



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61557118
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC CUỐI KỲ
CHƯƠNG II: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất. Khái niệm: -
Vật chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
+ Triết học duy vật không bàn tới vật chất từ đâu sinh ra và bắt nguồn như thế
nào. Khẳng định vật chất không do ai sinh ra, không mất đi (tính vĩnh hằng). Vật
chất được coi là cơ sở của sự thống nhất của thế giới. Vật chất là bản nguyên của
mọi sự vật đang tồn tại trên thế giới (thực thể). -
Vật chất có tính khách quan (tính khách quan là tính độc lập, sự tồn tại
khôngphụ thuộc vào ý thức của con người). Ví dụ, nếu chúng ta cầm một chiếc
bình trong tay, ta không thể dùng ý thức để làm biến mất cái bình đó được, như
vậy chiếc bình đó chính là vật chất.
+ Có thể là: Vật thể, Tri thức, Quy luật hay bất cứ thứ gì tồn tại.
Các hình thức tồn tại của vật chất: -
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của
vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Ph.
Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Theo quan điểm của Ph. Ăngghen, vận động
không chỉ là sự thay đổi vị trí mà là mọi sự biến đổi, mọi quá trình trong vũ trụ,
vật chất luôn gắn liền với vận động và chỉ thông qua vận động, vật chất mới biểu
hiện ra hình thức tồn tại cụ thể của nó. -
Vận động trở thành phương thức tồn tại của vật chất. Tuy nhiên, không có
nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận đứng im, theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận
động trong thế cân bằng và đứng im là hiện tượng tương đối, tạm thời. Đứng im
là hiện tượng tương đối vì sự đứng im chỉ xuất hiện trong một số dạng vận động
và trong những mối liên hệ nhất định chứ không phải trong mọi dạng vận động
và mọi mối liên hệ. Đứng im là hiện tượng tạm thời vì đứng im chỉ tồn tại nhất
thời chứ không tồn tại mãi mãi. -
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Mọi dạng cụ
thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất định và
tồn tại trong các mối tương quan nhất định với những dạng vật chất khác. Những
hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật lOMoAR cPSD| 61557118
còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,…
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian. -
Vật chất, không gian và thời gian là không thể chia cắt; không có sự tồn tại
nàongoài không gian và thời gian; không có không gian và thời gian nào tồn tại
ngoài vật chất đang vận động. Nó là hình thức tồn tại của vật chất, là thời gian và
không gian tồn tại khách quan, do vật chất quy định; trong đó, không gian có ba
chiều là chiều cao, chiều rộng và chiều dài; thời gian có một chiều: chiều từ quá
khứ đến hiện tại, tương lai.
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận. Nguồn gốc:
- Nguồn gốc tự nhiên: CNDVBC nhấn mạnh sự xuất hiện của ý thức gắn liền với
hai nhân tố: bộ óc con người và thế giới khách quan.
+ Ý thức là sản phẩm hoạt động của bộ óc con người. Ý thức là hiện tượng chỉ có
ở con người và diễn ra trong bộ óc con người. Bởi vậy, bộ óc con người là cơ quan
nhận thức duy nhất, còn ý thức là sản phẩm tinh thần có được nhờ sự hoạt động
bình thường của hệ thần kinh diễn ra trong bộ óc con người. Nếu bộ óc bị tổn
thương thì sẽ không có ý thức hoặc ý thức không bình thường.
+ Sự phản ánh của vật chất tuân theo quá trình phát triển từ thấp đến cao tương
ứng với quá trình tiến hóa của các dạng vật chất có năng lực phản ánh đó:
• Phản ánh vật lí mang tính sao chép nguyên mẫu, gắn liền với các dạng vật chất vô cơ.
• Phản ánh sinh vật mang tính chọn lọc và định hướng, gắn liền với sinh vật bậc
thấp chưa có hệ thần kinh trung ương.
• Phản ánh tâm lý mang tính bản năng, bộc phát, gắn liền với động vật có hệ
thần kinh trung ương, tức bộ óc loài vật bậc cao.
• Phản ánh ý thức mang tính sáng tạo, gắn liền với hoạt động của bộ óc con người.
+ Thế giới khách quan với tính cách là đối tượng phản ánh. Nếu có bộ óc nhưng
bộ óc đó tồn tại tách biệt khỏi thế giới khách quan hay không có tác động của thế
giới khách quan vào bộ óc con người thì có ý thức không? Câu trả lời là không,
bởi như trước Mác nói, ý thức không là cái gì khác như là tồn tại được ý thức,
điều đó có nghĩa là sự tác động của thế giới khách quan là nguồn gốc để hình thành ý thức. - Nguồn gốc xã hội:
+ Vai trò của lao động trong việc hình thành ý thức:
• Theo quan điểm Mác xít “Loài vật giỏi lắm cũng chỉ biết hái lượm là cùng,
nhưng con người thì biết sản xuất; con người chế tạo ra những tư liệu sinh lOMoAR cPSD| 61557118
sống (theo nghĩa rộng), những tư liệu mà giới tự nhiên không thể chế tạo ra
được nếu không có con người”.
• Thông qua lao động, con người tác động vào tự nhiên làm cho giới tự nhiên
bộc lộ những thuộc tính quy luật vận động của mình, thông qua đó con người
nhận thức được các hiện tượng tự nhiên để sử dụng vào mục đích đời sống.
Mặt khác, thông qua lao động, con người tác động lẫn nhau tạo nên các quan
hệ xã hội như quan hệ sản xuất, quan hệ tôn giáo, đạo đức. Các quan hệ này
tác động trở lại con người làm cho mỗi cá nhân hiểu rõ hơn về đồng loại, về
bản thân như một thành viên trong cộng đồng.
Bản chất của ý thức:
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Mác và Ăngghen khẳng định: “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn
ngoài sự tồn tại được ý thức”, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
óc con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức không là cái gì khác hơn là
toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong bộ óc con người, ý thức có được nhờ sự
tác động của thế giới khách quan vào bộ óc con người, được bộ óc con người biến thành cái tinh thần.
