








Preview text:
lOMoAR cPSD| 60794687
Câu 1: Phân tích định nghĩa “Vật chất" của Lênin? Anh (chị) hãy vận dụng định nghĩa này vào quá trình đôi mới ở nước ta.
1. Phân tích định nghĩa “Vật chất” của Lênin
Sách giáo trình đánh dấu từ trang 128 - 133
2. Vận dụng định nghĩa vật chất của Lênin vào quá trình đổi mới ở nước ta.
* Bối cảnh lịch sử của nước ta trước thời kỳ đổi mới:
Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đứng
I trước rất nhiều thách thức chưa từng có. Chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc chưa kết thúc; cuộc bao vây cấm vận
của Mỹ là một thách thức khắc nghiệt, cảng đẩy nền kinh tế nước ta vào tình thế vô cùng khó khăn.
Thời gian này ở nước ta, tư tưởng nôn nóng muốn tiến nhanh lên CNXH, dẫn đến việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư,
cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho kinh tế - xã
hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Nguồn lực viện trợ, giúp đỡ của các nước XHCN
cạn đi, gần như không còn nữa.
Trong khi đó trên thế giới, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa đang trở
thành chiến lược của nhiều quốc gia phát triển. Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, hậu quả rất nặng nề, càng
làm cho kính tế, đời sống người dân ngày càng tụt hậu.
Cuối năm 1985 đầu năm 1986, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do những khuyết điểm trong cuộc tổng điều chỉnh giá
- lương - tiền (9/1985). Đất nước chìm sâu trong khủng hoảng kinh tế - xã hội, tình hình sản xuất trì trệ, các chỉ tiêu kinh tế
của kế hoạch 5 năm (1981-1985) đều không đạt, nhiều lĩnh vực mức tăng trưởng là âm, lạm phát tăng phi mã có lúc lên đến
700%, đời sống của cán bộ, công chức và nhân dân vô cùng khó khăn, hơn 7 triệu người thiếu đói, dự trữ quốc gia đặc biệt là ngoại tệ cực thấp.
Đảng và nhân dân ta thấy không còn sự lựa chọn nào khác là phải đổi mới, trước hết là đổi mới cách nghĩ, cách làm nhằm xây
dựng CNXH một cách có hiệu quả hơn.
Trung ương Đảng và Bộ Chính trị thấy rõ thực tế này và quyết tâm tìm đường đi riêng của mình. Trong đó vai trò của đồng
chí Nguyễn Văn Linh lúc ấy là Tổng Bí thư rất quan trọng. Cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền trước đó bộc lộ nhiều
khuyết điểm khiến nền kinh tế xuống dốc, cả nước thiếu gạo ăn.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đều nhận thấy đổi mới thì sống, không đổi
mới thì chết. Nhưng đổi mới như thế nào để thắng lợi là những điều khiến các nhà lãnh đạo đất nước trăn trở.
* Hình thành đường lối đổi mới
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khẳng định: "Không có con đường nào khác là phải kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp, thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế, phát huy
vai trò của khoa học kỹ thuật, mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại".
Trước đó, tháng 6/1986, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Bí thư và được phân công Thường trực Ban Bí thư.
Với sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh, Bộ Chính trị đã họp tháng 8/1986 và đi tới những kết luận quan trọng, nhấn
mạnh đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và 3 chương trình kinh tế lớn. Từ đó hình thành đường lối đổi mới. Đến Đại
hội VI (tháng 12/1986), Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, trên cơ sở đó lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước đạt nhiều thành tựu to lớn và quan trọng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế I thị trường, mà xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của
kinh tế XHCN, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân và
kinh tế tư nhân. Đến Đại hội VI, Đảng ta đã tuyên bố dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình
kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước.
* Mở đường đến với thế giới và hội nhập
Về ngoại giao, việc đấu tranh để Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam (1994) và quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, bằng đường lối ngoại
giao đúng đắn, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn tốt, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế, vì hòa bình, ổn định. Thành tựu ngoại giao cực kỳ quan trọng, giúp nước ta hội nhập sâu với thế giới, tận dụng
nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững.
Từ một nước bị bao vậy, cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 191/193 quốc gia và vùng lãnh thổ, thành
viên Liên hợp quốc (LHQ). Trong đó, chúng ta có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Đối tác chiến lược, Đối tác toàn diện
với 30 nước trên thế giới bao gồm tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, những nước quan trọng nhất trên
thế giới như Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc hay các nước quan trọng khác trong khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…
Việt Nam đã mở đường ngoạn mục đến với thế giới, thu hút vốn ODA, đặc biệt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xuất
khẩu...và nhiều hoạt động kinh tế, chính trị xã hội được LHQ và bạn bè quốc tế đánh giá rất cao. * Thành tựu đạt được
Qua 38 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát
triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bộ mặt đất nước, đời sống
của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng. Công tác xây dựng Đảng, xây dưng Nhà nước pháp
quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vì thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng cao.
Câu 2: Phân tích quan điểm triết học Mác - Lênin về phạm trù “ý thức”? Anh (chị) hãy vận dụng quan điểm này vào nhận
thức của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước.
1. Phân tích quan điểm triết học Mác - Lênin về phạm trù “Ý thức”
Sách giáo trình đánh dấu từ trang 152 - 167
Nguồn gốc của ý thức: lOMoAR cPSD| 60794687 • Nguồn gốc tự nhiên • Nguồn gốc xã hội • Bản chất của ý thức: • Kết cấu của ý thức: •
Các cấp độ của ý thức:
2. Vận dụng quan điểm trên vào nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước
Tham khảo phần vận dụng của câu 1
(Cách mạng tháng 8 thành công, nước ta kết thúc thời kỳ phong kiến, chuyển sang chế độ mới. Đảng cộng sản lãnh đạo bỏ qua
chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn
khó khăn. Trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khéo léo vận dụng nguyên lí của triết
học Mác - Lênin về phạm trù ý thức để đổi mới đất nước.
Để hiểu được Đảng đã vận dụng nguyên lí Mác - Lênin về phạm trù ý thức trong công cuộc đổi mới đất nước như thế nào thì
ta phải hiểu được: nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức là gì. Ý thức được này sinh dưới 2 nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên
và nguồn gốc xã hội. Xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất. Nhưng không phải của mọi dạng vật
chất, mà là thuộc tính của 1 dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Ý thức muốn được nảy sinh thì cần bộ óc
của con người. Xét về cấu tạo thì bộ óc là vật chất. Như vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có
năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội là 1 hiện tượng mang bản chất xã hội. Để tồn tại, con người phải tạo ra những vật phẩm để thỏa mãn nhu
cầu của mình. Hoạt động lao động sáng tạo của loài người có nhiều ý nghĩa thật đặc biệt. Trước hết là lao động, sau lao động
và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Lao động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp. Ngôn ngữ bắt nguồn từ
lao động và cùng phát triển với lao động. Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức
hình thành, tồn tại và phát triển.
