lOMoARcPSD| 61631027
ĐỀ CƯƠNG MÔN LUẬT SO SÁNH
Nhóm 5
Câu 1: Chứng minh quy tắc suy đoán vô tội trong bộ Luật hình sự thay dổi theo thời
gian. Tìm kiếm mô hình lý tưởng cho Việt Nam
a) Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng trên thế giới:
Nguyên tắc suy đoán tội một trong những nguyên tắc trụ cột của tố tụng hình sự
(TTHS).
1. Khoản 1 Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp
quốc quy định: “Bị o về một tội hình sự được suy đoán tội cho đến khi
đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai, với đầy đủ bảo đảm
cần thiết cho quyền biện hộ”.
2. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Người
bị cáo buộc phạm tội hình sựquyền được coi là tội cho tới khi hành vi
phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”.
3. Tương tự, quyền được coi tội cũng được ghi nhận tại Điều 6 Công ước
Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản (ECHR, 1950)
4. Điều 8 Công ước nhân quyền châu Mỹ (ACHR, 1969)
5. Điều 7 Hiến chương Châu Phi về quyền con người và các dân tộc (Hiến chương
Châu Phi, 1981).
Theo các quy định trên, nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện qua 03 vấn đề chính:
Thứ nhất, về chủ thể được hưởng quyền suy đoán tội những người bị cáo buộc về
hình sự, còn chủ thể áp dụng thuộc về bên buộc tội
Thứ hai, về nội dung: Suy đoán vô tội được hiểu rằng phải coi người bị cáo buộc về hình
sự là không có tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội tại một phiên tòa xét xử
công khai, nơi họ được bảo đảm quyền bào chữa cho mình
lOMoARcPSD| 61631027
Thứ ba, về thời gian suy đoán vô tội: Một người bắt đầu được suy đoán vô tội kể từ khi cơ
quan buộc tội có hành động cáo buộc họ thực hiện một hành vi bị luật hình sự trừng phạt;
suy đoán tội kết thúc khi người đó được chứng minh là phạm tội tại một phiên tòa xét
xử công khai.
Nguyên tắc suy đoán vô tội được nhiều quốc gia trên thế giới coi nguyên tắc bản trong
TTHS.
1. Ở nước Anh xứ Wales, ngoài án lệ, các đạo luật do Hạ Nghị viện ban hành, các
văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương ban hành trên
sở ủy quyền của Hạ Nghị viện, thì Công ước Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do
bản thể được coi là một bộ phận cấu thành pháp luật TTHS Vương quốc Anh. Nguyên
tắc suy đoán tội được quy định tại Công ước Châu Âu về bảo vệ nhân quyền tự do
cơ bản năm 1950: “Người bị cáo buộc phạm tội hình sự được coi là vô tội cho đến khi tội
lỗi của người đó được chứng minh theo quy định của pháp luật”.
2. Pháp, nguyên tắc suy đoán tội được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền
dân quyền năm 1789 (Điều 9): “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố
phạm tội”. Đồng thời, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) nước Cộng hòa Pháp cũng quy
định: “Tất cả những người bị nghi ngờ hoặc bị truy tố đều được coi là vô tội nếu tội trạng
của họ chưa được chứng minh”.
3. Hoa Kỳ, nguyên tắc suy đoán tội được ghi nhận tại Hiến pháp Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ: “Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay một
tội xấu xa khác nếu không sự tường trình cáo trạng của Bồi thẩm đoàn, trừ trường
hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ
trong thời chiến hoặc trong tình trạng hội gặp hiểm nguy. Không một ai bị kết án hai
lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể”.
4. Liên bang Nga, nguyên tắc suy đoán tội được quy định tại Hiến pháp
BLTTHS năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2021. Cụ thể: “1. Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi tội của người đó được chứng minh theo đúng trình tự, thủ tục do
lOMoARcPSD| 61631027
Bộ luật này quy định bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã hiệu lực pháp luật; 2.
Người bị tình nghi phạm tội hoặc người bị buộc tội không nghĩa vụ chứng minh sự
tội của mình. Trách nhiệm chứng minh sự buộc tội và bác bỏ những luận cứ bào chữa của
người bị tình nghi phạm tội hoặc người bị buộc tội thuộc về bên buộc tội; 3. Mọi nghi ngờ
về tội của người bị buộc tội, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định thì phải được giải thích lợi cho người bị buộc tội; 4. Bản án buộc tội không
được dựa trên cơ sở những phán đoán”.
5. Trung Quốc, các nguyên tắc bản của Luật TTHS nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa được quy định trong Chương 1: Nhiệm vụ và những nguyên tắc cơ bản. Trong
chương này, các điều luật không nêu tên gọi của các nguyên tắc chỉ thể hiện nội dung
của các nguyên tắc đó. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo pháp luật nước này được quy định:
“Không ai bị coi tội, nếu chưa bị Tòa án nhân dân kết án theo quy định của pháp
luật”.
b) Nguyên tắc suy đoán tội được quy định cụ thể trong BLTTHS 2003 (sửa đổi, bổ sung
2009)
Mặc dù BLTTHS 2003 không có điều khoản riêng ghi rõ cụm từ "suy đoán vô tội", nhưng
nguyên tắc này được thể hiện gián tiếp qua nhiều quy định cụ thể, trong đó đáng chú ý là:
Điều 9 :Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.”
=> Thể hiện rằng họ chưa bị coi là có tội, và có quyền bảo vệ mình.
Điều 10 :Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật Đây
là điều thể hiện trực tiếp nhất nguyên tắc suy đoán vô tội:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt hình sự khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
Điều 15 :Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng
lOMoARcPSD| 61631027
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc
tội có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội.”
=> Người bị buộc tội không phải chứng minh mình tội, quan tố tụng phải
chứng minh là họ có tội.
Điều 214 :Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trong trường hợp chứng cứ chưa đủ để buộc tội, Tòa có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
thể hiện tinh thần không vội vàng kết tội khi chứng cứ chưa rõ ràng.
c) Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định cụ thể trong BLTTHS 2015:
Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện gia nhập
Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị ngày 24/9/1982. Từ Hiến pháp năm
1992, BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đến các văn bản quy phạm pháp luật khác
đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận những quy định liên quan đến suy đoán vô tội.
BLTTHS 2015 đã cụ thể hoá quy định của Hiến pháp 2013 tại Điều 13 như sau:
Chủ thể quyền được suy đoán tội người bị buộc tội, bao gồm người bị người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điểm đ, khoản 1, Điều 4, BLTTHS 2015).
Ngoài Điều 13, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội còn được quy định tại các điều
luật khác của BLTTHS 2015. Cụ thể:
1. Một là, BLTTHS 2015 đã ghi nhận Toà án là cơ quan duy nhất có quyền tuyên một
người phạm tội. Khoản 1, Điều 326 quy định Chỉ Thẩm phán Hội thẩm
mới có quyền nghị án”.
2. Hai là, theo điều 8 BLTTHS 2015 quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải quan tâm, tạo điều kiện cho người bị buộc tội trong việc đưa ra chứng cứ,
yêu cầu tranh luận dân chủ trước Tòa án để chứng minh họ không tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
lOMoARcPSD| 61631027
Điều 10 BLTTHS 2015 quy định mọi người quyền bất khả m phạm về thân
thể. Không ai bị bắt nếu không quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn
của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
cưỡng chế phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS.
3. Ba là, Điều 7 + Điều 87 + Điều 236 và Điều 280 + Điều 358 + khoản 3, Điều 371,
Điều 388 BLTTHS 2015 quy định mọi hoạt động TTHS phải tuân thủ trình tự, thủ
tục luật định.
4. Bốn là, khoản 2, Điều 326 BLTTHS 2015 quy định viêc nghị án chỉ được căn cứ
vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tố tụng khác.
5. Năm là, Điều 15 BLTTHS 2015 quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc
về quan thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội quyền nhưng
không buộc phải chứng minh mình tội. quan thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của ván một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm chứng cứ xác định tội và chứng cứ xác
định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người
bị buộc tội.
***Đặc biệt
Điều 58 - Điều 61 BLTTHS 2015 đã ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc tội. Theo
đó, người bị buộc tội có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Điều 98 BLTTHS 2015 Lời nhận tội của người bị buộc tội chỉ có thể được coi là chứng cứ
nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của người
bị buộc tội làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
Điểm mới:
lOMoARcPSD| 61631027
a. BLTTHS 2015 bổ sung nguyên tắc mới trong Chương Những quy định chung
— điều khoản riêng là Điều 13 với tên “Nguyên tắc suy đoán vô tội”. “Nguyên
tắc suy đoán vô tội” được quy định cụ thể trong BLTTHSVN 2015
b. Mở rộng nội hàm — quy định về chứng cứ không đủ trong BLTTHS 2015
c. Tương thích với Hiến pháp 2013
d. Quy định cthể hơn vchủ thể, giai đoạn áp dụng, quyền chứng minh, quyền
im lặng
e. Nguyên tắc “giải thích hoài nghi lợi cho bcáo (người bị buộc tội)”. Trong
BLTTHS 2015 có quy định rõ khi có nghi ngờ thì phải giải thích theo hướng có
lợi cho người bị buộc tội.
d) Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng ở việt nam so sánh với các quốc gia tiên tiến
khác:
- Việt Nam:
+ Việc hiến định nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 2013 và luật tố tụng hình sự
2015 bước tiến lớn, tương đương việc các nước dân chcũng đặt nguyên tắc này vào
hiến pháp hoặc luật cơ bản; đây giống như cách Anh, Pháp đã làm.