+ Ý thức cũng tồn tại nhưng chỉ tồn tại trong bộ óc con người, nó là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Thế giới khách quan là tính thứ nhất, ý thức là tính
thứ hai, thế giới khách quan là cái được phản ánh, ý thức là cái phản ánh; thế giới
khách quan quy định nội dung phản ánh của ý thức.
- Ý thức phản ánh một cách sáng tạo thế giới khách quan nhưng không phản
ánhnguyên xi, thụ động, mà phản ánh thông qua hoạt động sáng tạo của bộ óc con người.
+ Ý thức cải biến cái vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người thành cái
tinh thần – đó là các biểu tượng, khái niệm, phạm trù giúp con người nắm bắt
được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nhận thức, qua đó có khả năng
tạo nên “thiên nhiên thứ hai” thỏa mãn nhu cầu đời sống.
+ Trên cơ sở những tri thức đã có, ý thức tạo ra tri thức mới phản ánh đối tượng,
ý thức giúp con người tưởng tượng ra những cái không có trong thực tế, nhờ vậy
có thể dự báo những gì sắp diễn ra trong tương lai, tạo ra những lý thuyết khoa học.
- Ý thức là một hiện tượng lịch sử - xã hội.
+ Ý thức luôn là ý thức của những con người cụ thể, sống trong những môi trường
lịch sử xã hội nhất định. Mỗi cá nhân sống trong xã hội luôn chịu tác động cùng một lúc từ hai phía:
• Từ phía lịch sử: đó là những giá trị nhân bản được kết tinh trong quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại, là nét đẹp truyền thống dân tộc, truyền thống cộng đồng và gia tộc. lOMoAR cPSD| 61557118
• Từ phía xã hội đương đại: đó là những quan hệ, những quy luật và điều kiện
kinh tế - xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất đang hiện hành. Các quy luật và
quan hệ xã hội này tác động lên cuộc sống của mỗi người, tạo nên áp lực tâm
lý buộc phải suy tư và hành động phù hợp với điều kiện thực tế đương thời chứ
không thể làm khác đi được.
Ý nghĩa phương pháp luận: -
Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong
nhậnthức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải
chống bệnh chủ quan duy ý chí. -
Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư
tưởngthụ động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.
3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ với
hoạt động của bản thân.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: - Khái niệm:
+ Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của
mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+ Mối liên hệ phổ biến: Phép biện chứng duy vật mác – xít khẳng định vạn vật
trong thế giới không tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau mà có mối liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau, theo nghĩa, làm tiền đề tồn tại cho nhau, nương tựa, chuyển
hóa lẫn nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau. Mối liên hệ như vậy
của vạn vật trong thế giới gọi là mối liên hệ phổ biến.
- Những đặc trưng cơ bản của mối liên hệ phổ biến:
+ Tính khách quan: Mối liên hệ phổ biến là cái vốn có của bản thân sự vật, không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người chỉ có thể nhận thức
và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Ví dụ, trời
nắng làm bốc hơi nước, hơi nước ngưng tụ đến mức độ nhất định sẽ phát sinh
mưa, mưa tác động đến sự sinh trưởng của thực vật.
+ Tính phổ biến: Mối liên hệ không chỉ diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của
mỗi sự vật, hiện tượng.
+ Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau về mối
liên hệ khác nhau; một sự vật hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác nhau (bên
trong – bên ngoài, chủ yếu – thứ yếu, cơ bản – không cơ bản…), chúng giữ vị trí,
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, một lOMoAR cPSD| 61557118
mối liên hệ trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò cũng khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận: - Quan điểm toàn diện:
+ Mặt nhận thức cần xem xét mối liên hệ giữa các bộ phận của chính sự vật đó
cũng như mối liên hệ với các sự vật khác.
+ Nhận thức sự vật xem xét trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
+ Đối lập với quan điểm phiến diện.
+ Hoạt động thực tiễn cần biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như
các mối liên hệ với sự vật khác. Sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể: Nhận thức sự vật cần phải chú ý tới điều kiện
hoàncảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể sự vật đó tồn tại, phát triển.
4. Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa phương pháp luận. Vận
dụng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Khái niệm: -
Nguyên nhân: là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt,
các yếu tố trong sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau,
nhằm gây nên những biến đổi. -
Kết quả: là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả: -
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân lúc nào cũng có trước,
kếtquả xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Mối quan hệ này gọi là quan
hệ nhân quả hay luật nhân quả. Quan hệ nhân quả có các tính chất: + Mang tính đa dạng, phức tạp:
• Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều
kiện và mục đích nhất định.
• Một kết quả cũng có thể được tạo nên bởi nhiều nguyên nhân tác động độc lập
hoặc cùng chiều, cùng lúc.
+ Mang tính tất yếu, khách quan: Quan hệ nhân quả tác động độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức con người, nguyên nhân nào kết quả nấy.
- Tính phổ biến: Luật nhân quả bao trùm toàn bộ sự sinh thành, vận động vàphát
triển của vạn vật trong vũ trụ từ thế giới vi mô đến vĩ mô, từ giới vô sinh đến
hữu sinh. Tuy nhiên, luật nhân quả trong tự nhiên diễn ra một cách tự phát, luật lOMoAR cPSD| 61557118
nhân quả trong xã hội diễn ra có sự tham gia của con người, nghĩa là liên quan
đến nguyên nhân chủ quan.
Nhân - quả là một vòng tuần hoàn liên tục, nguyên nhân tạo thành kết quả, đến
lượt mình kết quả lại hình thành nguyên nhân để sinh ra một kết quả mới.
- Sự tác động trở lại của nguyên nhân đối với kết quả:
+ Nếu kết quả tích cực sẽ tác động tốt, thúc đẩy trở lại nguyên nhân và cho kết
quả mới trở nên tốt hơn.
+ Ngược lại, kết quả có ý nghĩa tiêu cực sẽ tác động xấu trở lại nguyên nhân.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nhân quả mang tính tất yếu, khách quan nên muốn nhận thức kết quả phải
xuấtphát từ nguyên nhân. Muốn có kết quả tốt thì phải phát huy những nguyên
nhân tích cực và ngược lại.