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan của óc người. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực. Vật chất là hiện thực khách quan, còn ý thức là
hiện thực chủ quan. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ảnh là khách uan, còn
hình thức phản ánh là chủ quan. Sáng tạo là đặc trưng bản chất của ý thức.
Như vậy, ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử.
Kết cấu của ý thức có 3 bộ phận cơ bản tạo thành: tri thức, tình cảm, ý chí. Tri thức là sự hiểu biết của con người, là hệ thống
các quan điểm của con người và có tỉnh quy luật, có tính tổng quát, là kết quả của quá trình tìm hiểu thể giới tự nhiên, xã hội
và tư duy. Tình cảm là 1 hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa
người với thế giới khách quan. Ý chỉ chính là những cố gắng, lỗ lực vượt qua khó khăn trở ngại.)
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, nửa nước Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, đánh dấu thắng lợi to lớn của cuộc
kháng chiến và đặt cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh tiến tới xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và
hoà bình. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng cũng có nghĩa là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành.
Miền Nam còn nằm dưới ách thống trị của đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai. Trước sự thay đổi của tình hình đất nước,
Đảng ta kịp thời xác định nhiệm vụ cách mạng cho phù hợp. Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ chung
của Đàng là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp
định để cùng cổ hoà bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội
nhân dân để cùng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc.
Như vậy, tuy chưa nêu cụ thể, nhưng Nghị quyết Bộ Chính trị đã xác định mỗi miền có một nhiệm vụ khác nhau. Miền Bắc
phải được củng cố vững chắc để làm chỗ dựa cho cách mạng miền Nam. Muốn vậy, không thể để miền Bắc trong tình trạng
sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu và càng không thể đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Yêu cầu của cách mạng miền
Bắc cũng như của cách mạng cả nước và nguyện vọng của toàn dân đòi hỏi miền Bắc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới có thể đi tới một xã hội công bằng và văn minh, không
có người bóc lột người; đồng thời cũng xoá bỏ nguồn gốc sinh ra phương thức bóc lột. Yêu cầu của cách mạng nước ta cũng
như nguyện vọng toàn dân hoàn toàn phù hợp với đặc điểm và nội dung của thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, ở nước ta, trong đóng vai trò n tộc dân chủ nhân dân, giai cấp côn
cuộc cách mạng dân quyết định; đội tiên phong của công nhân và nông dân giai cấp công nhân nắm độc quyền lãnh đạo cách
mạng. Trong điều kiện đó, thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không những là thắng lợi của nhân dân lao động
đổi với chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến, mà còn là thắng lợi về chính trị của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản
trong nước. Chính vì thế, "sự kết thúc thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng có nghĩa là sự mở đầu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa". Xuất phát từ những cơ sở trên, Đảng ta quyết định đưa miền Bắc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Quyết định này cũng chính là sự vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng
không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta.
Sau ngày giải phóng, miền Bắc nước ta đứng nước nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Nền kinh tế nước ta vốn là nông nghiệp
lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Trong các vùng nông thôn mới giải phóng, hậu quả do các cuộc càn quét của
địch để lại hết sức nghiêm trọng: khoảng 14 vạn héc ta ruộng đất bị bỏ hoang; hệ thống thủy lợi hư hỏng nặng, khiến 200.000
héc ta ruộng đồng không nước tưới tiêu, cần cỗi và úng ngập; thôn xóm tiêu điều, xơ xác; nhân công, nông cụ và trâu bò bị
thiếu nghiêm trọng. Từ cuối năm 1954 đến nửa đầu năm 1955, nạn đói lan rộng tới trên 200 xã. Các thành thị vừa mới tiếp
quản mang nặng tính chất buôn bán, tiêu thụ là chủ yếu. Phần lớn các nhà máy, xí nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động
cầm chừng. Nguyên nhiên liệu, máy móc thiếu thốn. Vì vậy, Đảng ta đã áp dụng chính sách đi vào chế độ quan liêu bao cấp. lOMoAR cPSD| 60794687
Nhà nước sẽ cung cấp tư liệu sản xuất cho người lao động, người lao động chỉ cần tập trung sản xuất ra sản phẩm. Trong tình
cảnh đất nước nghèo nàn, lạc hậu như vậy thì việc áp dụng chế độ quan liêu bao cấp để cải thiện tình hình kinh tế cũng như
cuộc sống của người dân là hoàn toàn hợp lý. Điều đó cho thấy sự tư duy tức thời, 1 quyết định sáng suốt, hợp lý của Đảng và
nhà nước. Phù hợp với hoàn cảnh và thực tiễn của đất nước.
Sau khi thống nhất đất nước, hàn gắn được vết thương sau chiến tranh, tỉnh hình kinh tế cũng đã được cải thiện, đời sống nhân
dân đã đi vào ổn định. Chính vì vậy mà việc vận dụng chính sách quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp. Đứng trước tình
cảnh đó, Nhà nước đã tìm ra được con đường đổi mới nền kinh tế của đất nước đó là: chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Một lần nữa, sự thay đổi kịp thời cũng như đường lối hợp lý của Đảng đã giúp
nền kinh tế nước ta phát triển. Đời sống nhân dân không chỉ dừng lại ở no đủ mà còn có của cải dư thừa, hàng hóa được giao
lưu với các nước khác.
Không chỉ đừng lại ở việc cải cách kinh tế, Đảng và nhà nước còn chú trọng đến vấn đề cải cách xã hội. Để trở thành 1 đất
nước giàu mạnh, sáh trọng đến ưng quốc năm châu thì cần phải phát triển trình độ giáo dụ sánh vậy, Nhà nước đã tạo điều kiện
cho người dân phát triển toàn diện. Ai cũng vậy, đến trường học chữ, ai cũng biết viết, biết đọc. Việc cải cách này ũng Nhà
nước là hoàn toàn hợp lý. Bởi 1 đất nước muốn phát triển lâu dài của cần phải phát triển về trình độ văn hóa và học vấn. Thành
tựu giáo dục trong thời kỳ này là phát triển hệ thống giáo dục phổ thông đại trà trà đến tận giáo dục cấp xã; mỗi xã, phường
đều có trường phổ thông cấp 1 hoặc trường phổ thông cấp I-II, kể cả giáo dục mầm non; tập trung cho công tác bổ túc văn hóa
và xóa mù chữ trong độ tuổi đi học; mỗi quận - huyện, thị xã có trường bổ túc văn hóa cho cán bộ cơ sở. Đến năm 1981, thì
cho áp dụng hệ 11 năm cho miền Bắc (thêm lớp 5). Năm 1992-1993, hệ thống 11 năm phổ thông của miền Bắc được thay đổi
từ 11 năm sang 12 năm (thêm lớp 9). Cuộc cải cách giáo dục bắt đầu từ năm 1981: Hệ thống giáo dục chuyển từ 10 năm sang
12 năm (bỏ lớp vỡ lòng), kéo theo sự đổi mới chương trình sách giáo khoa và cải tiến chữ viết. Do dư luận xã hội phản ứng
mạnh, ngành giáo dục dần quay lại chữ viết cũ.
