đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể dành
thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng
nhằm nâng cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương
gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận,
quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
2. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với chủ trương chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của
Trung ương Đảng (5/1941)

Ngày 8-2-1941 Nguyễn ái Quốc-Hồ Chí Minh về nước ở vùng Pắc Bó (Hà Quảng-Cao Bằng).
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 họp ở Pắc Bó từ ngày
10 đến 19/5/1941, do Nguyễn ái Quốc chủ trì.
Với cương vị là người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam đại biểu Quốc
tế cộng sản, Người đã cùng các đại biểu tham dự Hội nghị phân tích tình hình
thế giới và tình hình Đông Dương trong hoàn cảnh chiến tranh, đề ra chủ trương
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng , bao gồm những nội dung sau:
Dự đoán sự phát triển của tình hình thế giới: “ Nếu cuộc chiến tranh đế
quốc lần trước đẻ ra Liên Xô một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc chiến tranh
lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”.
Nhận định về phong trào cách mạng ở Đông Dương: “Mặc dù sự đàn áp
liên miên và sức tàn bạo của giặc Pháp, phong trào cách mạng vẫn sôi nổi một
cách mạnh mẽ....”. Đặc biệt hơn là cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân tỉnh
Bắc Sơn và Nam Kỳ cùng anh em binh lính Đô Lương.
Những chủ trương của Đảng: Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước
mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. “ Các dân tộc Đông Dương hiện nay
bị dưới hai tầng áp bức bóc lột của giặc Pháp-Nhật....” “ Pháp. Nhật ngày càng
không phải chỉ là kẻ thù của công nông nữa mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông 9
Dương”. “ Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai
cấp đến Việt Nam cũng không đòi được”.
Muốn đánh đuổi Pháp đuổi Nhật phải có lực lượng thống nhất của tất thẩy
các dân tộc Đông Dương.
Theo đề nghị của Người, Hội nghị quyết định thành lập mặt trận Việt Nam
độc lập Đồng Minh gọi tắt là Việt Minh thay cho mặt trận dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương. ở Lào tổ chức Ai Lào độc lập đồng minh, ở Miên tổ chức
ra Cao Miên độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh.
Hội nghị dự kiến những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền . Hội nghị chỉ ra phương hướng tiến hành khởi nghĩa: khởi nghĩa từng
phần, từng địa phương, mở đường cho tổng khởi nghĩa, lập ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ của toàn quốc.
Hội nghị coi trọng công tác xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ để Đảng có đủ
năng lực lãnh đạo cách mạng Đông Dương đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì có ý
nghĩa lịch sử : hoàn chỉnh việc chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới, có ý nghĩa
quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số
một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đứng đắn để
thực hiện mục tiêu ấy.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt
trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và
thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn
đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi
Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (tháng 5-1941),
Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh
đuổi Pháp — Nhật. Người nhấn mạnh: " Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn
Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng".
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các
cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc
của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu
tranh của quần chúng. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bổ ra đời.
Mặt trận Việt Minh đã tuyên bố ra 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân nên
được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Từ đầu nguồn cách mạng Pác Bó, Việt
Minh đã lan tỏa khắp nông thôn, thành thị có hệ thống từ 10
Trung ương đến cơ sở. Một tổ chức chính trị yêu nước ra đời và đã tham gia
làm thảnh viên của Mặt trận Việt Minh như Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6-
1944). Lực lượng chính trị quần chúng ngày càng đông đảo và được rèn luyện
trong đấu tranh chống Pháp - Nhật theo khẩu hiệu của Mặt trận Việt Minh.
Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo việc vũ
trang cho quần chúng cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc quân, Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Việt Nam giải phóng quân. Đảng chỉ
đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc
Sơn - Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
diễn ra sôi nổi ở các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả nước đã cổ vũ
và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quân chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền. 11
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO
CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG (1939-1941) ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT
NAM HIỆN NAY
1. Chuyển hướng đấu tranh đúng đắn, sáng tạo
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính quyền thực dân
Pháp ở Đông Dương ngay lập tức thi hành chính sách thời chiến rất hà khắc:
Một mặt, trắng trợn phát xít hóa bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào
cách mạng, tập trung chĩa mũi nhọn tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương; mặt
khác, ra sức vơ vét của cải và tăng cường bắt lính phục vụ chiến tranh đế quốc chủ nghĩa.
Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng 8 vạn binh lính người Việt Nam bị đưa
sang chiến trường châu Âu. Chính sách phản động đó đã đẩy các tầng lớp nhân
dân lao động vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu
thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp và tay sai càng trở nên gay gắt.
Trước sự khủng bố quyết liệt của kẻ thù, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ
động rút vào hoạt động bí mật. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh cách mạng trong
tình hình mới, ngày 6/11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 6 họp tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ
chủ trì. Hội nghị thống nhất một nhận định quan trọng: Trong điều kiện lịch sử
cụ thể lúc này, vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng.