- Nhân quả mang tính phổ biến nên khi nhận thức kết quả phải tìm đúng
nguyênnhân, chống lại Thuyết định mệnh và Mục đích luận.
- Chống lối suy diễn chủ quan, đổ lỗi cho hoàn cảnh.
- Cần chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh, nhân tố để thúc đẩy, kìm hãm nguyênnhân
để thu được kết quả tốt. Vận
Vấn đề ô nhiễm môi trường. dụng:
5. Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng. Ý nghĩa phương pháp
luận. Vận dụng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Khái niệm:
- Bản chất: là phạm trù dùng để biểu thị sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối
liên hệ tất yếu tương đối ổn định hợp thành một thể thống nhất hữu cơ bên trong
sự vật, quy định sự tồn tại, vận động, phát triển và diệt vong của sự vật đó.
- Hiện tượng: là những biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
- Ví dụ: Bản chất con người là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện sinhhọc
và xã hội. Còn hiện tượng là mọi hành vi ăn, nói, giao tiếp xã hội, lao động, học
tập,… của người đó phản ánh con người là một thực thể sinh học – xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
- Bản chất và hiện tượng là hai mặt trong quá trình biểu hiện của một sự vật,giữa
chúng có quan hệ thống nhất biện chứng.
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua các hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ
cũng là sự phản ánh một mặt, hay một khía cạnh, một thuộc tính nào đó của bản
chất. Không có bản chất tồn tại thuần túy mà không tự biểu hiện mình thông qua lOMoAR cPSD| 61557118
các hiện tượng, và cũng không có hiện tượng nào mà không phản ánh bất kỳ một
thuộc tính gì đó của bản chất.
+ Khi bản chất cũ mất đi thì các hiện tượng do nó sinh ra cũng sẽ mất theo. Khi
bản chất mới hình thành thì cũng là phát sinh các hiện tượng mới tương ứng.
- Tuy bản chất và hiện tượng có sự thống nhất biện chứng, song giữa chúngnhiều
lúc cũng bao hàm mâu thuẫn.
+ Cùng một bản chất nhưng có thể được thể hiện ra ngoài bằng nhiều hiện tượng
khác nhau. Hiện tượng đa dạng và phong phú hơn bản chất.
+ Bản chất ẩn dấu bên trong, còn hiện tượng biểu hiện ra bên ngoài. Hiện tượng
phản ánh bản chất, nhưng nhiều khi xuyên tạc, làm sai khác bản chất.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi từ từ và rất chậm. Còn hiện tượng mang
tính nhất thời, biến đổi nhanh, thoáng qua rồi mất. Ví dụ, thời gian là một phạm
trù vĩnh cửu, còn các hiện tượng như xuân, hạ, thu, đông thì trôi đi rồi lại đến theo chu kỳ hàng năm.
- Hiện tượng bị quyết định bởi bản chất, nhưng hiện tượng cũng tác động trở
lạibản chất, có thể dần dần làm cho bản chất bị tha hóa, biến đổi. Điển hình là
trong đời sống xã hội, các hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành thói quen, thói quen
tạo nên bản tính con người.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì bản chất và hiện tượng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ ràng buộc,
khôngtách rời nhau, bản chất thì ẩn dấu sâu kín bên trong sự vật, còn hiện tượng
thì lại là cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cho nên, muốn nhận thức được
bản chất của sự vật thì phải xuất phát từ hiện tượng. Do một bản chất có thể biểu
hiện ra bằng nhiều hiện tượng khác nhau và mỗi hiện tượng chỉ phản ánh một
khía cạnh của bản chất, cho nên muốn nhận thức bản chất sự vật chúng ta không
nên chỉ dừng lại ở một hoặc một số hiện tượng mà phải thông qua phân tích,
tổng hợp rất nhiều hiện tượng.
- Vì bản chất là cái tất nhiên tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự
vậnđộng phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, cái không
quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hơn nữa hiện tượng nhiều khi
còn xuyên tạc bản chất, cho nên, nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà
phải tiến tới nhận thức bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của một sự vật
là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc
đến bản chất sâu sắc hơn. Trong hoạt động thực tiễn, không được dựa vào hiện
tượng mà phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật.
6. Cặp phạm trù khả năng và hiện thực. Ý nghĩa phương pháp luận. Vận dụng
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. lOMoAR cPSD| 61557118 Khái niệm:
- Khả năng: là một phạm trù dùng để biểu thị cái tồn tại dưới dạng mầm mống
bên trong sự vật, hiện tượng (hiện thực) mà nếu có đủ những điều kiện thích hợp
thì sẽ biến thành một hiện thực mới khác.
+ Tùy thuộc vào tiền đề và điều kiện để trở thành hiện thực, khả năng có thể phân thành:
• Khả năng tất nhiên hay khả năng thực tế, là khả năng có đủ những điều kiện
để tất yếu biến thành hiện thực (khả thi).
• Khả năng ngẫu nhiên là khả năng khó có thể trở thành hiện thực, hoặc trở
thành hiện thực nhờ có yếu tố ngẫu nhiên hay gặp may.
- Hiện thực: là phạm trù dùng để biểu hiện tất cả những gì đang tồn tại trên thực tế.
+ Căn cứ vào tính thực thể của hiện thực, người ta phân chia hiện thực nói chung thành:
• Hiện thực khách quan là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài đầu óc
con người (đồng nhất với phạm trù vật chất).
• Hiện thực chủ quan chỉ tồn tại trong đầu óc con người (ý thức, tư duy).
Mối quan hệ biện chứng giữa hiện thực và khả năng: -
Hiện thực và khả năng tồn tại trong sự thống nhất biện chứng, chuyển hóa
lẫnnhau tạo thành quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Khả năng tiềm ẩn,
mầm mống trong hiện thực, do bản chất của hiện thực quy định, khi có đủ điều
kiện, khả năng sẽ biến thành hiện thực mới. -
Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp, thể hiện ở chỗ trong
mộtsự vật, cùng một lúc có thể có nhiều khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng. -
Khả năng chỉ biến thành hiện thực khi có điều kiện cần và đủ. Khả năng
của sựvật không tự thân biến thành hiện thực mà cần có sự tác động của điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Sự tác động đó có thể làm tăng thêm hay giảm bớt chủ quan.