Qua 30 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa đã có bước phát triển quan trọng, trở thành cơ sở chỉ đạo thực tiễn
phát triển văn hóa, xây dựng con 1 người Việt Nam. Từ năm 1986, Đảng ta tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng quan điểm về
à văn hóa của các giai đoạn trước, để đi tới quan điểm giản dị nhưng sâu sắc: Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con
người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp
cuộc sống. Đó là tầm nhìn sâu, mới, toàn diện, bao quát hơn về vị trí của văn hóa, tạo điều kiện để văn hóa phát triển đa dạng,
phong phú, gắn bó mật thiết với mọi mặt đời sống. Cùng với nhận thức lý luận mới về văn hóa, Đảng ta chú trọng yêu cầu đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với lĩnh vực có nhiều đặc thù này, để vừa bảo đảm định hướng
phát triển văn hóa phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa phát huy cao nhất, tôn trọng quyền tự do
sáng tạo, thực hành dân chủ, giải phóng tiềm năng to lớn của đội ngũ hoạt động văn hóa, văn nghệ. Trong đổi mới phương
thức lãnh đạo, cần tránh hai khuynh hướng: hoặc bảo thủ, máy móc, cứng nhắc, chỉ đạo song không am hiểu đặc trưng của
văn hóa, hoặc hữu khuynh, buông lỏng, né tránh các vấn đề đang đặt ra cần giải quyết. Cả hai khuynh hướng này đều có hại
cho sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa.
Sự vận dụng này của Đảng là theo lập trường Mác - Lênin. Nhưng không phải là sự dụng y nguyên mà là có sáng tạo vì đất
nước có những đặc điểm riêng. Việc vận dụng triệt để và sáng tạo của Đảng đã thu được những thành quả nhất định: đời sống
văn hóa và tỉnh thần của nhân dân được tăng cao, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, tạo công ăn việc làm cho nhiều người.
Câu 3: Vận dụng lý luận mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác - Lênin để phân tích mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị.
1. Lý luận mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác - Lênin
Sách giáo trình đánh dấu từ trang 174 - 182
2. Vận dụng lý luận mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác - Lênin để phân tích mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong qua trình đổi mới của nước ta.
Vật chất ở đây chính là kinh tế, ý thức chính là chính trị: Mỗi quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong quá trình đổi mới ở nước ta là:
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác động trực tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người
cũng như quá trình phát triển của loài người.
* Kinh tế quyết định chính trị. Kinh tế không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như
sự biến đổi của chính trị.
Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết
của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực..., nước
ta đã thoát khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế, còn tiếp tục duy trì được
tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức
kinh tế quốc tế..., tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mô hình quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được xác lập và bước đầu vận hành thông suốt.
* Chính trị cũng tác động trở lại kinh tế theo 2 khuynh hướng tích cực và tiêu cực.
Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các
cơ quan đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hôi theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung, quan
liêu, hành chính, mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Đánh giá ảnh hưởng tích cực của
đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta từng khẳng định: “Những kết quả của đổi mới hệ thống chính trị, từ đổi mới tư duy,
chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tuy mới là bước đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho
đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh". lOMoAR cPSD| 60794687
Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị, chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế 1 của đất nước phát triển theo quy luật khách quan,
vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tỉnh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được
thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai quá trình đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo
nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Câu 4: Vận dụng lý luận mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác - Lênin để phân tích mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị trong qua trình đổi mới của nước ta. Tham khảo câu 3
Câu 5: Bằng lý luận và thực tiễn, anh (chị) hãy chứng minh rằng cuộc đấu trạnh giữa cái cũ và cái mới là quá trình khó khăn,
lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ.
Để làm sáng tỏ quan điểm: cuộc đấu trạnh giữa cái cũ và cái mới là quá trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất
bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ. Em sẽ sử dụng quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định để phân tích.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật và là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, là hạt nhân
của phép biện chứng. Quy luật luôn có tính khách quan và có tính chu kỳ. Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự
liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối
lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính...có khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội. Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt
đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Thống
nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện ở: các mặt đối lập cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia; các mặt đối lập tác động ngang
nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn; giữa các mặt đối lập có sự
tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái
niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời
sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong 1 mâu thuẫn. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của
các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hưởng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phải biết phận tích cụ thể 1 mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. Phải nắm vững nguyên tắc
giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ.
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy: đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thông qua những lần phủ
định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ "phủ định của phủ định". Mọi quá trình vận động và phát triển trong
các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó có những sự phủ định chấm dứt
sự phát triển, nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển. Những sự phủ định tạo ra
điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng được gọi là sự phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng có
hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tỉnh kế thừa. Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ
định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong
bản thân sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng có tính kế thừa: kế thừa những nhân tổ hợp quy luật và loại bỏ nhân tố trái
quy luật. Phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch tron cái cũ, mà trái lại trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái
cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận
động của sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển. trình diễn ra quanh co, phức
tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi. Quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự
vật, hiện tượng mới, ra đời phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Biết kế thừa và
chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng mới.
Quan điểm: cuộc đấu trạnh giữa cái cũ và cái mới là quá trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời
nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ đã được chứng minh trong thời kỳ đổi mới đất nước. Để có thể xóa bỏ cái cũ là giai
cấp phong kiến, đi đến cái mới là chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã phải thực hiện 1 cuộc cm đấu tranh giữa giai cấp phong kiến
và giai cấp nông dân. Đó là 1 cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ. Cùng là hai giai cấp tồn tại trong cùng một chế độ xã hội
nhưng giữa các giai cấp này luôn chứa đựng những mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau, mâu thuẫn lên đến cao trào chính là cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân lao động lật đổ giai cấp phong kiến. Quá trình đấu tranh ấy diễn ra lâu dài và quyết liệt, mặc
dù có gặp phải những khó khăn chống cự của chế độ cũ nhưng rồi lực lượng lao động mới tiến bộ hơn vẫn chiến thắng. Thay
thế chế độ phong kiến lạc hậu, là chế độ xã hội chủ nghĩa với những tiến bộ mới, tuy nhiên trong nó vẫn chứa đựng những
mâu thuẫn chưa thể xoá bỏ giữa tầng lớp nhân dân lao động với tàn dư của chế độ phong kiến, với giai cấp tư sản đang hình
thành trong nền kinh tế. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới CNXH. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân
dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử... Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phúc tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. lOMoAR cPSD| 60794687
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thể nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH).