Trên cơ sở nhận định đó, Hội nghị đã quyết định những vấn đề cơ bản. Về
mục tiêu đấu tranh: Đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị nhấn mạnh: “Bước
đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác
hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận
da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”.
Về phương pháp đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt
động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương (thay cho Mặt trận Dân chủ không còn phù hợp) nhằm đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các cá nhân yêu nước tập trung
đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xít.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ
đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt cơ sở
nền tảng cho toàn bộ cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1939 -
1945, mở đường đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.
Bước sang năm 1940, đầu năm 1941, bối cảnh quốc tế và trong nước có
những chuyển biến mạnh mẽ. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan
rộng và khốc liệt. Các nước thực dân, đế quốc phát xít đẩy mạnh vơ vét sức
người, sức của ở các thuộc địa. Ở trong nước, tháng 9/1940, quân đội phát xít 12
Nhật tiến công Lạng Sơn. Chính quyền thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng,
rồi mở cửa cho chúng vào Đông Dương.
Thực tế, dù có mâu thuẫn, nhưng Pháp và Nhật câu kết chặt chẽ với nhau để
cùng áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương. Các tầng lớp nhân dân bị đẩy đến
tình trạng vô cùng cực khổ, mâu thuẫn dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc phát xít
càng thêm sâu sắc. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Bắc
Sơn (27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940), cuộc binh biến Đô Lương
(13/1/1941). Dù bị kẻ thù đàn áp, chịu nhiều tổn thất, song các cuộc đấu tranh
đó đã nêu cao tinh thần yêu nước, để lại cho cách mạng những bài học, kinh nghiệm quý báu.
Trước tình hình ngày càng khẩn trương và cấp bách đó, đầu năm 1941, lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 8 (từ 10-19/5/1941), họp tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị nhận
định: Ở Việt Nam và Đông Dương lúc này, mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết
cấp bách nhất là mâu thuẫn dân tộc với đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Từ đó,
Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng.
Mục tiêu đấu tranh được xác định là giải phóng cho được các dân tộc Đông
Dương khỏi ách cai trị của Pháp - Nhật, nhấn mạnh: “Nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hội nghị cũng đi đến thống nhất về chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
giải phóng trong phạm vi từng nước Đông Dương. Mỗi nước Đông Dương cần
thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt
trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), gồm các tổ chức quần
chúng lấy tên là hội cứu quốc nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước đấu tranh giành độc lập.
Bên cạnh đó, Hội nghị quyết định xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng,
xây dựng lực lượng để chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm
vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại.
Như vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) đã hoàn chỉnh sự
chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng đã đề ra từ Hội nghị Trung
ương lần thứ 6 (11/1939), thể hiện rõ sự phát triển sáng tạo về mặt chủ trương,
đường lối lãnh đạo của Đảng, có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn
Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945.
2. Bài học trong Cách Mạng tháng 8 năm 1945
Bài học kinh nghiệm hàng đầu mà Cách mạng Tháng Tám đã để lại đó là
trên cơ sở nắm chắc và phân tích đúng tình hình thực tiễn, cần phải đề ra đường
lối chiến lược đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Khi
cuộc Chiến tranh thế giới II xảy ra, Đảng ta đã kịp thời có sự chuyển hướng
chiến lược; từ Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) và Hội nghị Trung ương 7(11-
1940) Đảng đã có bắt đầu có những điều chỉnh về chiến lược lãnh đạo cách
mạng. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), dưới sự chủ trì của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại diện Quốc tế Cộng sản, trên cơ sở phân tích
tình hình, Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược cách mạng từ 13
mục tiêu đánh đổ thực dân, phong kiến; chống tư sản, địa chủ sang mục tiêu của
cách mạng lúc bấy giờ là giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân Pháp và Phát xít
Nhật, chống Việt gian. Hội nghi xác định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được”. Trên cơ sở chiến lược cách mạng, Đảng ta đã xác định lực
lượng cách mạng và đề ra phương pháp đầu tranh, tiến hành chuẩn bị đầy đủ
mọi điều kiện, chờ đợi và thúc đẩy thời cơ cách mạng chín mùi, lãnh đạo nhân
đứng lên đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, tiến đề Tổng khởi nghĩa
1945. Đây là bài học đầu tiên có tính quyết định để Đảng ta lãnh đạo nhân dân
đứng lên làm cách mạng thành công, giành lại độc lập tự do cho đất nước.