+ Có quy định rõ “nếu chứng cứ không đủ thì phải tuyên người bị buộc tội không tội”.
Điều tương tự như trong các hệ thống dân chnơi tiêu chuẩn chứng minh phải được đáp
ứng, nếu không thì bị cáo phải được trắng án.
+ Việc tên gọi và phạm vi áp dụng nguyên tắc được mở rộng, từ các giai đoạn tố tụng sớm
(bắt, tạm giữ…) đến xét xử (có thể so sánh với Nhật, Pháp, Anh, Mỹ)
+ Việc luật pháp Việt Nam ngày càng cụ thể hóa nhiều hơn (qua BLTTHS 2015) d
quyền được luật sư, quyền được tiếp cận chứng cứ, giải thích nghi ngờ có lợi cho người bị
buộc tội => đây là bước tiến để tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế.
- Việt Nam so với các quốc gia tiên tiến khác :
lOMoARcPSD| 61631027
+ chế giám sát độc lập, án lệ, vai trò luận truyền thông chưa mạnh như Mỹ,
Anh, Pháp.
+ Vai trò luật sư yếu so với các quốc gia tiên tiến, chưa phải lúc nào cũng đảm bảo.
+ Nhận thức của hội, của các quan tố tụng đôi khi vẫn “xem người bị buộc tội như
đã tội” trong thực tế trước khi bản án. Đây chính ảnh hưởng tiêu cực từ truyền
thông, dư luận xã hội ở Việt Nam.
− Về truyền thông, dư luận: như các nước khác, Việt Nam cũng có nguy cơ “trước xét xử”
bị cáo bị mặc định là có tội trong dư luận hoặc qua báo chí. Các nước như Anh và Pháp có
luật và án lệ xử lý việc này nghiêm hơn (ví dụ gam màu truyền thông, hình ảnh của bị cáo,
cách đưa tin trước khi án có hiệu lực). Đối với Anh: Contempt of Court Act 1981, Media
Protocol User Guide, .... Án lệ nổi bật: Woolmington v DPP (1935), Saunders v United
Kingdom (1996)... Đối với Pháp: Loi du 15 juin 2000 relative à la présomption
d'innocence, Loi de 29 juillet 1881 sur la liberté de la presse.....
− Ở Việt Nam, quyền im lặng, tiếp cận luật sư và các bảo đảm tố tụng có thể gặp khó khăn
trong giai đoạn điều tra. Ở nhiều quốc gia (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật) quyền tiếp cận luật
sư và bảo vệ trong giai đoạn điều tra được đảm bảo hơn và giám sát tốt hơn.
− Việc thực thi trên thực tế vẫn không đồng đều, nơi thiếu hướng dẫn cụ thể, chưa đầy
đủ. Các nước như Pháp, Mỹ, Đức đều đã phát triển cả luật, án lệ, hướng dẫn tố tụng,
giám sát qua tòa án, truyền thông, và xã hội dân sự.
Nguồn:
https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-bo-luat-totung-
hinh-su-viet-nam-5189 https://lsvn.vn/ban-ve-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-to-tung-
hinh-su-vietnam1650730503-a117964.html https://vksquangngai.gov.vn/nguyen-tac-suy-
doan-vo-toi-va-nhung-van-de-dat-ra-doivoi-viec-hoan-thien-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-
2015-1845.html
Câu 2: Sự thay đổi nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam: so sánh
lOMoARcPSD| 61631027
BLTTHS 2003 và 2015
Trước đây, hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam theo BLTTHS 2003 thiên về hình thẩm
vấn (inquisitorial), trong đó quan điều tra viện kiểm sát đóng vai trò chủ đạo trong
việc thu thập, đánh giá chứng cứ quyết định khởi tố. Tuy nhiên, xu hướng cải cách
pháp đã thúc đẩy tăng ờng tính dân chủ, minh bạch trong xét xử. Trên thực tế, Hiến pháp
2013 lần đầu tiên ghi nhận “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, BLTTHS
2015 đã cụ thể hóa nguyên tắc này tại Điều 26. Ví dụ, Khoản 2 Điều 26 BLTTHS 2015 quy
định: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người
bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm sự thật khách
quan của vụ án”. Đây lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận ràng trong
luật tố tụng hình sự, nhấn mạnh bình đẳng giữa các bên tại phiên tòa, khác với BLTTHS
2003 chưa đề cập trực tiếp nguyên tắc này.
BLTTHS 2015 cũng cụ thể hóa hơn vai trò mối quan hệ của các quan tiến hành tố
tụng. quan điều tra nhiệm vụ thu thập chứng cứ, tiến hành điều tra; Viện kiểm sát
kiêm nhiệm chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tố tụng; Tòa án chịu trách nhiệm xét
xử công minh trên sở tranh tụng giữa công tố bào chữa. Theo đánh giá của một số
chuyên gia, tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay đã được phân chia thành các giai đoạn rõ
ràng thẩm quyền của từng quan (Viện KSND, CQĐT, TAND) được xác định rành
mạch, đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhau, mỗi cơ quan có chức năng riêng nhưng cùng
hướng tới mục tiêu chung xét xử đúng pháp luật. dụ, BLTTHS 2015 sử dụng thuật
ngữ “người thẩm quyền tiến hành tố tụng” thay thế cho “Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát” (Điều 60), mở rộng nhóm chủ thể có thể triệu tập bị can. Bên cạnh đó, BLTTHS 2015
trao cho Tòa án quyền chủ động hơn trong việc làm vụ án: nếu thấy cần, Tòa án có thể
yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, trả hồ để điều tra bổ sung, hoặc thậm chí trực
tiếp xác minh, thu thập chứng cứ. Những quy định này nhằm đảm bảo Tòa án có đủ căn cứ
để ra phán quyết chính xác, giảm nguy cơ oan sai.
lOMoARcPSD| 61631027
Song song với việc phân công nhiệm vụ, BLTTHS 2015 mở rộng đáng kể quyền của những
người tham gia tố tụng. So với BLTTHS 2003, người bị buộc tội (bị can, bị cáo) được bổ
sung nhiều quyền quan trọng phục vụ quyền bào chữa của mình. Cthể, BLTTHS 2015
quy định bị can được Trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính
mình”, được phép đưa ra chứng cứ và yêu cầu cơ quan tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ
liên quan. Tương tự, bị cáo quyền đề nghị hội đồng xét xử triệu tập người làm chứng,
người bị hại, giám định viên hoặc tự mình đặt câu hỏi với những người tham gia phiên tòa
nếu được chấp thuận. Các quyền này đều góp phần bảo đảm công bằng, đối kháng cho bên
gỡ tội (bào chữa). Đặc biệt, người bào chữa được coi trọng hơn hẳn: BLTTHS 2015 bắt
buộc cơ quan tố tụng phải báo trước thời gian, địa điểm tiến hành lấy lời khai, đối chất để
luật sư kịp có mặt. Luật cũng cho phép người bào chữa có mặt trong hầu hết các hoạt động
tố tụng điều tra (lấy lời khai, đối chất, nhận dạng…) và tham gia tích cực tại phiên tòa (hỏi
cung, tranh luận, đối đáp về chứng cứ). Tóm lại, BLTTHS 2015 đã bổ sung nhiều quyền
mới cho bị can, bị cáo luật sư, vượt lên các quy định hạn chế trong BLTTHS 2003,
khuyến khích đối chất và tranh luận thực chất.
Quan trọng hơn, BLTTHS 2015 đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng một cách trực tiếp
cụ thể. Khoản 2 Điều 26 nhấn mạnh tính bình đẳng trong tranh tụng, đồng thời quy định
yêu cầu về thủ tục tại phiên tòa: tất cả chứng cứ, kể cả chứng cứ xác định bị cáo có tội hoặc
vô tội, đều phải được trình bày, tranh luận, làm tại phiên tòa. Luật quy định rõ: “Bản án,
quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ kết quả tranh
tụng tại phiên tòa”. Điều này khẳng định rằng quyết định của tòa không chỉ dựa vào hồ sơ
điều tra, phải xuất phát từ kết quả đối chất, tranh luận công khai tại toà án. Trong
BLTTHS 2003 không có điều khoản tương tự, do đó BLTTHS 2015 đã thể hiện nguyên tắc
này một cách minh bạch và mạnh mẽ hơn, hướng tới đảm bảo quyền xét xử công bằng cho
các bên.
Những thay đổi trên phản ánh rõ quá trình học hỏi có chọn lọc từ các mô hình tố tụng nước
ngoài, nhất là mô hình tố tụng tranh tụng của các nước Anglo-Saxon. BLTTHS 2015 nhiều
lOMoARcPSD| 61631027
lần khẳng định tiếp thu kinh nghiệm pháp luật nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
xu thế hội nhập quốc tế. dụ, việc tăng cường quyền đối chất, quyền đưa ra phản
bác chứng cứ, coi trọng bình đẳng giữa Viện kiểm sát người bào chữa cho thấy ảnh
hưởng của hình t xử công khai, cạnh tranh kiểu phương Tây. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa, các nước đều pha trộn các mô hình tố tụng; Việt Nam cũng đang kết hợp các yếu
tố tích cực từ mô hình tranh tụng với truyền thống tập trung nhất định của mình để đáp ứng
tốt hơn yêu cầu phòng chống tội phạm bảo đảm quyền con người. Như vậy, BLTTHS
2015 không chỉ sự cải tiến nội tại còn là nỗ lực xây dựng hình tố tụng hình sự
phù hợp với điều kiện Việt Nam thông qua việc kế thừa chọn lọc những nguyên tắc tranh
tụng tiến bộ của thế giới.