Song, không phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và
HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, đô là thời kỳ quá độ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại căng đòi hỏi
phải trải qua một TKQHĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời, cũng như lịch sử xã
hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là
hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa
sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất
- kỹ thuật, kinh nghiêm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự lựa chọn xu hướng phát
triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền
kinh tế nước ta này sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng
hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Mình, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, tiến hành 9 năm kháng
chiến trường kỷ, gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh
liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ là lâu dài, phức tạp. Để có thể trở thành 1 nước CNXH như hiện nay, chúng ta
đã phải trải qua 1 thời kỳ kháng chiến đầy gian khổ và quyết liệt với 9 năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm chống Mỹ.
Khi cả đất nước đã được hòa bình, chúng ta lại tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới đất nước kéo dài suốt 30 năm. Mặc dù,
khi đổi mới, Đảng và nhà nước đã gặp phải vô vàn những khó khăn và thách thức nhưng bằng sự quyết tâm và kiên định, Đảng
đã đưa đất nước VN trở thành 1 đất nước hùng mạnh, độc lập như hiện nay.
Để đến được những thành công vẻ vang như hôm nay, chúng ta đã không ít lần phạm phải những sai lầm và gặp thất bại. Với
tinh thần yêu nước của nhân dân VN, trong 2 cuộc kháng chiến chống pháp và Mĩ, và đặc biệt là khi Đảng CSVN chưa được
thành lập, có rất nhiều cuộc kháng chiến mang tính chất nhỏ lẻ được diễn ra, điển hình như cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Do chưa
có sự liên kết với các phong trào yêu nước cùng thời, Giai cấp lãnh đạo là nông dân, chưa có đường lối đúng đắn, chưa có hệ
tư tưởng lãnh đạo; là phong trào mang tính tự phát nên cuộc kháng chiến đã thất bại. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến diễn ra
trong một thời gian dài gây cho Pháp không ít tổn thất. Tuy chưa giành được thắng lợi nhưng nó thể hiện tinh thần yêu nước,
quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta. Bước đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nông dân. Để lại nhiều bài học kinh
nghiệm cho cuộc chiến đấu về sau.
Hoặc là cuộc khởi nghĩa Mậu Thân năm 1968. Tuy cuộc khởi nghĩa chưa thực sự đánh đuổi được đế quốc Mĩ ra khỏi bờ cõi
VN nhưng nó đã tạo 1 tổn thất nặng nề cho quân Mĩ, làm bàn đạp cho những cuộc tấn công sau này. Trong thời kỳ khoáng
chiến của dân tộc còn rất nhiều cuộc tiến công khác như: thời kháng Pháp có: khởi nghĩa Trương Định (1859 1864), khởi nghĩa
Nguyễn Trung Trực (1861 – 1868), khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887), khởi nghĩa Bãi Sậy... Thời kháng Mĩ có: trận Bản Đông
năm 1971, chiến dịch Đắc Tô 1972,... Mặc dù tất cả các cuộc kháng chiền đều không dành được thắng lợi to lớn song nó đã là
những đòn đánh lẻ tẻ, khiến kẻ thù không kịp trở tay. Ngoài ra những cuộc khởi nghĩa trên còn mang tính chất đòn bẩy cho
những cuộc khởi nghĩa sau này. Giúp cho những cuộc khởi nghĩa sau có kinh nghiệm hơn trong đường lối và chiến lược đánh
giặc. Những cuộc kháng chiến này thất bại đã dẫn đến 1 cuộc kháng chiến với quy mô to hơn, rộng lớn hơn sẽ dành được thắng lợi.
Câu 6: Anh/chị hãy trình bày quan điểm triết học Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp và vai trò của nó đối với sự phát triển của
xã hội có giai cấp đối kháng. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta hiện nay như thế nào? Sách giáo trình từ trang 331 – 348
Câu 7: : Anh/chị hãy vận dụng lý luận của triết học Mác - Lênin về cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả để phân tích vấn đề
về nạn phá rừng ở nước ta hiện nay.
1. Nguyên nhân •
Nguyên nhân thứ nhất và chủ yếu nhất là do ý thức của con người, khai thác không đúng quy hoạch, con người khai
thác một cách ồ ạt nguồn tài nguyên rừng bên cạnh đó một đại bộ phận người dân thiếu ý thức trong việc bảo vệ
rừng gây tình rạng cháy rừng nghiêm trọng. Mỗi năm, các tỉnh khu vực miền trung và Tây Nguyên đều phát hiện,
xử lý hàng chục ngàn vụ vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng mà chủ yếu là do ý thức người dân quá
kém gây thiệt hại lớn cho nhà nước •
Hoạt động quản lý nhà nước về rừng yếu kém. Nhà nước thực hiện khoán cho người dân quản lý, bảo vệ rừng và
thu các nguồn lợi từ rừng tuy nhiên, do chi phí khoản quá thấp trong khi công việc rất khó khăn và vất vả, dẫn đến
người dân tâm lý căng thẳng muốn xin trả lại rừng không nhận khoán nữa. Mức thù lao vừa thấp, vừa bấp bênh
(trước là 50 ngàn đồng/ha, hiện nay tăng lên 200 ngàn đồng/ha) làm cho họ không thiết tha với công việc nhận khoán
bảo vệ rừng. Đó cũng là nguyên nhân quan trọng của vấn đề được giao khoán nhưng rừng vẫn bị tàn phá. Khung
pháp lý đối với các đối tượng phá rừng chưa thật cụ thể và đúng mức, phần lớn xử lý còn quá nhẹ, chưa đủ mạnh để
răn đe trong khi đó tình trạng kiểm lâm tiếp tay cho lâm tặc phá rừng diễn ra phức tạp. •
Do tập tục du canh du cư, đốt nương làm rẫy của một số cộng đồng thiểu số bà con dân tộc vùng cao. Họ di dân ồ
ạt đến nơi có rừng, đốt rừng làm nương rẫy sau một vài mùa vụ họ lại lên đường kiếm những vùng đất mới màu mỡ
hơn để canh tác cứ như thể họ để lại sau lưng những cánh rừng chết những vùng đất khô cằn sỏi đá. lOMoAR cPSD| 60794687 •