Bài học kinh nghiệm thứ hai mà cuộc Cách mạng Tháng Tám để lại cho
chúng ta, đó là: Đảng đã biết tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào mục tiêu chung của cách mạng. Tại Hội
nghị Trung ương 8 (5-1945) Đảng đã đề ra chủ trương thành lập Việt Nam độc
lập đồng minh hội (tức Mặt trận Việt Minh) để tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp,
thành phần xã hội vào Mặt trận Việt Minh (với các tổ chức trực thuộc là Hội
Cứu quốc như: Hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc…). Tháng 6-1941 Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư cho toàn quốc nhằm kêu
gọi nhân dân đoàn kết tham gia cách mạng. Người viết: “Trong lúc quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại để đánh đổ bọn
đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sâu, lửa nóng…Việc
cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một
phần trách nhiệm…”. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời
và không ngừng lớn mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng. Hoạt động của
Mặt trận Việt Minh đã khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân, góp phần
thúc đẩy thời cơ cách mạng mau chín mùi.
Song, trước sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng, sự chuyển biến mau lẹ
của tình hình, hoạt động của Mặt trận Việt Minh vẫn chưa đủ sức để đoàn kết
rộng rãi hơn mọi thành phần đảng phái chính trị người Việt Nam trong và ngoài
nước vào cuộc đấu tranh giành độc lập. Nhận thấy điều này, năm 1943, Đảng ta
đã quyết định mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với chủ trương liên minh
với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước trong và ngoài nước chưa gia nhập
Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động các giai tầng xã hội (công nhân, nông
dân, trí thức, tư sản, đại chủ yêu nước) tham gia. Chính vì vậy, Đảng ta đã phát
huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong cao trào kháng Nhật cứu
nước và trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Bên cạnh việc đề ra chiến lược cách mạng phù hợp với tình hình (chuyển
hướng chiến lược kịp thời) và tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc tham gia vào mục tiêu chung thì việc chớp thời cơ cách mạng, lãnh đạo 14
nhân dân đứng lên làm cuộc cách mạng “long trời, lở đất” cũng là bài học kinh
nghiệm lớn Cách mạng Tháng Tám để lại cho Đảng và nhân dân ta. Phần III KẾT QUẢ
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng thời kỳ
1939-1945 xuất phát từ đòi hỏi khách quan của thực tiễn cách mạng Đông
Dương đặt ra. Đó là chủ trương đúng đắn, khoa học của Đảng trong giải quyết
mối quan hệ giữa chiến lược và chỉ đạo chiến lược trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Trên thực tế, chủ trương đó đã được Đảng và Hồ Chí Minh hiện
thực hóa trong thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Đông
Dương, chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng được lực lượng
cách mạng ở 3 nước quán triệt, thực hiện khẩn trương: thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất trong từng nước; chủ động xây dựng phát triển lực lượng chính
trị quần chúng, lực lượng vũ trang; củng cố, phát triển tổ chức và đoàn thể cách
mạng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng phát triển lực lượng với tổ chúc quần
chúng tranh đấu giành độc lập dân tộc.
Cách mạng tháng Tám 1945 là một trong những cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc thành công triệt để nhất trong lịch sử, là minh chứng khẳng định sự lãnh
đạo, chỉ đạo tài tình, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trên cơ sở nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo
nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, từ
đó kiên quyết tập trung mọi lực lượng để giành thắng lợi. Đó chính là bài học
kinh nghiệm rất quý báu, được Đảng ta tiếp tục chắt lọc vận dụng sáng tạo vào
cuộc đấu tranh cách mạng giai đoạn sau, nhất là qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ (1945 - 1975).
Phát huy tinh thần, giá trị bài học chỉ đạo chiến lược trong cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945 vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nguyên
tắc cơ bản: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thực
hiện chính sách mở rộng hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi,
trong đó phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn
làm cơ sở để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đáp ứng nhiệm
vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài 15 Phần IV PHẦN PHỤ LỤC
1) Phong trào dân chủ
2) Chỉ đạo chiến lược của Đảng
3) Đội Cứu quốc quân tập luyện tại hang Lùng Đán, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn 16
4) Hồ Chủ tịch đã ở lán này trong những ngày Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ
8 họp (tháng 5/1941), quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh) lãnh đạo
nhân dân cả nước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc

5) Cách Mạng tháng Tám 17 Phần V
TƯ LIỆU, TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đại tá, ThS. Chế Đình Quang, “Viện KHXH&NVQS - Bộ Quốc phòng
http://www.hocvienchinhtribqp.edu.vn/index.php/bai-bao-khoa-hoc/chuyen-
huong-chi-dao-chien-luoc-cua-dang-nhan-to-quyet-dinh-thang-loi-cach-mang- thang-tam-nam-1945.html
[I] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H.1998, t.6, tr. 538.
[II] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 100.
[III] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 112.
[IV] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, t.3, tr.596.
[V] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, t.7, tr.26.
[2] - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia
- Ngô Đăng Tri, Tiến trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Thông tin và truyền thông, 2016
- Tài liệu học tập đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam, Khoa Lý luận
chính trị - ĐHKTKTCN, 2018
- Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Hội Đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo rình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lê nin, Tư tưởng HCM,
NXB Chính trị quốc gia, 2008 18