Ý nghĩa phương pháp luận: -
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải dựa vào hiện thực để xác
lậpnhận thức và hoạt động. Lênin cho rằng: "Chủ nghĩa Mác căn cứ vào những
sự thật chứ không phải dựa vào những khả năng… người Macxit chỉ có thể sử
dụng, để làm căn cứ cho chính sách của mình, những sự thật được chứng minh rõ
rệt và không thể chối cãi được". lOMoAR cPSD| 61557118 -
Trong nhận thức và thực tiễn cũng cần phải nhận thức toàn diện các khả
năngtừ trong hiện thực để có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với
sự phát triển trong những hoàn cảnh nhất định. Tích cực phát huy nhân tố chủ
quan trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục đích nhất định.
7. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận. Ví dụ minh họa. Khái niệm:
- Chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của mọi
sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, các yếu tố cấu
thành sự vật. Ví dụ, nước là chất lỏng trong suốt có công dụng hòa tan các muối
khoáng, phục vụ sinh hoạt,… giúp phân biệt nước với các chất lỏng khác.
- Lượng: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng về các phương diện: quy mô của sự vật, số lượng của sự
vật, vận tốc, trình độ phát triển của sự vật. Lượng còn được biểu thị bởi các con
số, các thuộc tính cấu thành sự vật. Ví dụ, mỗi phân tử nước được cấu tạo từ 2
nguyên tử hydro và 1 nguyên tử oxi; khối lượng riêng của nước cũng là “lượng” của nước.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại:
- “Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau,
tácđộng lẫn nhau một cách biện chứng. Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng tất
yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng.
- Tuy nhiên, không phải bất cứ sự thay đổi nào về “lượng” cũng dẫn đến sự thayđổi
căn bản về “chất” của sự vật, hiện tượng và ngược lại. Ở một giới hạn nhất định,
sự thay đổi về “lượng” chưa đủ để làm thay đổi căn bản về “chất” – giới hạn đó
là “độ”. Trong giới hạn của “độ”, sự thống nhất hữu cơ giữa chất và lượng chưa
bị phá vỡ - sự thay đổi về “lượng” chưa đủ để làm thay đổi căn bản về “chất”
của sự vật, hiện tượng, khiến cho sự vật, hiện tượng vẫn là nó mà chưa chuyển
hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
- Sự thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng chỉ có thể xảy ra khi sự
thayđổi về lượng đã đạt tới “điểm nút”. Sự thay đổi về “lượng” khi đạt tới “điểm
nút”, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của “chất” mới
thông qua “bước nhảy” căn bản về “chất” của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ về quy luật chuyển hóa giữa lượng và chất: lOMoAR cPSD| 61557118
- Chất và lượng của sự vật là hai mặt của cùng một sự vật, chúng tồn tại trongtính
quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại
chất tương ứng và ngược lại. Ví dụ: tương ứng với cấu tạo H – O – H (cấu tạo
liên kết 2 nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H2O) được
hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: không
màu, không mùi, không vị, có thể hòa tan muối, axit,…
- Vì giữa chúng có mối quan hệ quy định lẫn nhau như vậy, nên những sự biếnđổi
về lượng sẽ tất yếu có khả năng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại. Ví dụ:
quy định nên trạng thái thể lỏng của nước chính là lượng nhiệt độ của nó (chứ
không phải là số lượng nguyên tử hyđrô và ôxy); do vậy, khi lượng nhiệt độ này
biến thiên thì tất yếu có khả năng dẫn tới sự biến đổi về trạng thái của nước sang thể rắn hay lỏng.
- Muốn hiểu biết đầy đủ về sự vật, cần phải nghiên cứu trên cả hai phương
diệnchất và lượng. Ví dụ: khi nghiên cứu về các chất trong hóa vô cơ hay hữu
cơ, người ta không chỉ nghiên cứu để xác định các tính chất hóa học cơ bản vốn
có của nó mà còn phải nghiên cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng
các nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của
các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.
- Trong thực tiễn, muốn làm thay đổi chất của sự vật thì cần phải làm thay đổiđược
loại lượng tương ứng với chất đó đến giới hạn điểm nút. Ngược lại, nếu không
muốn cho chất của sự vật thay đổi thì cần phải giới hạn sự thay đổi của lượng
trong giới hạn của độ. Ví dụ: để “tiền” có thể biến thành “tư bản” thì cần phải có
sự tích lũy tiền đến một lượng nhất định và trong các điều kiện xác định về mặt
chế độ kinh tế, chế độ chính trị xã hội,…
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Ý nghĩa trong nhận thức:
+ Giải thích cho các vận động, biến đổi và phát triển đi lên của sự vật, hiện tượng.
Với tính tất yếu của sự sinh trưởng, phát triển. Theo kèm là các nhận thức, kinh
nghiệm tăng thêm theo thời gian, theo hiệu quả học tập.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và chất gắn với các tự
nhiên và tác động xung quanh nó. Mang đến các cách thức để giải quyết hay vượt
qua trên thực tế. Đảm bảo thể hiện với sự phong phú, đa dạng. Cũng như các tồn
tại và đặc điểm khác nhau cho các phát triển của sự vật khác nhau.
+ Với các tiến trình giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy mang đến các thời điểm tiến
hành biến đổi. Qua đó mang đến các đặc điểm mới được hình thành và phát triển.
- Ý nghĩa trong thực tiễn:
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ
và điểm nút). Với chất như kết quả được phản ánh với đặc điểm tổng hợp về đủ
lượng. Gắn với các yếu tố về yêu cầu lượng, thời gian đảm bảo để tổng hợp. lOMoAR cPSD| 61557118
+ Bước nhảy: là một giai đoạn hết sức đa dạng. Việc thực hiện bước nhảy phải
được thực hiện một cách cẩn thận. Đảm bảo với đủ các điều kiện cơ sở được phản
ánh. Khi đó mới mang đến ý nghĩa tìm kiếm các chất mới. Và hiệu quả thể hiện
của các chuyển biến tích cực trên thực tế.
+ Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút, là yếu tố
cần và đủ để thực hiện các giá trị về lượng. Khi tích lũy được trong yêu cầu cần
thiết, từ đó mà chất mới hình thành mới mang đến các đặc điểm, chức năng mới.
Và đảm bảo cho tính chất phát triển của chiều hướng đi lên.
+ Mọi sự vật đều vận động và phát triển. Nhưng cần thời gian và sự tác động từ
bên ngoài. Đảm bảo hiệu quả đối với quá trình tổng hợp và các nội dung tổng hợp
được trên thực tế. Đây cũng chính là ý nghĩa được xác định với hoạt động, nhu
cầu phát triển của con người.
+ Bố trí thời gian và nỗ lực hợp lý cho kế hoạch đã đặt mục tiêu. Phải định hướng
học tập, trau dồi với lượng kiến thức như thế nào. Tương ứng với chia nhỏ theo
thời gian, lộ trình để tiếp thu hiệu quả. Kết quả với các cuộc thi, và công nhận của
mọi người chính là chất mới được hình thành. Ví dụ minh họa:
+ Thực trạng nền giáo dục của nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại căn bệnh thành
tích. Đặc biệt là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Với các con số tổng hợp mang
đến hiệu quả trên giấy tờ. Trong khi nếu thực hiện đúng tích lũy, thành tích của
người học là chưa đảm bảo theo trang bị cần thiết.
+ Tức là học sinh chưa tích lũy đủ lượng cần thiết. Chưa có đủ kiến thức tổng hợp
của cấp học, kỳ học đã được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước nhảy.
Với các tác động từ bên ngoài thay vì lượng kiến thức học sinh có. Điều này đã
khiến cho nền giáo dục của chúng ta có những người không có cả "chất" và
"lượng". Là kết quả và sản phẩm không thành công trong giáo dục và trình độ văn hóa.
+ Dẫn đến học sinh không viết nổi tên mình mà vẫn được lên lớp. Vì vậy cho ở
lại sẽ làm ảnh hưởng thành tích phổ cập giáo dục của trường trên nền tảng cơ bản
trong thành tích, danh hiệu thi đua của cơ sở giáo dục.
Ví dụ: Vụ việc chị H (trú xóm H, xã Y, huyện T, tỉnh A) không đồng ý cho con
trai là B bị nhà trường "bắt ép" lên lớp 2. Phụ huynh này đã xin cho con học lại
lớp 1 vì cháu chưa thuộc hết bảng chữ cái, các chữ “o”, “a”,… em cũng không
biết. Có thể thấy được với nền tảng kiến thức cần trang bị ở lớp 1 chưa được đảm
bảo. Việc thực hiện bước nhảy với chất mới sinh ra là lên lớp 2. Sẽ dẫn đến các
tồn tại đối với chất lượng tiếp thu kiến thức thực tế của học sinh. Tuy nhiên, yêu
cầu cho con học lại lớp 1 của chị H không được giáo viên chủ nhiệm chấp nhận
vì ảnh hưởng thành tích phổ cập giáo dục của nhà trường. Đến gặp ban giám hiệu,
chị cũng nhận được cái lắc đầu vì lý do tương tự. lOMoAR cPSD| 61557118
Điều này cho thấy tầm quan trọng trong thành tích và danh hiệu thay vì cách
nhìn nhận trên lợi ích và ý nghĩa thực tế của công tác giáo dục. Kiến thức và trình
độ văn hóa không được đảm bảo đề cao với yêu cầu và hiệu quả giảng dạy.
CHƯƠNG III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
8. Lực lượng sản xuất và yếu tố cấu thành LLSX. Liên hệ với LLSX ở nước ta hiện nay. Khái niệm: -
Lực lượng sản xuất: là sự tổng hợp tất cả mọi yếu tố vật chất mà con người
sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ
giữa con người với giới tự nhiên và trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
Yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất: -
Con người với toàn bộ sức mạnh cơ bắp, trình độ chuyên môn, kỹ năng,
kinhnghiệm và kỷ luật lao động, năng lực quản lý sản xuất, khả năng làm chủ
khoa học công nghệ, văn hóa giao tiếp, khả năng tiếp thị. Con người là lực lượng
sản xuất hàng đầu của xã hội, là chủ thể sản xuất và tiêu dùng. -
Tư liệu sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa đối tượng lao động (đất đai,
rừngnúi, sông biển) và công cụ lao động (cày, cuốc, các loại máy móc). Đối tượng
lao động là yếu tố tĩnh, còn công cụ lao động là yếu tố động luôn được cải tiến. -
Khoa học công nghệ là một hệ thống tri thức về các giải pháp thực hiện
quátrình chế biến vật chất và thông tin. Trong quan niệm truyền thống, khoa học
(phát minh) tách rời kỹ thuật (máy móc). Hiện nay khoa học gắn liền với kỹ thuật,
gọi là “công nghệ”. Ngày nay, khoa học công nghệ đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, quyết định năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
9. Quan hệ sản xuất và các yếu tố cấu thành QHSX. Liên hệ với vấn đề QHSX
nước ta hiện nay. Khái niệm: -
Quan hệ sản xuất: là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất.
Đây là quan hệ kinh tế cơ bản giữa vai trò quyết định mọi quan hệ xã hội khác
như quan hệ pháp luật, quan hệ chính trị, quan hệ giai cấp,… chính vì vậy, khi
quan hệ sản xuất thay đổi thì mọi quan hệ xã hội khác tất yếu phải thay đổi theo.
Yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất: lOMoAR cPSD| 61557118 -
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất – đây là yếu tố then chốt của quan hệ
sảnxuất, vì cá nhân nào, nhóm người nào, ở giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu
sản xuất thì sẽ nắm quyền quyết định. -
Quan hệ tổ chức – quản lý sản xuất, là quan hệ trong việc tổ chức quá trình
sảnxuất, quản lý nhân sự, theo đó cá nhân, nhóm, giai cấp nào có quyền tổ chức,
quản lý sản xuất sẽ có quyền quyết định. -
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động – quyết định việc trả tiền công chongười lao động.