Do quá trình chuyển hóa đất từ sản xuất lâm nghiệp sang sản xuất nông nghiệp trang trại một cách ồ ạt không theo
quy hoạch của nhà nước chúng ta phá bỏ những cánh rừng nguyên sinh để đổi lấy những trang trại chăn nuôi quy
mô lớn. Điển hình như tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009 đến nay đã có đến trên 26.500ha rừng bị lấn chiếm, chặt phá trái
phép, trong khi đó các cơ quan chức năng mới thu hồi được gần 2.000ha để trồng lại. Điều này cho thấy một thực
trạng đáng báo động cho chúng ta về vấn đề mất rừng. •
Do xây dựng cơ bản như xây dựng đường giao thông, công trình thủy điện,... Trong công cuộc phát triển đất nước
thì điều này ta không thể tránh khỏi nhưng chúng ta đang quy hoạch các dự án thủy điện một cách không hợp lý và
có nhiều vấn đề bất cập chúng ta cấp phép xây dựng thủy điện quá dễ dàng, dẫn đến việc các đối tượng lợi dụng dự
án chặt phá rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn một cách kiệt quệ. 2. Hậu quả •
Tình trạng thiên tai, lũ quét, sạt lở đất, gây nguy hiểm cho cuộc sống của con người. Hàng năm nước ta phải gánh
chịu bao nhiêu là thiên tai nguy hiểm Đặc biệt là hiện tượng trượt là đất, đá, lũ, lũ quét thường xuyên xảy ra ở các
tỉnh miền núi gây tổn thất nghiêm trọng về người, tài sản và môi trường sinh thái. Từ năm 2010 đến 2014 cả nước
đã xảy ra 250 đợt lũ0 quét, sạt lở đất làm chết và mất tích 646 người, bị thương trên 350 người, trên 9700 căn nhà
bị đổ trôi; hơn 100 nghìn căn nhà bị hư hại nặng, hơn 75.000 ha lúa và hoa màu bị ngập, hàng trăm ha đất canh tác
bị vùi lấp, nhiều công trình giao thông, thủy lợi, dân sinh kinh tế bị hư hỏng, tông thiệt hại ước tính trên 3.300 tỷ
đồng. Riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ đầu năm đến nay đã xảy ra 12 đợt gió lốc, mưa lớn cục bộ, sét đánh và 2
đợt lũ lớn trên sông Thao, làm 2 người chết, 5 người bị thương, sập đổ 27 ngôi nhà; tốc mái 1.617 nhà ở, thiệt hại
hơn 1000 ha lúa, rau màu, cây công nghiệp cùng nhiều công trình cơ sở hạ tầng khác... Tổng giá trị thiệt hại ước
tính trên 13 tỷ đồng. Vào trung tuần tháng 10 năm 2013, trên địa bàn nhiều tỉnh miền Trung đã diễn ra mưa lụt nhiều
ngày liên tiếp gây thiệt hại nặng nề về người và của. Đợt mưa lũ lần này được các ngành chức năng đánh giá là trăm
năm mới có một và đưa ra kết luận, là do nạn chặt phá rừng đầu nguồn. Khi rừng đầu nguồn bị chặt phá, cường độ
của lũ lụt đi nhanh, làm cho nước dâng cao rất nhanh. Cây rừng ngăn lũ lụt, thiên tai thất thường. Khi nước lũ dâng
cao, cây rừng cân sức nước và rễ cây sẽ hút phần nào nước lũ. Có cây rừng, sức nước đỡ mạnh hơn, cây rừng chắn
gió và làm suy yếu sức mạnh tại những vùng bão đi qua. Theo các nhà khoa học, việc nhiều diện tích rừng đầu nguồn
và rừng phòng hộ ở các tỉnh miền Trung bị | san bằng nhường chỗ cho thủy điện đang làm mất khả năng điều tiết
nước thượng nguồn khi mưa lớn, đây là một nguyên nhân chính khiến lũ lụt ngày thêm trầm trọng. •
Tỉnh trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Vùng ven biển đồng bằng sông Hồng (ĐBSH)
gồm 4 tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình có diện tích tự nhiên 6131 km2 (tương đương với 7% diện
tích lưu vực sông Hồng thuộc lãnh thổ Việt Nam). Dân số 6.374,7 nghìn người, là nơi tập trung đông dân với mật
độ trung bình 1.029 người/km2; trong đó có tới 66% lao động sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng
thủy sản với diện tích 306.100 ha chủ yếu là canh tác lúa nước nhưng Từ năm 2001 đến nay dòng chảy mùa kiệt nhỏ
đã gây trở ngại cho các nhu cầu kinh tế, dân sinh và môi trường ở hạ lưu. Mục nước các cống lấy nước tự chảy vào
hệ thống và các trạm bơm tưới hai bên bờ hệ thống sông Hồng luôn thấp, gây khó khăn và hạn chế công suất hoạt
động của các trạm bơm tưới như phải giảm số máy bơm, kéo dài thời gian bom.
3. Giải pháp:
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục, nâng cao nhận thức về quản lý, bảo vệ rùng.
+ xây dựng các chương trình về thông tin- giáo dục – truyền thông, phổ biến kiến thức pháp luật cho các chủ rừng
nhằm nâng cao nhận thức cho họ.
+ học hỏi các nước quản lí tài nguyên rừng tốt điển hình như Nhật Bản. Nhận thức của người Nhật rất cao trong việc
bảo vệ tài nguyên rừng, từ năm 1980, xuất hiện phong trào tìm hiểu về rừng bắt nguồn từ những ngư dân trồng cây
ven biển vùng châu thổ sông, vùng núi và lan rộng chưa từng có. Đến nay phong trào này đã có tác động tích cực
đến môi trường và luôn được chính phủ khuyến khích.
+ Phải có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương để triển khai các hoạt động về bảo vệ
và à phát triển rừng. Gắn trách nhiệm quản lý nhà nước trên địa bàn của các cấp chính quyền và đề cao trách nhiệm
cá nhân trong bảo vệ rừng. Tăng cường sự phối hợp có hệ thống, có kế hoạch với các lực lượng liên quan để tổ chức
kiểm tra, giám sát các hoạt động về xâm hại tài nguyên rừng. Dựa vào nhân dân để thực hiện các biện pháp nghiệp
vụ liên quan đến công tác quản lý bảo vệ rừng. Với công tác phòng cháy chữa cháy rừng, phải quán triệt phương
châm phòng là chính, chữa cháy kịp thời và hiệu quả
+ Xây dựng và duy trì hoạt động của các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng tại các địa phương. Có chính sách khen
thưởng và động viên kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân làm tốt công tác bảo vệ rừng. Song cơ bản nhất vẫn là
phải thực hiện đồng bộ các giải pháp về phát triển kinh tế xã hội, sử dụng rừng và hưởng lợi từ rừng một cách bền
vững và có hiệu quả lâu dài, có như vậy mới mong hạn chế và ngăn chặn được tình trạng phá rừng trái phép, xâm
hại tài nguyên rừng hiện nay.