Câu 3: Chứng minh sự lai ghép pháp luật giữa Civil Law và Common Law thông qua
việc so sánh án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp và Anh.
Trong hệ thống pháp luật toàn cầu, tồn tại hai truyền thống pháp lý chủ đạo: Civil Law
(luật thành văn) Common Law (án lệ). các quốc gia theo truyền thống Civil Law như
Pháp, Đức,,… văn bản pháp luật được xem nguồn luật chính. Ngược lại, tại các quốc gia
theo Common Law như Anh, Mỹ, Úc,… án lệ giữ vị trí nền tảng ảnh hưởng sâu rộng
đến hoạt động xét xử.
Anh được coi cái nôi của Common Law, nơi án lệ không chỉ đóng vai trò bổ sung cho
luật thành văn mà còn trở thành một nguồn luật chủ yếu. Báo cáo y tập trung phân tích khái
niệm, nguyên tắc, đặc điểm và ý nghĩa của án lệ trong hệ thống pháp luật Anh. 1. Án lệ trong
hệ thống pháp luật Anh - Khái niệm:
Án lệ (precedent hoặc case law) các phán quyết của tòa án trong những vụ việc đã được
giải quyết, được sử dụng như chuẩn mực pháp lý cho các vụ việc có tình tiết tương tự về sau.
- Trong án lệ có hai thành phần quan trọng:
+ Ratio decidendi: lập luận pháp cốt lõi làm scho phán quyết, giá trị ràng buộc
đối với các vụ việc sau này.
lOMoARcPSD| 61631027
+ Obiter dicta: nhận định bên lề của thẩm phán, không mang tính bắt buộc nhưng có giá trị
tham khảo.
Như vậy, án lệ vừa là sản phẩm của hoạt động xét xử, vừa một dạng “luật sống” phát triển
qua thực tiễn.
- Nguyên tắc stare decisis: Nguyên tắc bản của án lệ stare decisis “tuân theo
nhữnggì đã được quyết định”:
+ Tòa án cấp dưới buộc phải áp dụng án lệ của tòa cấp trên.
+ Tòa án ngang cấp thường tôn trọng phán quyết lẫn nhau để bảo đảm tính thống nhất,
không tuyệt đối bắt buộc.
+ Tòa án Tối cao (Supreme Court) có thể thay đổi án lệ của chính mình khi cần thiết nhằm
đáp ứng sự phát triển xã hội.
Nguyên tắc này bảo đảm hệ thống pháp luật Anh có tính nhất quán, ổn định và dễ dự đoán.
- Đặc điểm nổi bật:
+ Tính ràng buộc: án lệ nguồn luật chính thức, phán quyết của tòa cấp trên bắt buộc a
cấp dưới tuân thủ.
+ Tính ổn định thống nhất: nguyên tắc đã được xác lập sẽ được áp dụng lặp lại, giúp công
dân và tổ chức dự đoán trước cách tòa án giải quyết.
+ Vai trò sáng tạo của thẩm phán: thẩm phán không chỉ áp dụng luật còn tạo ra luật thông
qua lập luận, khác biệt với Civil Law, nơi cơ quan lập pháp giữ vai trò chủ yếu.
+ Tính linh hoạt: án lệ có thể bị phân biệt (distinguish) hoặc hủy bỏ, thay thế (overrule) nếu
không còn phù hợp.
- Ý nghĩa:
+ Pháp lý: bảo đảm sự thống nhất trong xét xử, khẳng định nguyên tắc “vụ việc giống nhau
– phán quyết giống nhau”.
+ Xã hội: tạo sự dự đoán cho các chủ thể pháp luật, củng cố niềm tin vào công lý.
+ Phát triển pháp luật: giúp hệ thống pháp luật thích ứng nhanh với biến đổi hội
không cần liên tục ban hành luật mới, đồng thời nhấn mạnh vai trò trung tâm của thẩm phán.
lOMoARcPSD| 61631027
2. Quá trình hình thành án lệ trong pháp luật Pháp
- Truyền thống ban đầu:
Hệ thống pháp luật Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật La truyền thống lục địa.
Sau Cách mạng tư sản 1789, tư tưởng đề cao vai trò nhân dân và cơ quan lập pháp trở thành
nền tảng xây dựng pháp luật, trong đó luật thành văn giữ vị trí tối cao. Bộ luật Dân sự Napoleon
(1804) đánh dấu bước ngoặt quan trọng, khẳng định luật thành văn nguồn luật thượng tôn.
Thẩm phán được coi “cái miệng của luật” (la bouche de la loi), chỉ nhiệm vụ áp dụng
chứ không sáng tạo luật. Quan điểm này nhấn mạnh sự khác biệt với hệ thống Common Law,
nơi thẩm phán trực tiếp tạo lập pháp luật.
Do tuyệt đối đề cao luật thành văn, pháp luật Pháp ban đầu phnhận vai trò của án lệ. Quyết
định tòa án chỉ ràng buộc các bên trong vụ việc cụ thể, không có giá trị làm chuẩn mực chung
như stare decisis trong Common Law.
- Thực tiễn xét xử và “án lệ ngầm”:
Trên thực tế, các tòa án Pháp đặc biệt là Tòa phá án (Cour de cassation) – thường giữ sự
nhất quán trong lập luận pháp lý. Những phán quyết quan trọng của tòa cấp cao thường được
tham khảo và áp dụng ở cấp dưới, hình thành “án lệ ngầm”. Tuy không được công nhận chính
thức, chúng vẫn có tác động thực tiễn, đặt nền móng cho sự thừa nhận dần dần.
Sự thừa nhận từng bước:
Sang thế kỷ XX, án lệ ngày càng được chú ý hơn. Phán quyết của quan tài phán tối cao
có ảnh hưởng lớn, bảo đảm sự thống nhất pháp luật. Giới học thuật cũng dần thừa nhận vai t
sáng tạo của thẩm phán trong việc lấp khoảng trống của luật. Từ đây, án lệ trở thành nguồn bổ
trợ quan trọng, gắn với khái niệm “luật sống” (droit vivant).
Một bước ngoặt quan trọng là việc công bố án lệ: các bản án tiêu biểu của Tòa phá án và
Hội đồng Nhà ớc được tuyển chọn, công khai và viện dẫn rộng rãi. Dù chưa được đặt ngang
hàng với luật thành n, án lệ đã trở thành nguồn tham khảo chính thức, khẳng định vai trò
ngày càng lớn trong hệ thống pháp luật Pháp.
Tóm lại, sự thừa nhận án lệ tại Pháp diễn ra dần dần: từ chỗ phủ nhận hoàn toàn, đến sử
dụng ngầm trong thực tiễn, rồi được công bố chính thức như nguồn tham khảo có giá trị. Quá
lOMoARcPSD| 61631027
trình này thể hiện tính linh hoạt của Civil Law, vừa duy trì ưu thế luật thành văn vừa bổ sung
án lệ để bảo đảm sự thống nhất và thích ứng với xã hội hiện đại.
3. So sánh sự lai ghép giữa án lệ Anh Pháp
- Điểm giống nhau:
+ Đều là các quyết định tư pháp quá khứ được dùng để giải quyết vụ việc tương lai.
+ Đều bổ sung cho hệ thống pháp luật, xử những vấn đề chưa quy định trong luật
thành văn.
+ Đều phản ánh vai trò sáng tạo của thẩm phán và có ý nghĩa định hướng xét xử, ảnh hưởng
đến lập pháp.
- Điểm khác nhau:
Tiêu chí
Án lệ Anh (Common law)
Án lệ Pháp (Civil law)
Tính ràng
buộc
tính bắt buộc cao (stare decisis tòa
án cấp dưới phải tuân thủ phán quyết của
tòa án cấp trên).
Không tính bắt buộc tuyệt đối,
chủ yếu mang tính tham khảo.
Vị trí trong
hệ thống pháp
luật
nguồn luật chính yếu, ngang hàng
với văn bản pháp luật.
Không phải nguồn luật chính
thống, chỉ là nguồn bổ trợ.
Nguyên tắc
Áp dụng theo tiền lệ ràng buộc.
Chủ yếu xét xử theo luật thành
văn, án lệ chỉ tham khảo.
quan
hình thành án
Chủ yếu do tòa án tối cao và tòa phúc
Do Tòa án tối cao (Cour de
cassation, Conseil d’État) nhưng
Tiêu chí
Án lệ Anh (Common law)
Án lệ Pháp (Civil law)
lệ
thẩm.
được công bố có chọn lọc.
lOMoARcPSD| 61631027
Mục đích
Bảo đảm tính ổn định và thống nhất của
pháp luật.
Hỗ trợ giải thích luật, lấp khoảng
trống khi luật chưa quy định rõ.
Tính truyền
thống
Truyền thống lâu đời, gắn liền với hệ
thống common law từ thế kỷ XII.
Ban đầu phủ nhận án lệ, sau dần
thừa nhận có chọn lọc.
- Bối cảnh lai ghép:
+ Toàn cầu hóa hội nhập pháp đòi hỏi sự tương thích để thuận lợi cho hợp tác
thương mại.
+ Xã hội ngày càng phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề mà luật thành văn chưa kịp điều chỉnh.
+ Yêu cầu bảo đảm tính thống nhất trong xét xử, tránh phán quyết tùy tiện.
- Biểu hiện lai ghép:
+ Pháp chính thức công bố và hệ thống hóa án lệ.
+ Giá trị tham khảo của án lệ ngày càng được đề cao trong xét xử.
+ Thẩm phán Pháp đóng vai trò tích cực hơn trong phát triển pháp luật, vẫn hạn chế so
với thẩm phán trong Common Law.