Liên hệ (câu 8 + 9): -
Thời kỳ trước đổi mới: Giai đoạn này kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay
cànggặp nhiều khó khăn sau cuộc chiến tranh nhiều gian khổ. Lực lượng sản xuất
nước ta thời kỳ này còn thấp và chưa có nhiều điều kiện để phát triển. Cụ thể:
+ Trình độ của người lao động thấp, hầu hết không có chuyên môn, tay nghề, phần
lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp và dựa trên kinh nghiệm ông cha để lại. Tư liệu sản xuất nhất là công cụ
lao động ở nước ta thời kỳ này còn thô sơ, lạc hậu.
+ Trong hoàn cảnh này, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai
thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
+ Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn
đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự
phát triển lực lượng sản xuất. -
Thời kỳ sau đổi mới: Rút kinh nghiệm từ những sai lầm ở giai đoạn trước,
Đạihội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã thừa nhận thẳng thắn những khuyết điểm,
chủ trương đổi mới phương thức quản lý kinh tế. Đây là dấu mốc quan trọng trong
quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề
để từng bước phát triển nền kinh tế của đất nước. Chính vì vậy đến nay, nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. -
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công
nghiệphoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới. -
Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để
hoànthiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về
sở hữu, tổ chức – quản lý và phân phối. lOMoAR cPSD| 61557118 -
Trong những năm đổi mới, nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách,
biệnpháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song
phương và tổ chức đa phương, như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút
mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA…), xúc tiến mạnh thương mại và
đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác
quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ.
10. Quy luật QHSX phù hợp với LLSX. Liên hệ với thực tiễn xây dựng với vấn
đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Quy luật QHSX phù hợp với LLSX:
- Trong một phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò như là nộidung,
còn quan hệ sản xuất đóng vai trò như là hình thức tồn tại và phát triển của nội
dung đó. Sự tác động qua lại giữa chúng tạo nên quy luật vận động cơ bản của
xã hội, chi phối mọi quy luật khác như quy luật đấu tranh giai cấp, quy luật cách
mạng xã hội, quy luật tăng trưởng nhu cầu, quy luật thay thế hình thái kinh tế -
xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
- Nội dung của quy luật:
+ Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản
xuất. Theo quan điểm duy vật biện chứng, nội dung quyết định hình thức, có nghĩa
là với một lực lượng sản xuất nhất định sẽ có quan hệ sản xuất tương ứng.
+ Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối, tác động trở lại lực lượng sản xuất
theo nghĩa: quan hệ sản xuất quy định tính mục đích của sản xuất, tác động đến
thái độ người lao động, ảnh hưởng đến sự phân công lao động, ứng dụng khoa học công nghệ.
+ Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
bao hàm mâu thuẫn. Tính mâu thuẫn đó thể hiện ở chỗ:
• Lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn phát triển, còn quan hệ sản xuất là yếu
tố tĩnh, thay đổi chậm. Đến một lúc nào đó nảy sinh mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Từ chỗ là địa bàn thuận lợi cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất trở nên xiềng xích trói buộc nó.
• Mác khắc họa tính mâu thuẫn này: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan
hệ sản xuất hiện có… trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn
phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những
quan hệ sản xuất ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi
đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.” - Ý nghĩa của quy luật: lOMoAR cPSD| 61557118
+ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối với việc nghiên cứu tiến trình vận động
của lịch sử cũng như phương hướng hoạch định sách lược, chiến lược của giai cấp công nhân. Liên hệ: -
Việc nghiên cứu, nắm vững quy luật này có ý nghĩa hết sức to lớn trong
việcvận dụng vào điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay. -
Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã mắc phải những lệch lạc, sai lầm, chủ
quankhi nhận thức và vận dụng quy luật này. Từ những lệch lạc trong nhận thức
đã dẫn đến những chỉ đạo sai lầm trong thực tiễn, từ đó dẫn đến Đảng, nhà nước
đã ban hành những đường lối chính sách không phù hợp. Cụ thể:
+ Tiến hành xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về TLSX một cách ồ ạt, trong khi chế
độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX.
+ Xây dựng chế độ công hữu về TLSX một cách tràn lan, trong khi nước ta có
xuất phát điểm đi lên CNXH thấp. Chúng ta đã nóng vội, chủ quan, duy ý chí khi
chủ trương xây dựng sớm 1 nền kinh tế XHCN thuần nhất với 2 hình thức sở hữu
là: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể trong lúc trình độ LLSX còn thấp kém và
phát triển không đồng đều (công cụ lao động còn lạc hậu, trình độ tổ chức lao
động xã hội, ứng dụng KHKT vào sản xuất chưa cao, kinh nghiệm và kỹ năng của
người lao động, trình độ phân công lao động còn thấp, khả năng quản lý còn yếu
kém) mà đã xây dựng chế độ công hữu, quốc doanh hóa, tập thể hóa TLSX và tổ
chức sản xuất quy mô lớn, chế độ sản xuất lớn XHCN vượt quá khả năng quản lý
điều hành sản xuất của người lãnh đạo và người lao động. Chúng ta chỉ mới xác
lập được chế độ sở hữu nhưng chưa có hình thức tổ chức quản lý và cách thức
phân phối phù hợp với chế độ sở hữu. Chính những sai lầm chủ quan đó đã đẩy
nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ trong thời gian dài. -
Thời kỳ đổi mới, nước ta chọn con đường XHCN bỏ qua chế độ TBCN, từ
mộtnước nông nghiệp lạc hậu, thực trạng trình độ phát triển LLSX còn thấp kém
và phát triển không đồng đều, Đảng ta nhận thức được rằng quá trình xây dựng
phát triển sản xuất XHCN là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp.
Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới tư duy, nhất là tư duy về kinh tế, chủ trương
chuyển từ một nền kinh tế thuần nhất XHCN sang nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN, tạo lập nhiều loại hình QHSX để khai thác, phát huy
được mọi năng lực của LLSX. -
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thànhquan trọng của nền kinh tế nhiều thị trường theo định hướng XHCN, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước
định hướng và điều tiết kinh tế, tạo nên môi trường và điều kiện thúc đẩy các
thành phần kinh tế cùng phát triển. lOMoAR cPSD| 61557118
Chính sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với
trình độ phát triển của LLSX trong thời kỳ đổi mới đã làm cho nền kinh tế nước
ta có những bước phát triển vượt bậc, nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
11. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Khái niệm: -
Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định. Bao gồm: quan hệ sản xuất đang thống trị, quan hệ sản xuất
tàn dư của xã hội trước để lại, quan hệ sản xuất mầm mống đại diện cho chế độ xã hội sau. -
Kiến trúc hạ tầng: là hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội như chính
trị, pháp luật, tôn giáo, văn hóa - nghệ thuật, khoa học. Tương ứng với các hình
thái ý thức xã hội đó là các thiết chế xã hội như Đảng phái, Nhà nước, Giáo hội,
các Hiệp hội nghề nghiệp, Viện nghiên cứu chuyên ngành. Các thiết chế xã hội
nói trên được xây dựng có tính mục đích, tôn chỉ rõ ràng theo quy định của pháp
luật và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Trong các thiết chế kể trên thì Nhà
nước (đại diện cho pháp luật) và Đảng phái (đại diện cho chính trị) đóng vai trò
quan trọng, quyết định tính chất của hình thái ý thức xã hội khác.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: -
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai bộ phận cấu thành một nhà
nước,giữa chúng có sự tương tác qua phản ánh nội dung Nguyên lý tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội.
+ Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
• Tất cả các hình thái ý thức xã hội, quan điểm và thể chế xã hội thuộc kiến trúc
thượng tầng đều được xây dựng, tồn tại và phát triển trên nền tảng vật chất –
kỹ thuật của cơ sở hạ tầng. Nếu nền tảng vật chất - kỹ thuật của cơ sở hạ tầng
đầy đủ, đồng bộ, khang trang thì sự vận hành của cơ sở hạ tầng có hiệu quả và ngược lại.
• Cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Xã hội xây dựng
trên một cơ chế kinh tế như thế nào thì sẽ có một hệ thống văn hóa, chính trị tương ứng.
• Mọi mâu thuẫn phát sinh trong hệ thống kiến trúc thượng tầng đều có nguồn
gốc từ cơ sở hạ tầng. Khi giải thích các hiện tượng trong đời sống văn hóa –
chính trị, phải căn cứ vào cơ sở kinh tế của các hiện tượng đó.
• Do cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, nên khi cơ sở hạ tầng thay
đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng sớm muộn sẽ thay đổi.
+ Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng: lOMoAR cPSD| 61557118
• Trong tất cả các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng thì Nhà nước đóng vai trò
quan trọng, tác động trở lại cơ sở hạ tầng: Không một tổ chức xã hội nào khác
ngoài nhà nước có chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do vậy, nếu một
nhà nước trong sạch, và vững mạnh thì sẽ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế và tiến bộ xã hội.
• Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai hướng, tích cực và tiêu cực.
o Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sẽ duy trì, bảo vệ,
củng cố, tạo điều kiện cho cơ sở hạ tầng phát triển.
o Nếu kiến trúc thượng tầng không phù hợp với cơ sở hạ tầng (lạc hậu quá
hoặc tân tiến quá) thì sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, lúc đó các
hình thái ý thức xã hội trong kiến trúc thượng tầng sẽ đấu tranh đòi xóa bỏ
cơ sở hạ tầng cũ, thiết lập cơ sở hạ tầng mới, tiến bộ hơn.
12. Nguồn gốc hình thành giai cấp. Liên hệ với vấn đề phân hóa giai cấp ở nước ta hiện nay.
Khái niệm và nguồn gốc hình thành giai cấp:
- Nội hàm của khái niệm giai cấp lần đầu tiên được Lênin đề cập tới trong tác
phẩm “Sáng kiến vĩ đại”. Lênin viết: “Giai cấp là những tập đoàn người to lớn,
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong
lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với (những tư liệu sản xuất này thường
được pháp luật quy định và thừa nhận), về vai trò của họ trong tổ chức lao động
xã hội, và do đó khác nhau về cách thức hưởng thụ và phần của cải xã hội ít hoặc
nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có
thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.” - Nguồn gốc hình thành giai cấp:
+ Theo quan điểm Mác - Lênin, giai cấp là một hiện tượng lịch sử, đã từng có một
giai đoạn lịch sử chưa có giai cấp và sẽ đến một giai đoạn nào đó khi kinh tế - xã
hội loài người phát triển, sẽ không còn sự phân hóa giai cấp. Mác cho rằng: Sự
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất.
+ Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”,
Ăngghen cho rằng, sự xuất hiện giai cấp gắn liền với sự ra đời của chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất. Quan điểm của Ăngghen đã được lịch sử hiện thực chứng
minh: Trong xã hội nguyên thủy, do lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ lao
động đơn giản, năng suất lao động thấp, sản phẩm làm ra vừa đủ ăn, chưa có để
tích lũy nên người nguyên thủy phải hợp tác với nhau để lao động theo hướng
dùng chung tư liệu sản xuất. Trong điều kiện sống như vậy, chưa có cơ sở khách
quan cho sự phân hóa giàu – nghèo. lOMoAR cPSD| 61557118
+ Ăngghen viết: “Quy luật phân công lao động là cái làm cơ sở cho sự phân chia
giai cấp. Nhưng điều đó hoàn toàn không loại trừ việc sử dụng bạo lực, cướp
bóc, mánh khóe và sự lừa bịp trong sự hình thành các giai cấp, và không cản trở
giai cấp thống trị, một khi đã nắm được chính quyền sẽ củng cố địa vị của nó trên
lưng các giai cấp lao động và biến việc quản lý xã hội thành việc bóc lột quần chúng”.
13. Nguồn gốc và chức năng của Nhà nước. Liên hệ với vấn đề nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguồn gốc và chức năng của Nhà nước: - Nguồn gốc:
+ Trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước”, Ăngghen
luận giải rằng, lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu
và xã hội bình đẳng phân hóa thành xã hội có giai cấp. Giai cấp chủ nô bóc lột
sức lao động của nô lệ và nô dịch họ về mặt tinh thần, mâu thuẫn giai cấp phát
sinh, dẫn tới đấu tranh giai cấp.