Câu 8: : Anh/chị hãy vận dụng lý luận của triết học Mác - Lênin về cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả để phân tích vấn
nạn bạo lực học đường ở nước ta hiện nay.
1. Nguyên nhân bạo lực học đường •
Thứ nhất là do thay đổi tâm sinh lý. Chúng ta biết rằng, lứa tuổi học sinh đặc biệt là lứa tuổi từ 12 – 18 tuổi, đây là
thời kỳ con người đang trong quả tỉnh hoàn thiện về cả thể xác lẫn tinh thần. Bởi vậy lứa tuổi này cũng là thời kỳ
tâm sinh lý có nhiều thay đổi. Độ tuổi từ 12 – 18 tuổi là giai đoạn đang hình thành và phát triển nhân cách của lứa
tuổi vị thành niên đặc biệt là tâm sinh lý đang phát triển theo chiều hướng: thích thể hiện cá tính, thích được mọi
người quan tâm chú ý, đặc biệt nhất đó là trong độ tuổi này, trẻ dã bắt đầu ý thức mình không còn là trẻ con, muốn lOMoAR cPSD| 60794687
được độc lập, được tôn trọng. Bắt đầu quan tâm đến hình thức bên ngoài, thích tò mò, khám phá, thử nghiệm, đặc
biệt là giai đoạn này trẻ sẽ có những hành vi mang tính khẳng định bản thân như hút thuốc, đánh nhau. Nhất là khi
những vấn đề bức xúc cá nhân học sinh không được nhìn nhận 1 cách thỏa đáng, hay không được chấp nhận theo
mong muốn của học sinh, hay bị những đối tượng khác khiêu khích, cố ý gây xúc phạm đến danh dự, bất đồng ý
kiến với đám đông... Những nguyên nhân này tác động vào tâm lý làm trẻ khó kiểm soát được hành vi của mình. •
do ảnh hưởng từ văn hóa, từ các mối quan hệ trong xã hội. Sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng internet,
khiến game online và các trò chơi hành động mang tính đối kháng xâm nhập mạnh mẽ vào xã hội. Đặc biệt xâm
nhập vào đối tượng học sinh, sinh viên. Nguyên nhân của điều này là do quá đam mê game, đắm chìm trong game,
tưởng tượng mình là nhân vật trong game và mình có quyền hành động như vậy. Ngoài ra, thông qua mạng xã hội,
người ta dễ dàng để kết nối, để nói chuyện với nhau. Và không thể kiểm soát hết được những đối tượng bạn bè mà
học sinh kết bạn. Điều này tạo ra quan hệ bạn bè ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Bạn chơi với những đối tượng tốt,
bao giờ bạn cũng sẽ tốt lên và ngược lại, khi bạn chơi với những người bạn xấu, có hơi hướng bạo lực, bạn sẽ học
tập, làm theo những hành vi bạo lực tươg đương. •
do từ phía nhà trường và gia đình. Nguyên nhân bạo lực học đường cũng có một phần do giáo dục của nhà trường
còn nặng về kiến thức văn hóa, đôi khi lãng quên đi nhiệm vụ giáo dục con người “tiên học lễ, hậu học văn”. Mặt
khác cuộc sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một phần xã hội đã đẩy ngã những giá trị quan trọng của nhà
trường, đạo đức của một bộ phận thầy cô giáo. Sự ảnh hưởng của gia đình đối với mỗi cá nhân là vô cùng lớn. Chính
những hành động gây gổ cãi nhau hoặc đánh nhau của bố mẹ trước mặt con trẻ đã ảnh hưởng sâu sắc theo chiều
hướng xấu đến con trẻ sau này. Đáng buồn hơn nữa tình trạng này ngày càng có xu hướng gia tăng trong xã hội ngày
càng hiện đại. Cấp II và cấp III là giai đoạn học sinh hình thành nhân cách chỉ cần một tác động xấu từ gia đình và
xã hội có thể gây nên tổn thương không thể chữa lành, hình thành những nhân cách không đúng về giá trị sống dẫn
đến những vụ bạo lực học đường. 2. Hậu quả:
Hậu quả của việc bạo lực học đường để lại là vô cùng to lớn. Trong nhiều vụ bạo lực được nói tới, không ít những vụ bạo lực
đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng về mặt thể xác. Nhẹ nhàng có thể là những vết bầm tím nhưng cũng có thể là những
thương tích nặng phải vào bệnh viện điều trị. Tồi tệ hơn khi không ít vụ bạo lực đã cướp đi sinh mạng của những học sinh vô
tội để lại sự thiệt thòi, đau đớn không chỉ về mặt thể xác mà cả tình thần cho học sinh và gia đình. Những đứa trẻ bị bạo lực,
nhất là bạo lực về tinh thần, bạo lực ngôn ngữ thường cảm thấy bị tổn thương, chán nản, lo âu, cô đơn, suy sụp... Sự sợ hãi
hoặc nỗi ám ảnh làm thế nào để đối phó những kẻ bắt nạt có thể khiến trẻ bị stress. Thậm chí, tỉnh trạng này có thể kèo đãi
suốt cuộc đời, tạo thành căn bệnh trầm cảm. Các em không dám ra ngoài hoặc đến trường, không thể tập trung vào học hành.
Những hậu quả mà bạo lực học đường gây ra kể cả thể xác hay tinh thần cũng đều trực tiếp ảnh hưởng đến công việc học tập
cũng như tương lai của học sinh nếu không được can thiệp kịp thời. Với những ảnh hưởng về mặt sức khỏe cũng với tâm lý lo
lắng, căng thẳng, sợ hãi, học sinh không thể học tập với kết quả tốt nhất có thể. Thậm chí, sự căng thẳng quá mức về mặt tâm
lý có thể buộc học sinh kết thúc việc học của mình, hoặc cũng có thể vì gây ra hành vi bạo lực mà học sinh phải nhận kỷ luật
đuổi học. Từ đó, tương lai của các em rẽ sang một bước ngoặt khác không mấy khả quan. Đặc biệt, những đứa trẻ có hành vi
bạo lực, lạm dụng quyền hành từ khi còn nhỏ, khi lớn lên có thể mắc phải những hành vi tội ác nhiều hơn những đứa trẻ khác.