+ Án lệ được giảng dạy và nghiên cứu nhiều hơn trong học thuật pháp lý.
Như vậy, Hệ thống pháp luật Pháp hiện đại vẫn giữ nền tảng Civil Law với ưu thế của luật
thành văn, nhưng án lệ đã trở thành nguồn bổ trợ không thể thiếu. Sự dung hòa này phản ánh
tính linh hoạt và khả năng thích ứng của pháp luật Pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Câu 4: So sánh chế định bảo hiến của Pháp, Đức, Mỹ và Việt Nam. Đưa ra 1 số gợi ý
cho Việt Nam trong sửa đổi cơ chế bảo hiến.
Khái niệm: Bảo hiến là cơ chế nhằm bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, ngăn ngừa việc
các đạo luật hoặc hành vi nhà nước trái với Hiến pháp. Tùy vào truyền thống pháp luật,
mỗi quốc gia có cách thiết kế cơ quan và phương thức bảo hiến khác nhau, tạo nên những
mô hình đa dạng
lOMoARcPSD| 61631027
So sánh chế định bảo hiến và gợi ý cho Việt Nam
Chế định bảo hiến là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo sự tối
cao của Hiến pháp. Dưới đây là so sánh chế định bảo hiến của Pháp, Đức, Mỹ Việt Nam,
cùng với một số gợi ý cho Việt Nam.
Tiêu chí
Pháp
Đức
Mỹ
quan
bảo hiến
Hội đồng Bảo
hiến (Conseil
constitutionnel),
một quan
chuyên trách
độc lập, hoạt
động theo
hình kiểm soát
tập trung, nhưng
tính chính trị
cao.
Tòa án Hiến pháp Liên bang
(Bundesverfassungsgericht),
một quan tài phán độc
lập, hoạt động theo hình
kiểm soát tập trung, nhưng
có tính tư pháp cao.
Tòa án Tối
cao các
tòa án
khác, hoạt
động theo
hình
kiểm soát
phân tán
(phi tập
trung).
Thời điểm
Chủ yếu là
Cả trước và sau khi luật có
Sau khi
lOMoARcPSD| 61631027
kiểm soát
trước khi luật có
hiệu lực (kiểm
soát tiên phát).
Tuy nhiên, sau
Tu chính án
năm 2008, Pháp
cũng chế
kiểm soát hậu
phát (kiểm soát
các đạo luật đã
có hiệu lực).
hiệu lực.
luật đã
hiệu lực
được áp
dụng trong
một vụ việc
cụ thể.
chế
kiểm soát
Kiểm soát trừu
tượng (không
gắn với vụ việc
cụ thể).
Cả kiểm soát trừu tượng (do
các quan nhà nước yêu
cầu) kiểm soát cụ thể (gắn
với vụ án cụ thể).
Kiểm soát
cụ thể, gắn
với việc
giải quyết
một vụ án
cụ thể. Tòa
án không
tự mình
kiểm tra
chỉ khi
đương
sự yêu cầu.
Ưu điểm
- Quyết định có
tính chất chung
thẩm bắt
buộc. - Ngăn
chặn
- Tòa án Hiến pháp
độc lập, chuyên môn cao.
- Bảo vệ quyền con
người, quyền công n hiệu
- Hiệu quả
thực
tiễn, gắn
với vụ việc
cụ thể.
lOMoARcPSD| 61631027
quả. - Kết hợp linh hoạt
giữa
được vi phạm
hiến pháp ngay
từ đầu.
kiểm soát trừu tượng cụ
thể.
- Mọi tòa
án đều
thẩm
quyền bảo
hiến, đảm
bảo sự linh
hoạt.
lOMoARcPSD| 61631027
Nhược
điểm
- Tính
chính trị cao,
thiếu sự độc lập
về mặt tư pháp.
- Ít khả
năng bảo vệ
quyền con
người, quyền
công dân thông
qua các vụ việc
cụ thể.
- thể bị coi "siêu quyền
lực" quyết định của Tòa
án Hiến pháp thể hiệu
hóa ý chí của Quốc hội.
- Tính phi
tập trung
thể gây
ra sự thiếu
nhất quán
trong áp
dụng Hiến
pháp. - Chỉ
bảo hiến
hậu phát,
nghĩa
một đạo
luật vi hiến
thể đã
gây hậu
quả
nghiêm
trọng trước
khi bị
tuyên bố
vi hiến.
Gợi ý cho Việt Nam trong sửa đổi cơ chế bảo hiến
- Thành lập quan bảo hiến chuyên trách, độc lập: Nên cân nhắc thành lập một
quanchuyên biệt như Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng Bảo hiến. quan này cần tính
độc lập tương đối với Quốc hội, Chính phủ Tòa án, đảm bảo tính chuyên môn khách
quan khi xem xét các vấn đề hiến pháp.
- Mở rộng chủ thể và đối tượng bảo hiến:
Về chủ thể: Nên cho phép nhân, tổ chức, và các cơ quan nhà nước có quyền yêu cầu
cơ quan bảo hiến xem xét tính hợp hiến của văn bản pháp luật.
lOMoARcPSD| 61631027
Về đối tượng: Cần bổ sung thẩm quyền xem xét cả các văn bản pháp luật do Quốc hội
ban hành, thay vì chỉ giới hạn ở văn bản dưới luật như hiện nay.
- Xác lập rõ cơ chế bảo hiến:
Cần quy định chi tiết về trình tự, thủ tục yêu cầu và xem xét bảo hiến.
Kết hợp giữa kiểm soát trừu ợng (theo yêu cầu của các cơ quan nhà ớc) kiểm
soát cụ thể (gắn với vụ việc cụ thể), để vừa đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật,
vừa bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Tăng cường tính pháp quyền trong hoạt động bảo hiến:
Các thành viên của quan bảo hiến nên những chuyên gia pháp luật, uy tín cao
và không kiêm nhiệm các chức vụ chính trị.
Quyết định của quan bảo hiến phải hiệu lực chung thẩm, bắt buộc đối với tất cả
các cơ quan, tổ chức, cá nhân và không thể bị hủy bỏ bởi bất kỳ cơ quan nào khác.
Câu 5: Hãy chỉ ra mô hình đào tạo luật hiệu quả và phù hợp với Việt Nam hiện nay.a
MÔ HÌNH ĐÀO TẠO LUẬT HIỆU QUẢ VÀ PHÙ HỢP VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Mở đầu
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhu cầu về nguồn nhân lực pháp luật
chất lượng cao trở nên cấp thiết đối với Việt Nam. Sinh viên luật không chỉ phục vụ trong
bộ máy nhà nước mà còn tham gia hoạt động pháp lý trong doanh nghiệp, các tổ chức quốc
tế và hoạt động tư vấn pháp luật. Do vậy, việc tìm kiếm và xây dựng một mô hình đào tạo
luật hiệu quả, phù hợp với đặc thù pháp luật Việt Nam xu thế toàn cầu yêu cầu cấp
bách.
2. Nội dung
2.1. Đặc tcủa hệ thống pháp luật và yêu cầu đặt ra cho đào tạo luật ở Việt Nam Việt Nam
thuộc hệ thống Civil Law (luật thành văn), coi trọng sự pháp điển hóa vai trò của văn
bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, xu thế toàn cầu hóa và sự gia tăng của các quan hệ
lOMoARcPSD| 61631027
thương mại, đầu tư quốc tế đòi hỏi sinh viên luật phải vừa nắm vững nền tảng lý luận, vừa
có khả năng vận dụng linh hoạt trong thực tiễn.
Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy hình đào tạo truyền thống tại c trường luật
còn nhiều hạn chế: thiên về thuyết, thiếu gắn kết với thực tiễn nghề luật, kỹ năng hành
nghề ngoại ngữ chuyên ngành còn yếu. Điều này làm cho nhiều sinh viên sau khi tốt
nghiệp gặp khó khăn trong việc thích ứng với thị trường lao động.
2.2. Kinh nghiệm mô hình đào tạo luật của một số quốc gia
- Mỹ (Common Law): đào tạo luật sau đại học (Juris Doctor – JD). Sinh viên phải có bằng
cử nhân trước khi học luật, chương trình tập trung vào nghiên cứu tình huống (case
method), tranh luận, kỹ năng hành nghề và tính thực tiễn cao.
- Đức (Civil Law): chia thành hai giai đoạn: đào tạo đại học (thi kỳ thi quốc gia lần 1), sau
đó là thực tập 2 năm trong hệ thống tư pháp (Referendariat), rồi thi kỳ thi quốc gia lần 2
để đủ điều kiện hành nghề. hình kết hợp chặt chẽ giữa luận thực tiễn. - Pháp
(Civil Law): đào tạo luật theo bậc đại học thạc tiến , sự phân hóa rệt giữa
nghiên cứu học thuật và đào tạo nghề (luật sư, thẩm phán, công chứng viên…). Sinh viên
có thể chọn hướng nghiên cứu hoặc hướng hành nghề.
- Singapore: kết hợp hài hòa giữa đào tạo hàn lâm đào tạo thực hành. Sinh viên luật vừa
học thuyết, vừa tham gia moot court, thực tập tại tòa án, công ty luật, doanh nghiệp.
Đặc biệt chú trọng kỹ năng nghề luật trong môi trường quốc tế đào tạo bằng tiếng Anh.
Bài học cho Việt Nam:
- Cần giữ nền tảng lý luận vững chắc (như Đức, Pháp).
- Đồng thời chú trọng kỹ năng thực nh nghề luật duy tình huống (như Mỹ,
Singapore).
- Gắn kết chặt chẽ với cơ quan thực tiễn (tòa án, viện kiểm sát, luật sư, doanh nghiệp).