+ Đấu tranh giai cấp có nguy cơ dẫn đến tình trạng các giai cấp chẳng những tiêu
diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để không diễn ra thảm họa đó, một
cơ quan quyền lực đóng vai trò hòa giải trung gian được thành lập với một bộ máy
bao gồm nhà tù, quân đội, cảnh sát, tòa án và cái đuôi vật chất của nó ra đời, bộ
máy đó gọi là nhà nước.
+ Ăngghen viết: “Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một
giai đoạn nhất định; nó là sự thú nhận rằng,… xã hội đó đã bị phân thành những
mặt đối lập mà tự bản thân nó không sao giải quyết được… nhưng muốn cho
những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau
trong một cuộc đấu tranh, thì cần một lực lượng có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung
đột. Lực lượng đó (nhà nước) nảy sinh từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội và
ngày càng tách rời xã hội”.
+ Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lênin nhấn mạnh: “Nhà nước là
sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được.
Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước
chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.”
- Chức năng của Nhà nước:
+ Chức năng thống trị chính trị của nhà nước chịu sự quy định bởi tính giai cấp
của nhà nước. Là công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ
máy quyền lực để duy trì sự thống trị đó thông qua hệ thống chính sách và pháp
luật. Bộ máy quyền lực của nhà nước từ trung ương đến cơ sở, nhân danh nhà
nước duy trì trật tự xã hội, đàn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bị trị, các lực
lượng chống đối nhằm bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp thống trị. lOMoAR cPSD| 61557118
+ Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã
hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của
xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường… để duy trì sự
ổn định của xã hội trong “trật tự” theo quan điểm của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, theo Ph. Ăngghen, nhà nước là đại biểu chính thức của toàn xã hội chỉ
trong chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp đại diện cho toàn xã hội
trong thời đại tương ứng.
+ Chức năng đối nội: Nhà nước thực hiện công việc lập pháp, thi hành và bảo vệ
pháp luật, quản lý kinh tế, hộ tịch hộ khẩu, giữ gìn trật tự an ninh cho nhân dân.
Đối nội là chức năng quan trọng, quyết định bản chất và tính ưu việt của nhà nước.
+ Chức năng đối ngoại: Quân đội nhà nước thực hiện sứ mệnh bảo vệ an ninh,
quốc phòng, chống lại mọi âm mưu phá hoại nhà nước. Bằng con đường ngoại
giao, nhà nước thực hiện các cam kết quốc tế. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện
nay, chức năng đối ngoại của nhà nước là quan trọng, phản ánh trách nhiệm của
nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại.
14. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa phương pháp luận. Khái niệm: -
Tồn tại xã hội: là khái niệm của triết học Mác-Lênin dùng để chỉ phương
thức và điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất
định. Trong đó bao gồm hai dạng quan hệ vật chất phản ánh quan hệ giữa con
người với giới tự nhiên và quan hệ giữa người với người. Tồn tại xã hội phản ánh
trình độ phát triển toàn diện của một xã hội, theo đó xã hội nào có phương thức
sinh hoạt vật chất tiên tiến và điều kiện sinh hoạt vật chất cao sẽ có cơ hội phát
triển văn hóa - giáo dục và đến lượt mình, văn hóa - giáo dục là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. -
Ý thức xã hội: bao gồm toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội như tâm lý,
tình cảm, tập quán, truyền thống và hệ thống các quan điểm tư tưởng được đúc
kết trong các hình thái ý thức xã hội như: chính trị, pháp luật, khoa học, đạo đức,
tôn giáo, văn hóa, triết học,…
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
a) Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
- Trong hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử, tồn tại xã hội quyết định ý thứcxã
hội là một nguyên lý cơ bản, đánh dấu sự đối lập căn bản giữa thế giới quan duy
vật và thế giới quan duy tâm về xã hội.
- Cơ sở lý luận của nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: lOMoAR cPSD| 61557118
+ Lênin viết: “Nhận thấy chủ nghĩa duy vật cũ là không triệt để, chưa hoàn bị và
phiến diện, nên Mác cho là cần phải làm cho khoa học xã hội phù hợp với cơ sở
duy vật, và dựa vào cơ sở đó để cải tạo khoa học ấy. Nếu nói chung chủ nghĩa
duy vật lấy tồn tại để giải thích ý thức chứ không phải ngược lại, thì khi áp dụng
vào đời sống của xã hội loài người, nó buộc phải lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức xã hội”.
- Nội dung nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
+ Tồn tại xã hội là nguồn gốc, cơ sở, điều kiện và động lực cho sự hình thành,
phát triển của ý thức xã hội, còn ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã
hội, phát triển phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
+ Khi tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng sớm muộn phải thay đổi theo.
Để minh họa vấn đề này, Mác viết: “Trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và
mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị,
trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học”.
• Trong thời đại công xã nguyên thủy, do đời sống còn thấp kém, nên chưa có
sự ra đời của khoa học và các hình thái ý thức khác như triết học, nghệ thuật.
Bước sang thời đại chiếm hữu nô lệ, đời sống vật chất được nâng cao, có sự
phân công lao động và phân hóa giai cấp, có những người chuyên nghiên cứu
thế giới, đó là điều kiện khách quan cho sự ra đời của khoa học, nghệ thuật, tôn giáo.
• Do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nên khi muốn thẩm định đánh giá
một hình thái ý thức xã hội, phải xuất phát từ những điều kiện vật chất phát
sinh ra hình thái đó. Nếu không sẽ rơi vào tình trạng quy kết một cách chủ quan, võ đoán.
• Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nên mọi mong ước, dự định của con
người phải dựa trên tiền đề vật chất, cơ sở thực tiễn, tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí.
• Ý thức xã hội cũng có thể phản ánh xuyên tạc, sai lệch, có hiện tượng này là
do: Nhu cầu của thực tiễn, quyền lợi, mục đích giai cấp, trình độ nhận thức của
con người, tính tồn tại độc lập tương đối của ý thức xã hội.
b) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
- Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
+ Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết
định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện là: tồn tại xã
hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
• Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm
nguồn gốc tư tưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn
tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
• Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất
đã thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.