Trẻ em liên lụy vào hành vi bạo lực dù ở vai trò này hay vai trò kia cũng đều có nguy cơ lạm dụng rượu, thuốc lá, và các loại ma túy.
3. Giải pháp:
Để có thể khắc phục bạo lực học đường ở VN hiện nay, chúng ta cần có những giải pháp thiết thực và hợp lý và thực hiện một
cách nghiêm ngặt. ề phía học sinh, sinh viên, cần có ý thức rèn luyện và tìm hiểu, nâng cao ý thức về hành động cũng như hậu
quả của những hành động bạo lực đó. Trong lớp, cần tổ chức những nhóm bạn cùng tiến để nâng cao nhận thức và tăng cường
sự trao đổi, tự khắc phục lẫn nhau trong học tập. Đối với một số học sinh cá biệt, cần có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường
để uốn nắn, điều hướng các em vào phong trào của lớp, tránh sự phân biệt đối xử. Theo những tin tức tư vấn học đường, cũng
cần nhìn nhận cách giáo dục trẻ trong gia đình. Thực tế, có rất nhiều gia đình chỉ chú trọng đến kết quả học tập của con mà
không chú ý đến việc các em nghĩ gì hay cách xử sự của con với bạn bè. Vì thế, thay vì chu cấp cho con nhiều về mặt vật chất,
gia đình, và đặc biệt là cha mẹ cần là những người bạn đồng hành của con cái. Tránh tạo vỏ bọc cứng nhắc vì sẽ tạo tâm lý ý
lại, dựa dẫm và hưởng thụ. Với nhà trường, cần chủ động trong việc trao đổi thông tin với gia đình học sinh cũng như chính
quyền địa phương để có thể nắm bắt tình hình cũng như biểu hiện của học sinh. Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm cần chủ động
nắm chắc tỉnh hình để có biện pháp giải quyết ngay khi học sinh có biểu hiện của những hành vi tiêu cực và bạo lực. Nhà
trường cũng cần chú trọng trong việc giảng dạy một số môn học như kỹ năng sống, giáo dục công dân, trang bị nhận thức
đúng đắn cho học sinh về hành động đẹp, tăng cường tỉnh thần trách nhiệm cũng như ý thức đấu tranh đẩy lùi bạo lực học
đường. Ngoài ra, bộ phận chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể hay lực lượng công an cũng cần đảm bảo sự lãnh đạo
thống nhất, nêu cao ý thức cũng như tỉnh thần trách nhiệm, phát huy tối ưu vai trò của mình trong hoạt động phòng ngừa bạo lực học đường.
Bạo lực học đường đang là hồi chuông cảnh báo cho những ai thực sự quan tâm đến thế hệ trẻ và tương lai của đất nước, sẽ
còn tốn nhiều thời gian, công sức, của cải để chúng ta giải quyết vấn nạn bạo lực học đường. Tuy nhiên, để làm được điều đó
cần phải có nhận thức đúng đắn về vấn đề bạo lực học đường, một quyết tâm cao độ đánh tan vấn nạn bạo lực học đường của
toàn ngành giáo dục, các cấp liên ngành, của gia đình, nhà trường, của giáo viên và học sinh.
Câu 9: Trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin về các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật, anh (chị) vận
dụng để phân tích câu tục ngữ: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn". 1.
Lý thuyết: Phạm trù Nội dung - Hình thức Trang 222 - 225 2. Vận dụng lOMoAR cPSD| 60794687
Trong đời sống hàng ngày, muốn nhận xét một đồ vật, một con người một cách chính xác thì chúng ta nên căn cứ trên cơ sở
nào nội dung hay hình thức? Đây cũng là vấn đề xưa nay được nhiều người bàn luận. Cha ông cũng đã có nói về vấn đề này
trong câu tục ngữ: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn"
Đây là kinh nghiệm quý giá mà ông cha của ta từ ngàn xưa đã truyền dạy để hậu thế ghi nhớ và học tập.
Câu tục ngữ dùng hai sự vật "gỗ" và "nước sơn" khi thực hiện phép so sánh giữa 2 vật liệu gỗ và sơn. Gỗ ở đây là nội dung.
Nước sơn là hình thức bên ngoài của đồ vật. "GỖ" là vật liệu để làm nên đồ dùng như tủ, giường, bàn, ghế... Còn "nước sơn"
là vật liệu để phủ lớp bên ngoài khiến những đồ dùng ấy càng đẹp và bền. Những người chỉ chú ý vào lớp nưóc sơn bóng loáng
ngoài có thể đã mua được một đồ dùng bằng gỗ kém hay gỗ mục. Ông cha ta với kinh nghiệm cuộc sống của mình đã kết luận
là: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Đó là nói theo nghĩa đen.
Còn nghĩa bóng của câu tục ngữ này rộng hơn rất nhiều. Nó bao hàm một lời khuyên về cách nhìn nhận và đánh giá một sự
vật, một con người chớ nên bị cái vỏ hình thức hào nhoáng bên ngoài chi phối mà hãy trọng cái thực chất bên trong. Ngoài ra,
câu tục ngữ cũng bao hàm một lời khuyên về cách sống; hãy sống thật với thực chất của bản thân, chân thành trong cách đối
nhân xử thế, không khoe khoang, khoác lác.
Như nhiều câu tục ngữ khác, câu tục ngữ này cũng là đúc rút kinh nghiệm của ông cha ta, từng trải qua biết bao năm tháng,
với bao thăng trầm, thực hư, lẫn lộn mới đúc rút thành chân lý: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Khi nhìn nhận đánh giá một sự vật,
ta phải hiểu được giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong, không phải bao giờ cũng đồng nhất. Một vật dụng như chiếc
tủ, cái ghế hay chiếc bàn bằng gỗ tạp lại được sơn phết, tô vẽ với nước sơn bóng loáng, bắt mắt. Những kẻ này hay làm ra vẻ
thông minh, hiểu biết. Những kẻ "miệng nam mô bụng một bồ dao găm" còn tồn tại phổ biến trong xã hội. Do đó, trong giao
tiếp ứng xử với mọi sự vật, mọi con người phải chú ý đến chất lượng bên trong của sự vật, vào nét đẹp tâm hồn của con người
chứ không vì bóng sắc quyến rũ bên ngoài mà quên mất cái già nua, lạc hậu, xấu xí và vô vị bên trong. Bởi vì xét cho kỹ, suy
cho đến cùng, nếu chân giá trị của vật dụng là chất là gốc thì chân giá trị của con người cũng là đạo đức, tài năng và trí tuệ.