2.3. Đề xuất mô hình đào tạo luật hiệu quả và phù hợp với Việt Nam

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61631027
ĐỀ CƯƠNG MÔN LUẬT SO SÁNH Nhóm 5
Câu 1: Chứng minh quy tắc suy đoán vô tội trong bộ Luật hình sự thay dổi theo thời
gian. Tìm kiếm mô hình lý tưởng cho Việt Nam
a) Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng trên thế giới:
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc trụ cột của tố tụng hình sự (TTHS). 1.
Khoản 1 Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp
quốc quy định: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi
có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai, với đầy đủ bảo đảm
cần thiết cho quyền biện hộ”. 2.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Người
bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi
phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”. 3.
Tương tự, quyền được coi là vô tội cũng được ghi nhận tại Điều 6 Công ước
Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản (ECHR, 1950) 4.
Điều 8 Công ước nhân quyền châu Mỹ (ACHR, 1969) 5.
Điều 7 Hiến chương Châu Phi về quyền con người và các dân tộc (Hiến chương Châu Phi, 1981).
Theo các quy định trên, nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện qua 03 vấn đề chính:
Thứ nhất, về chủ thể được hưởng quyền suy đoán vô tội là những người bị cáo buộc về
hình sự, còn chủ thể áp dụng thuộc về bên buộc tội
Thứ hai, về nội dung: Suy đoán vô tội được hiểu rằng phải coi người bị cáo buộc về hình
sự là không có tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội tại một phiên tòa xét xử
công khai, nơi họ được bảo đảm quyền bào chữa cho mình lOMoAR cPSD| 61631027
Thứ ba, về thời gian suy đoán vô tội: Một người bắt đầu được suy đoán vô tội kể từ khi cơ
quan buộc tội có hành động cáo buộc họ thực hiện một hành vi bị luật hình sự trừng phạt;
suy đoán vô tội kết thúc khi người đó được chứng minh là phạm tội tại một phiên tòa xét xử công khai.
Nguyên tắc suy đoán vô tội được nhiều quốc gia trên thế giới coi là nguyên tắc cơ bản trong TTHS. 1.
Ở nước Anh và xứ Wales, ngoài án lệ, các đạo luật do Hạ Nghị viện ban hành, các
văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương ban hành trên
cơ sở ủy quyền của Hạ Nghị viện, thì Công ước Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do
cơ bản có thể được coi là một bộ phận cấu thành pháp luật TTHS Vương quốc Anh. Nguyên
tắc suy đoán vô tội được quy định tại Công ước Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do
cơ bản năm 1950: “Người bị cáo buộc phạm tội hình sự được coi là vô tội cho đến khi tội
lỗi của người đó được chứng minh theo quy định của pháp luật”. 2.
Ở Pháp, nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền năm 1789 (Điều 9): “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố
phạm tội”. Đồng thời, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) nước Cộng hòa Pháp cũng quy
định: “Tất cả những người bị nghi ngờ hoặc bị truy tố đều được coi là vô tội nếu tội trạng
của họ chưa được chứng minh”. 3.
Ở Hoa Kỳ, nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận tại Hiến pháp Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ: “Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay một
tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm đoàn, trừ trường
hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ
trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không một ai bị kết án hai
lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể”. 4.
Ở Liên bang Nga, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Hiến pháp và
BLTTHS năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2021. Cụ thể: “1. Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi tội của người đó được chứng minh theo đúng trình tự, thủ tục do lOMoAR cPSD| 61631027
Bộ luật này quy định và bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật; 2.
Người bị tình nghi phạm tội hoặc người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh sự vô
tội của mình. Trách nhiệm chứng minh sự buộc tội và bác bỏ những luận cứ bào chữa của
người bị tình nghi phạm tội hoặc người bị buộc tội thuộc về bên buộc tội; 3. Mọi nghi ngờ
về tội của người bị buộc tội, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị buộc tội; 4. Bản án buộc tội không
được dựa trên cơ sở những phán đoán”. 5.
Ở Trung Quốc, các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa được quy định trong Chương 1: Nhiệm vụ và những nguyên tắc cơ bản. Trong
chương này, các điều luật không nêu tên gọi của các nguyên tắc mà chỉ thể hiện nội dung
của các nguyên tắc đó. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo pháp luật nước này được quy định:
“Không ai bị coi là có tội, nếu chưa bị Tòa án nhân dân kết án theo quy định của pháp luật”.
b) Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định cụ thể trong BLTTHS 2003 (sửa đổi, bổ sung 2009)
Mặc dù BLTTHS 2003 không có điều khoản riêng ghi rõ cụm từ "suy đoán vô tội", nhưng
nguyên tắc này được thể hiện gián tiếp qua nhiều quy định cụ thể, trong đó đáng chú ý là:
Điều 9 :Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.”
=> Thể hiện rằng họ chưa bị coi là có tội, và có quyền bảo vệ mình.
Điều 10 :Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật Đây
là điều thể hiện trực tiếp nhất nguyên tắc suy đoán vô tội:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt hình sự khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
Điều 15 :Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng lOMoAR cPSD| 61631027
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc
tội có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội.”
=> Người bị buộc tội không phải chứng minh là mình vô tội, mà cơ quan tố tụng phải
chứng minh là họ có tội.
Điều 214 :Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trong trường hợp chứng cứ chưa đủ để buộc tội, Tòa có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
thể hiện tinh thần không vội vàng kết tội khi chứng cứ chưa rõ ràng.
c) Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định cụ thể trong BLTTHS 2015:
Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện gia nhập
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Từ Hiến pháp năm
1992, BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đến các văn bản quy phạm pháp luật khác
đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận những quy định liên quan đến suy đoán vô tội.
BLTTHS 2015 đã cụ thể hoá quy định của Hiến pháp 2013 tại Điều 13 như sau:
Chủ thể có quyền được suy đoán vô tội là người bị buộc tội, bao gồm người bị người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điểm đ, khoản 1, Điều 4, BLTTHS 2015).
Ngoài Điều 13, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội còn được quy định tại các điều
luật khác của BLTTHS 2015. Cụ thể:
1. Một là, BLTTHS 2015 đã ghi nhận Toà án là cơ quan duy nhất có quyền tuyên một
người là phạm tội. Khoản 1, Điều 326 quy định “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm
mới có quyền nghị án”.
2. Hai là, theo điều 8 BLTTHS 2015 Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải quan tâm, tạo điều kiện cho người bị buộc tội trong việc đưa ra chứng cứ,
yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án để chứng minh họ không có tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. lOMoAR cPSD| 61631027
Điều 10 BLTTHS 2015 quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn
của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
cưỡng chế phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS.
3. Ba là, Điều 7 + Điều 87 + Điều 236 và Điều 280 + Điều 358 + khoản 3, Điều 371,
Điều 388 BLTTHS 2015 quy định mọi hoạt động TTHS phải tuân thủ trình tự, thủ tục luật định.
4. Bốn là, khoản 2, Điều 326 BLTTHS 2015 quy định viêc nghị án chỉ được căn cứ ̣
vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tố tụng khác.
5. Năm là, Điều 15 BLTTHS 2015 quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc
về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác
định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. ***Đặc biệt
Điều 58 - Điều 61 BLTTHS 2015 đã ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc tội. Theo
đó, người bị buộc tội có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Điều 98 BLTTHS 2015 Lời nhận tội của người bị buộc tội chỉ có thể được coi là chứng cứ
nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của người
bị buộc tội làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.  Điểm mới: lOMoAR cPSD| 61631027
a. BLTTHS 2015 bổ sung nguyên tắc mới trong Chương Những quy định chung
— điều khoản riêng là Điều 13 với tên “Nguyên tắc suy đoán vô tội”. “Nguyên
tắc suy đoán vô tội” được quy định cụ thể trong BLTTHSVN 2015
b. Mở rộng nội hàm — quy định về chứng cứ không đủ trong BLTTHS 2015
c. Tương thích với Hiến pháp 2013
d. Quy định cụ thể hơn về chủ thể, giai đoạn áp dụng, quyền chứng minh, quyền im lặng
e. Nguyên tắc “giải thích hoài nghi có lợi cho bị cáo (người bị buộc tội)”. Trong
BLTTHS 2015 có quy định rõ khi có nghi ngờ thì phải giải thích theo hướng có
lợi cho người bị buộc tội.
d) Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng ở việt nam so sánh với các quốc gia tiên tiến khác: - Việt Nam:
+ Việc hiến định nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 2013 và luật tố tụng hình sự
2015 là bước tiến lớn, tương đương việc các nước dân chủ cũng đặt nguyên tắc này vào
hiến pháp hoặc luật cơ bản; đây giống như cách Anh, Pháp đã làm.
+ Có quy định rõ “nếu chứng cứ không đủ thì phải tuyên người bị buộc tội không có tội”.
Điều tương tự như trong các hệ thống dân chủ nơi tiêu chuẩn chứng minh phải được đáp
ứng, nếu không thì bị cáo phải được trắng án.
+ Việc tên gọi và phạm vi áp dụng nguyên tắc được mở rộng, từ các giai đoạn tố tụng sớm
(bắt, tạm giữ…) đến xét xử (có thể so sánh với Nhật, Pháp, Anh, Mỹ)
+ Việc luật pháp Việt Nam ngày càng cụ thể hóa nhiều hơn (qua BLTTHS 2015) ví dụ
quyền được luật sư, quyền được tiếp cận chứng cứ, giải thích nghi ngờ có lợi cho người bị
buộc tội => đây là bước tiến để tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế.
- Việt Nam so với các quốc gia tiên tiến khác : lOMoAR cPSD| 61631027
+ Cơ chế giám sát độc lập, án lệ, vai trò dư luận và truyền thông chưa mạnh như ở Mỹ, Anh, Pháp.
+ Vai trò luật sư yếu so với các quốc gia tiên tiến, chưa phải lúc nào cũng đảm bảo.
+ Nhận thức của xã hội, của các cơ quan tố tụng đôi khi vẫn “xem người bị buộc tội như
đã có tội” trong thực tế trước khi có bản án. Đây chính là ảnh hưởng tiêu cực từ truyền
thông, dư luận xã hội ở Việt Nam.
− Về truyền thông, dư luận: như các nước khác, Việt Nam cũng có nguy cơ “trước xét xử”
bị cáo bị mặc định là có tội trong dư luận hoặc qua báo chí. Các nước như Anh và Pháp có
luật và án lệ xử lý việc này nghiêm hơn (ví dụ gam màu truyền thông, hình ảnh của bị cáo,
cách đưa tin trước khi án có hiệu lực). Đối với Anh: Contempt of Court Act 1981, Media
Protocol User Guide, .... Án lệ nổi bật: Woolmington v DPP (1935), Saunders v United
Kingdom (1996)... Đối với Pháp: Loi du 15 juin 2000 relative à la présomption
d'innocence, Loi de 29 juillet 1881 sur la liberté de la presse.....
− Ở Việt Nam, quyền im lặng, tiếp cận luật sư và các bảo đảm tố tụng có thể gặp khó khăn
trong giai đoạn điều tra. Ở nhiều quốc gia (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật) quyền tiếp cận luật
sư và bảo vệ trong giai đoạn điều tra được đảm bảo hơn và giám sát tốt hơn.
− Việc thực thi trên thực tế vẫn không đồng đều, có nơi thiếu hướng dẫn cụ thể, chưa đầy
đủ. Các nước như Pháp, Mỹ, Đức đều đã phát triển cả luật, án lệ, hướng dẫn tố tụng, và
giám sát qua tòa án, truyền thông, và xã hội dân sự. Nguồn:
https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-bo-luat-totung- hinh-su-viet-nam-5189
https://lsvn.vn/ban-ve-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-to-tung-
hinh-su-vietnam1650730503-a117964.html
https://vksquangngai.gov.vn/nguyen-tac-suy-
doan-vo-toi-va-nhung-van-de-dat-ra-doivoi-viec-hoan-thien-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam- 2015-1845.html
Câu 2: Sự thay đổi nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam: so sánh lOMoAR cPSD| 61631027 BLTTHS 2003 và 2015
Trước đây, hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam theo BLTTHS 2003 thiên về mô hình thẩm
vấn (inquisitorial), trong đó cơ quan điều tra và viện kiểm sát đóng vai trò chủ đạo trong
việc thu thập, đánh giá chứng cứ và quyết định khởi tố. Tuy nhiên, xu hướng cải cách tư
pháp đã thúc đẩy tăng cường tính dân chủ, minh bạch trong xét xử. Trên thực tế, Hiến pháp
2013 lần đầu tiên ghi nhận “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, và BLTTHS
2015 đã cụ thể hóa nguyên tắc này tại Điều 26. Ví dụ, Khoản 2 Điều 26 BLTTHS 2015 quy
định: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người
bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án”. Đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận rõ ràng trong
luật tố tụng hình sự, nhấn mạnh bình đẳng giữa các bên tại phiên tòa, khác với BLTTHS
2003 chưa đề cập trực tiếp nguyên tắc này.
BLTTHS 2015 cũng cụ thể hóa hơn vai trò và mối quan hệ của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Cơ quan điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ, tiến hành điều tra; Viện kiểm sát
kiêm nhiệm chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tố tụng; Tòa án chịu trách nhiệm xét
xử công minh trên cơ sở tranh tụng giữa công tố và bào chữa. Theo đánh giá của một số
chuyên gia, tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay đã được phân chia thành các giai đoạn rõ
ràng và thẩm quyền của từng cơ quan (Viện KSND, CQĐT, TAND) được xác định rành
mạch, đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhau, mỗi cơ quan có chức năng riêng nhưng cùng
hướng tới mục tiêu chung là xét xử đúng pháp luật. Ví dụ, BLTTHS 2015 sử dụng thuật
ngữ “người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” thay thế cho “Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát” (Điều 60), mở rộng nhóm chủ thể có thể triệu tập bị can. Bên cạnh đó, BLTTHS 2015
trao cho Tòa án quyền chủ động hơn trong việc làm rõ vụ án: nếu thấy cần, Tòa án có thể
yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc thậm chí trực
tiếp xác minh, thu thập chứng cứ. Những quy định này nhằm đảm bảo Tòa án có đủ căn cứ
để ra phán quyết chính xác, giảm nguy cơ oan sai. lOMoAR cPSD| 61631027
Song song với việc phân công nhiệm vụ, BLTTHS 2015 mở rộng đáng kể quyền của những
người tham gia tố tụng. So với BLTTHS 2003, người bị buộc tội (bị can, bị cáo) được bổ
sung nhiều quyền quan trọng phục vụ quyền bào chữa của mình. Cụ thể, BLTTHS 2015
quy định bị can được “Trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính
mình”, được phép đưa ra chứng cứ và yêu cầu cơ quan tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ
liên quan. Tương tự, bị cáo có quyền đề nghị hội đồng xét xử triệu tập người làm chứng,
người bị hại, giám định viên hoặc tự mình đặt câu hỏi với những người tham gia phiên tòa
nếu được chấp thuận. Các quyền này đều góp phần bảo đảm công bằng, đối kháng cho bên
gỡ tội (bào chữa). Đặc biệt, người bào chữa được coi trọng hơn hẳn: BLTTHS 2015 bắt
buộc cơ quan tố tụng phải báo trước thời gian, địa điểm tiến hành lấy lời khai, đối chất để
luật sư kịp có mặt. Luật cũng cho phép người bào chữa có mặt trong hầu hết các hoạt động
tố tụng điều tra (lấy lời khai, đối chất, nhận dạng…) và tham gia tích cực tại phiên tòa (hỏi
cung, tranh luận, đối đáp về chứng cứ). Tóm lại, BLTTHS 2015 đã bổ sung nhiều quyền
mới cho bị can, bị cáo và luật sư, vượt lên các quy định hạn chế trong BLTTHS 2003,
khuyến khích đối chất và tranh luận thực chất.
Quan trọng hơn, BLTTHS 2015 đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng một cách trực tiếp và
cụ thể. Khoản 2 Điều 26 nhấn mạnh tính bình đẳng trong tranh tụng, đồng thời quy định
yêu cầu về thủ tục tại phiên tòa: tất cả chứng cứ, kể cả chứng cứ xác định bị cáo có tội hoặc
vô tội, đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Luật quy định rõ: “Bản án,
quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa”. Điều này khẳng định rằng quyết định của tòa không chỉ dựa vào hồ sơ
điều tra, mà phải xuất phát từ kết quả đối chất, tranh luận công khai tại toà án. Trong
BLTTHS 2003 không có điều khoản tương tự, do đó BLTTHS 2015 đã thể hiện nguyên tắc
này một cách minh bạch và mạnh mẽ hơn, hướng tới đảm bảo quyền xét xử công bằng cho các bên.
Những thay đổi trên phản ánh rõ quá trình học hỏi có chọn lọc từ các mô hình tố tụng nước
ngoài, nhất là mô hình tố tụng tranh tụng của các nước Anglo-Saxon. BLTTHS 2015 nhiều lOMoAR cPSD| 61631027
lần khẳng định tiếp thu kinh nghiệm pháp luật nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
và xu thế hội nhập quốc tế. Ví dụ, việc tăng cường quyền đối chất, quyền đưa ra và phản
bác chứng cứ, coi trọng bình đẳng giữa Viện kiểm sát và người bào chữa cho thấy ảnh
hưởng của mô hình xét xử công khai, cạnh tranh kiểu phương Tây. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa, các nước đều pha trộn các mô hình tố tụng; Việt Nam cũng đang kết hợp các yếu
tố tích cực từ mô hình tranh tụng với truyền thống tập trung nhất định của mình để đáp ứng
tốt hơn yêu cầu phòng chống tội phạm và bảo đảm quyền con người. Như vậy, BLTTHS
2015 không chỉ là sự cải tiến nội tại mà còn là nỗ lực xây dựng mô hình tố tụng hình sự
phù hợp với điều kiện Việt Nam thông qua việc kế thừa có chọn lọc những nguyên tắc tranh
tụng tiến bộ của thế giới.
Câu 3: Chứng minh sự lai ghép pháp luật giữa Civil Law và Common Law thông qua
việc so sánh án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp và Anh.
Trong hệ thống pháp luật toàn cầu, tồn tại hai truyền thống pháp lý chủ đạo: Civil Law
(luật thành văn) và Common Law (án lệ). Ở các quốc gia theo truyền thống Civil Law như
Pháp, Đức,,… văn bản pháp luật được xem là nguồn luật chính. Ngược lại, tại các quốc gia
theo Common Law như Anh, Mỹ, Úc,… án lệ giữ vị trí nền tảng và có ảnh hưởng sâu rộng
đến hoạt động xét xử.
Anh được coi là cái nôi của Common Law, nơi án lệ không chỉ đóng vai trò bổ sung cho
luật thành văn mà còn trở thành một nguồn luật chủ yếu. Báo cáo này tập trung phân tích khái
niệm, nguyên tắc, đặc điểm và ý nghĩa của án lệ trong hệ thống pháp luật Anh. 1. Án lệ trong
hệ thống pháp luật Anh - Khái niệm:
Án lệ (precedent hoặc case law) là các phán quyết của tòa án trong những vụ việc đã được
giải quyết, được sử dụng như chuẩn mực pháp lý cho các vụ việc có tình tiết tương tự về sau.
- Trong án lệ có hai thành phần quan trọng:
+ Ratio decidendi: lập luận pháp lý cốt lõi làm cơ sở cho phán quyết, có giá trị ràng buộc
đối với các vụ việc sau này. lOMoAR cPSD| 61631027
+ Obiter dicta: nhận định bên lề của thẩm phán, không mang tính bắt buộc nhưng có giá trị tham khảo.
Như vậy, án lệ vừa là sản phẩm của hoạt động xét xử, vừa là một dạng “luật sống” phát triển qua thực tiễn.
- Nguyên tắc stare decisis: Nguyên tắc cơ bản của án lệ là stare decisis – “tuân theo
nhữnggì đã được quyết định”:
+ Tòa án cấp dưới buộc phải áp dụng án lệ của tòa cấp trên.
+ Tòa án ngang cấp thường tôn trọng phán quyết lẫn nhau để bảo đảm tính thống nhất, dù
không tuyệt đối bắt buộc.
+ Tòa án Tối cao (Supreme Court) có thể thay đổi án lệ của chính mình khi cần thiết nhằm
đáp ứng sự phát triển xã hội.
Nguyên tắc này bảo đảm hệ thống pháp luật Anh có tính nhất quán, ổn định và dễ dự đoán. - Đặc điểm nổi bật:
+ Tính ràng buộc: án lệ là nguồn luật chính thức, phán quyết của tòa cấp trên bắt buộc tòa cấp dưới tuân thủ.
+ Tính ổn định và thống nhất: nguyên tắc đã được xác lập sẽ được áp dụng lặp lại, giúp công
dân và tổ chức dự đoán trước cách tòa án giải quyết.
+ Vai trò sáng tạo của thẩm phán: thẩm phán không chỉ áp dụng luật mà còn tạo ra luật thông
qua lập luận, khác biệt với Civil Law, nơi cơ quan lập pháp giữ vai trò chủ yếu.
+ Tính linh hoạt: án lệ có thể bị phân biệt (distinguish) hoặc hủy bỏ, thay thế (overrule) nếu không còn phù hợp. - Ý nghĩa:
+ Pháp lý: bảo đảm sự thống nhất trong xét xử, khẳng định nguyên tắc “vụ việc giống nhau
– phán quyết giống nhau”.
+ Xã hội: tạo sự dự đoán cho các chủ thể pháp luật, củng cố niềm tin vào công lý.
+ Phát triển pháp luật: giúp hệ thống pháp luật thích ứng nhanh với biến đổi xã hội mà
không cần liên tục ban hành luật mới, đồng thời nhấn mạnh vai trò trung tâm của thẩm phán. lOMoAR cPSD| 61631027
2. Quá trình hình thành án lệ trong pháp luật Pháp
- Truyền thống ban đầu:
Hệ thống pháp luật Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật La Mã và truyền thống lục địa.
Sau Cách mạng tư sản 1789, tư tưởng đề cao vai trò nhân dân và cơ quan lập pháp trở thành
nền tảng xây dựng pháp luật, trong đó luật thành văn giữ vị trí tối cao. Bộ luật Dân sự Napoleon
(1804) đánh dấu bước ngoặt quan trọng, khẳng định luật thành văn là nguồn luật thượng tôn.
Thẩm phán được coi là “cái miệng của luật” (la bouche de la loi), chỉ có nhiệm vụ áp dụng
chứ không sáng tạo luật. Quan điểm này nhấn mạnh sự khác biệt với hệ thống Common Law,
nơi thẩm phán trực tiếp tạo lập pháp luật.
Do tuyệt đối đề cao luật thành văn, pháp luật Pháp ban đầu phủ nhận vai trò của án lệ. Quyết
định tòa án chỉ ràng buộc các bên trong vụ việc cụ thể, không có giá trị làm chuẩn mực chung
như stare decisis trong Common Law.
- Thực tiễn xét xử và “án lệ ngầm”:
Trên thực tế, các tòa án Pháp – đặc biệt là Tòa phá án (Cour de cassation) – thường giữ sự
nhất quán trong lập luận pháp lý. Những phán quyết quan trọng của tòa cấp cao thường được
tham khảo và áp dụng ở cấp dưới, hình thành “án lệ ngầm”. Tuy không được công nhận chính
thức, chúng vẫn có tác động thực tiễn, đặt nền móng cho sự thừa nhận dần dần.
Sự thừa nhận từng bước:
Sang thế kỷ XX, án lệ ngày càng được chú ý hơn. Phán quyết của cơ quan tài phán tối cao
có ảnh hưởng lớn, bảo đảm sự thống nhất pháp luật. Giới học thuật cũng dần thừa nhận vai trò
sáng tạo của thẩm phán trong việc lấp khoảng trống của luật. Từ đây, án lệ trở thành nguồn bổ
trợ quan trọng, gắn với khái niệm “luật sống” (droit vivant).
Một bước ngoặt quan trọng là việc công bố án lệ: các bản án tiêu biểu của Tòa phá án và
Hội đồng Nhà nước được tuyển chọn, công khai và viện dẫn rộng rãi. Dù chưa được đặt ngang
hàng với luật thành văn, án lệ đã trở thành nguồn tham khảo chính thức, khẳng định vai trò
ngày càng lớn trong hệ thống pháp luật Pháp.
Tóm lại, sự thừa nhận án lệ tại Pháp diễn ra dần dần: từ chỗ phủ nhận hoàn toàn, đến sử
dụng ngầm trong thực tiễn, rồi được công bố chính thức như nguồn tham khảo có giá trị. Quá lOMoAR cPSD| 61631027
trình này thể hiện tính linh hoạt của Civil Law, vừa duy trì ưu thế luật thành văn vừa bổ sung
án lệ để bảo đảm sự thống nhất và thích ứng với xã hội hiện đại.
3. So sánh và sự lai ghép giữa án lệ Anh và Pháp
- Điểm giống nhau:
+ Đều là các quyết định tư pháp quá khứ được dùng để giải quyết vụ việc tương lai.
+ Đều bổ sung cho hệ thống pháp luật, xử lý những vấn đề chưa có quy định trong luật thành văn.
+ Đều phản ánh vai trò sáng tạo của thẩm phán và có ý nghĩa định hướng xét xử, ảnh hưởng đến lập pháp. - Điểm khác nhau: Tiêu chí Án lệ Anh (Common law) Án lệ Pháp (Civil law) Tính
ràng Có tính bắt buộc cao (stare decisis – tòa Không có tính bắt buộc tuyệt đối, buộc
án cấp dưới phải tuân thủ phán quyết của chủ yếu mang tính tham khảo. tòa án cấp trên).
Vị trí trong Là nguồn luật chính yếu, ngang hàng Không phải nguồn luật chính
hệ thống pháp với văn bản pháp luật.
thống, chỉ là nguồn bổ trợ. luật Nguyên tắc
Áp dụng theo tiền lệ ràng buộc.
Chủ yếu xét xử theo luật thành
văn, án lệ chỉ tham khảo. Cơ
quan Chủ yếu do tòa án tối cao và tòa phúc
Do Tòa án tối cao (Cour de hình thành án
cassation, Conseil d’État) nhưng Tiêu chí Án lệ Anh (Common law) Án lệ Pháp (Civil law) lệ thẩm.
được công bố có chọn lọc. lOMoAR cPSD| 61631027 Mục đích
Bảo đảm tính ổn định và thống nhất của Hỗ trợ giải thích luật, lấp khoảng pháp luật.
trống khi luật chưa quy định rõ.
Tính truyền Truyền thống lâu đời, gắn liền với hệ Ban đầu phủ nhận án lệ, sau dần thống
thống common law từ thế kỷ XII.
thừa nhận có chọn lọc.
- Bối cảnh lai ghép:
+ Toàn cầu hóa và hội nhập pháp lý đòi hỏi sự tương thích để thuận lợi cho hợp tác và thương mại.
+ Xã hội ngày càng phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề mà luật thành văn chưa kịp điều chỉnh.
+ Yêu cầu bảo đảm tính thống nhất trong xét xử, tránh phán quyết tùy tiện.
- Biểu hiện lai ghép:
+ Pháp chính thức công bố và hệ thống hóa án lệ.
+ Giá trị tham khảo của án lệ ngày càng được đề cao trong xét xử.
+ Thẩm phán Pháp đóng vai trò tích cực hơn trong phát triển pháp luật, dù vẫn hạn chế so
với thẩm phán trong Common Law.
+ Án lệ được giảng dạy và nghiên cứu nhiều hơn trong học thuật pháp lý.
Như vậy, Hệ thống pháp luật Pháp hiện đại vẫn giữ nền tảng Civil Law với ưu thế của luật
thành văn, nhưng án lệ đã trở thành nguồn bổ trợ không thể thiếu. Sự dung hòa này phản ánh
tính linh hoạt và khả năng thích ứng của pháp luật Pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Câu 4: So sánh chế định bảo hiến của Pháp, Đức, Mỹ và Việt Nam. Đưa ra 1 số gợi ý
cho Việt Nam trong sửa đổi cơ chế bảo hiến.
Khái niệm: Bảo hiến là cơ chế nhằm bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, ngăn ngừa việc
các đạo luật hoặc hành vi nhà nước trái với Hiến pháp. Tùy vào truyền thống pháp luật,
mỗi quốc gia có cách thiết kế cơ quan và phương thức bảo hiến khác nhau, tạo nên những mô hình đa dạng lOMoAR cPSD| 61631027
So sánh chế định bảo hiến và gợi ý cho Việt Nam
Chế định bảo hiến là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo sự tối
cao của Hiến pháp. Dưới đây là so sánh chế định bảo hiến của Pháp, Đức, Mỹ và Việt Nam,
cùng với một số gợi ý cho Việt Nam. Tiêu chí Pháp Đức Mỹ Việt Nam Cơ
quan Hội đồng Bảo Tòa án Hiến pháp Liên bang Tòa án Tối Quốc hội, bảo hiến hiến
(Conseil (Bundesverfassungsgericht), cao và các Ủy ban
constitutionnel), là một cơ quan tài phán độc tòa án
là một cơ quan lập, hoạt động theo mô hình khác, hoạt Thường vụ chuyên
trách kiểm soát tập trung, nhưng động theo Quốc hội,
độc lập, hoạt có tính tư pháp cao. mô hình Hội đồng động theo mô kiểm soát Dân tộc, hình kiểm soát phân tán các Ủy ban tập trung, nhưng (phi tập của Quốc có tính chính trị trung). hội, và Chủ cao. tịch nước, theo mô hình cơ quan chính trị.
Thời điểm Chủ yếu là
Cả trước và sau khi luật có Sau khi Chủ yếu là lOMoAR cPSD| 61631027 kiểm soát
trước khi luật có hiệu lực. luật đã có sau khi văn hiệu lực (kiểm
hiệu lực và bản có hiệu soát tiên phát). được áp lực. Tuy nhiên, sau dụng trong Tu chính án một vụ việc năm 2008, Pháp cụ thể. cũng có cơ chế kiểm soát hậu phát (kiểm soát các đạo luật đã có hiệu lực). Cơ
chế Kiểm soát trừu Cả kiểm soát trừu tượng (do Kiểm soát Mang tính kiểm soát
tượng (không các cơ quan nhà nước yêu cụ thể, gắn giám sát,
gắn với vụ việc cầu) và kiểm soát cụ thể (gắn với việc cụ thể). với vụ án cụ thể). giải quyết giải thích
một vụ án và tuyên bố
cụ thể. Tòa bãi bỏ văn án không tự mình bản trái kiểm tra Hiến pháp, mà chỉ khi nhưng có đương không có
sự yêu cầu. tính chất tài phán. Ưu điểm - Quyết định có -
Tòa án Hiến pháp - Hiệu quả - Phù hợp
tính chất chung độc lập, chuyên môn cao. và thực với nguyên thẩm và bắt tiễn, vì gắn buộc. - Ngăn -
Bảo vệ quyền con với vụ việc tắc tất cả chặn
người, quyền công dân hiệu cụ thể. quyền lực nhà nước lOMoAR cPSD| 61631027
quả. - Kết hợp linh hoạt giữa
được vi phạm kiểm soát trừu tượng và cụ - Mọi tòa thuộc về hiến pháp ngay thể. án đều có nhân dân, từ đầu. thẩm được thực quyền bảo hiện bởi hiến, đảm Quốc hội bảo sự linh (cơ quan hoạt. đại diện cao nhất của nhân dân). lOMoAR cPSD| 61631027 Nhược - Tính
- Có thể bị coi là "siêu quyền - Tính phi - Tính điểm
chính trị cao, lực" vì quyết định của Tòa tập trung chính trị
án Hiến pháp có thể vô hiệu có thể gây hóa cao,
thiếu sự độc lập hóa ý chí của Quốc hội. ra sự thiếu thiếu tính về mặt tư pháp. nhất quán độc lập tư trong áp pháp. - - Ít có khả dụng Hiến Chưa có cơ năng bảo vệ pháp. - Chỉ chế chuyên quyền con bảo hiến trách và người, quyền
hậu phát, hiệu quả để công dân thông nghĩa là thực hiện qua các vụ việc một đạo việc bảo cụ thể. luật vi hiến hiến trên
có thể đã thực tế, dẫn gây hậu đến tình quả trạng 'lắm nghiêm sãi không
trọng trước ai đóng cửa khi bị tuyên bố là chùa'. vi hiến.
Gợi ý cho Việt Nam trong sửa đổi cơ chế bảo hiến
- Thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách, độc lập: Nên cân nhắc thành lập một cơ
quanchuyên biệt như Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng Bảo hiến. Cơ quan này cần có tính
độc lập tương đối với Quốc hội, Chính phủ và Tòa án, đảm bảo tính chuyên môn và khách
quan khi xem xét các vấn đề hiến pháp.
- Mở rộng chủ thể và đối tượng bảo hiến:
Về chủ thể: Nên cho phép cá nhân, tổ chức, và các cơ quan nhà nước có quyền yêu cầu
cơ quan bảo hiến xem xét tính hợp hiến của văn bản pháp luật. lOMoAR cPSD| 61631027
Về đối tượng: Cần bổ sung thẩm quyền xem xét cả các văn bản pháp luật do Quốc hội
ban hành, thay vì chỉ giới hạn ở văn bản dưới luật như hiện nay.
- Xác lập rõ cơ chế bảo hiến:
Cần quy định chi tiết về trình tự, thủ tục yêu cầu và xem xét bảo hiến.
Kết hợp giữa kiểm soát trừu tượng (theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước) và kiểm
soát cụ thể (gắn với vụ việc cụ thể), để vừa đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật,
vừa bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Tăng cường tính pháp quyền trong hoạt động bảo hiến:
Các thành viên của cơ quan bảo hiến nên là những chuyên gia pháp luật, có uy tín cao
và không kiêm nhiệm các chức vụ chính trị.
Quyết định của cơ quan bảo hiến phải có hiệu lực chung thẩm, bắt buộc đối với tất cả
các cơ quan, tổ chức, cá nhân và không thể bị hủy bỏ bởi bất kỳ cơ quan nào khác.
Câu 5: Hãy chỉ ra mô hình đào tạo luật hiệu quả và phù hợp với Việt Nam hiện nay.a
MÔ HÌNH ĐÀO TẠO LUẬT HIỆU QUẢ VÀ PHÙ HỢP VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Mở đầu
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhu cầu về nguồn nhân lực pháp luật
chất lượng cao trở nên cấp thiết đối với Việt Nam. Sinh viên luật không chỉ phục vụ trong
bộ máy nhà nước mà còn tham gia hoạt động pháp lý trong doanh nghiệp, các tổ chức quốc
tế và hoạt động tư vấn pháp luật. Do vậy, việc tìm kiếm và xây dựng một mô hình đào tạo
luật hiệu quả, phù hợp với đặc thù pháp luật Việt Nam và xu thế toàn cầu là yêu cầu cấp bách. 2. Nội dung
2.1. Đặc thù của hệ thống pháp luật và yêu cầu đặt ra cho đào tạo luật ở Việt Nam Việt Nam
thuộc hệ thống Civil Law (luật thành văn), coi trọng sự pháp điển hóa và vai trò của văn
bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, xu thế toàn cầu hóa và sự gia tăng của các quan hệ lOMoAR cPSD| 61631027
thương mại, đầu tư quốc tế đòi hỏi sinh viên luật phải vừa nắm vững nền tảng lý luận, vừa
có khả năng vận dụng linh hoạt trong thực tiễn.
Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy mô hình đào tạo truyền thống tại các trường luật
còn nhiều hạn chế: thiên về lý thuyết, thiếu gắn kết với thực tiễn nghề luật, kỹ năng hành
nghề và ngoại ngữ chuyên ngành còn yếu. Điều này làm cho nhiều sinh viên sau khi tốt
nghiệp gặp khó khăn trong việc thích ứng với thị trường lao động.
2.2. Kinh nghiệm mô hình đào tạo luật của một số quốc gia
- Mỹ (Common Law): đào tạo luật sau đại học (Juris Doctor – JD). Sinh viên phải có bằng
cử nhân trước khi học luật, chương trình tập trung vào nghiên cứu tình huống (case
method), tranh luận, kỹ năng hành nghề và tính thực tiễn cao.
- Đức (Civil Law): chia thành hai giai đoạn: đào tạo đại học (thi kỳ thi quốc gia lần 1), sau
đó là thực tập 2 năm trong hệ thống tư pháp (Referendariat), rồi thi kỳ thi quốc gia lần 2
để đủ điều kiện hành nghề. Mô hình kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. - Pháp
(Civil Law): đào tạo luật theo bậc đại học – thạc sĩ – tiến sĩ, có sự phân hóa rõ rệt giữa
nghiên cứu học thuật và đào tạo nghề (luật sư, thẩm phán, công chứng viên…). Sinh viên
có thể chọn hướng nghiên cứu hoặc hướng hành nghề.
- Singapore: kết hợp hài hòa giữa đào tạo hàn lâm và đào tạo thực hành. Sinh viên luật vừa
học lý thuyết, vừa tham gia moot court, thực tập tại tòa án, công ty luật, doanh nghiệp.
Đặc biệt chú trọng kỹ năng nghề luật trong môi trường quốc tế và đào tạo bằng tiếng Anh. Bài học cho Việt Nam:
- Cần giữ nền tảng lý luận vững chắc (như Đức, Pháp).
- Đồng thời chú trọng kỹ năng thực hành nghề luật và tư duy tình huống (như Mỹ, Singapore).
- Gắn kết chặt chẽ với cơ quan thực tiễn (tòa án, viện kiểm sát, luật sư, doanh nghiệp).
2.3. Đề xuất mô hình đào tạo luật hiệu quả và phù hợp với Việt Nam