Nhưng cũng đừng quá xem trọng nội dung mà quên đi mặt hình thức. Một vật dụng, một món hàng đã có chất lượng cao, gỗ
tốt và có bao bì, hoặc nước sơn xinh xắn tô vẽ, trang hoàng đẹp mắt thì giá trị vật dụng ấy, món hàng đó sẽ càng tăng lên.
Hình thức bên ngoài cũng đã góp phần làm tôn lên những giá trị bên trong.
Một con người cũng như thế, có học vấn, đạo đức mà nói năng lịch thiệp trang nhã, ăn mặc tươm tất, đẹp đẽ sẽ khiến chúng ta
càng trân trọng hơn những người cho dù cũng có tài năng, đạo đức nhưng ăn nói thô lỗ, cẩu thả, quần áo lôi thôi. Cái đẹp lý
tưởng là phải hài hoà về cả nội dung và hình thức.
Vậy khi xem xét và nhận định một vật dụng hay một con người, chúng ta nên dựa trên cơ sở cả về nội dung lẫn hình thức. Hai
mặt này kết hợp và bổ trợ lẫn nhau làm nên giá trị của vật dụng ấy, con người ấy, trong đó nội dung đóng vai trò quan trọng.
Khi đối nhân xử thế, ta cần đề cao đạo đức, tài năng, trí tuệ của con người.
Tóm lại, "tốt gỗ hơn tốt nước sơn" không những sẽ giúp ta một phương châm đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá và chọn
lọc ở đời mà còn cho ta một phương châm trong cách đối nhân xử thế. Không nên chỉ dựa vào những hình thức bề ngoài,
không phải của ta để vỗ ngực tự hào với mọi người mà không chịu tu dưỡng rèn luyện. Cũng không nên quá coi trọng hình
thức bên ngoài mà quên mất cái chân giá trị của con người là đạo đức, trí tuệ và tài năng.
Câu 10: Trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin về " Con người và bản chất của con người", anh (chị) hãy vận dụng để
đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam Sách giáo trình từ trang 447 – 457
Câu 11: Đảng ta đã vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào
trong công cuộc đổi mới đất nước? Sách giáo trình từ trang 292 – 305
Câu 12: Trình bày nội dung, ý nghĩa quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của Lực lượng sản
xuất. Chủ trương phát triển Giáo dục Đào tạo ở nước ta hiện nay là để tập trung phát triển yếu tổ nào trong lực lượng sản xuất? Tại sao?
Nói đến nguồn nhân lực là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia lao động của một quốc gia, bao
gồm thể lực, trí lực và tài lực. Đối với Việt Nam, để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng thì phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm chỉ người lao động có sức khỏe thể chất, tinh thần tốt; có trình độ tay nghề cao,
khả năng lao động giỏi và kỹ năng chuyên môn tốt trong nghề; có những phẩm chất xã hội tốt đẹp, như tinh thần nhân văn,
tập thể, hòa nhập, thích nghi làm việc trong môi trường đa văn hóa... Nguồn nhân lực chất lượng cao có vị trí, vai trò vô cùng
quan trọng trong bối cảnh hiện nay khi đất nước mở cửa, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Điều này thể hiện ở chỗ, nguồn
nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
rút ngắn; rút ngắn khoảng cách tụt hậu đồng thời duy trì tăng trưởng nhanh, bền vững; là yếu tố quyết định đẩy mạnh nghiên
cứu, triển khai ứng dụng khoa học - công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; là động lực chủ yếu
tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức; là điều kiện quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức rõ vai
trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển đất nước, Đảng ta sớm có chủ trương đúng đắn về phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, nhất là từ Đại hội XI trở lại đây.
(Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời gian qua, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đạt được những kết quả nhất
định. Việt Nam đã xây dựng các chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, các chuyên gia, lao động có trình độ chuyên môn cao
bằng các chính sách tiền lương, thưởng, phúc lợi hấp dẫn... Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao đã
được quan tâm. Các tầng lớp doanh nhân giỏi, lao động có trình độ kỹ thuật cao xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, đóng
góp đáng kể cho sự phát triển đất nước. Nhờ đó, trong giai đoạn 2016 - 2020, dù còn nhiều khó khăn, nhưng tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân vẫn đạt khoảng 6%năm. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai lOMoAR cPSD| 60794687
đoạn 2011 - 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 - 2020(6). Tuy nhiên, bên cạnh đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao còn có hạn chế nhất định. Chúng ta còn thiếu những nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quản lý, khoa
học - công nghệ; việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội. Một số sinh viên, kỹ thuật viên
ra trường còn phải đào tạo lại mới đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. Thể lực người lao động còn có bất cập, theo đó,
từ năm 1993 đến năm 2020, chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam chỉ tăng thêm 3cm, thấp hơn chuẩn quốc tế khoảng
10cm và thấp hơn chiều cao trung bình của đa số các nước trong khu vực châu Á(7)... Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá:
“Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; còn nặng về lý thuyết, nhẹ về
thực hành, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và khả năng tự học, kỹ năng sáng tạo”(8). Chính vì
vậy, trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra định hướng tạo đột phá “phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”.)
Câu 13: Trình bày mối quan hệ giữa biện chứng giữa vật chất và ý thức. Nêu ý nghĩa phương pháp luận. Hãy chỉ ra nguyên
nhân sâu xa, hậu quả và phương hướng khắc phục “lối sống thực dụng”. 1. Lý Thuyết Trang 174 - 182 2. Vận dụng -
Nguyên nhân sâu xa của “lối sống thực dụng” là do tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố vật chất mà không thấy được
sự tác động trở lại của ý thức. -
Hậu quả: Coi thường các giá trị tinh thần, tình cảm; sống vô cảm, ích kỷ, không quan tâm đến những người xung
quanh. - Cách khắc phục: Không nên quá đề cao vai trò của vật chất, phải thấy được vai trò quan trọng của yếu tố ý thức, tinh
thần, tình cảm… Tham gia nhiều hơn các hoạt động mang tính chất cộng đồng, Biết quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ nhiều hơn
vơi những người xung quanh.
Câu 14: Trình bày nội dung, ý nghĩa quy luật lượng - chất. Câu thành ngữ “ngựa non háu đá" thể hiện nhận thức không đúng
đắn về quy luật này như thế nào? 1. Lý thuyết Trang 238 – 245 2. Vận dụng
“Ngựa non háu đá" chỉ những người trẻ tuổi thường có tính cách hung hăng, thiếu chín chắn. Cũng dùng để chỉ những người
không có kinh nghiệm nhưng vẫn làm kết quả dẫn đến một bài học nhớ đời.
Đây là một câu thành ngữ rất quen thuộc với chúng ta trong cuộc sống. Những chú ngựa non thường tự tin vào bản thân mình
và thực hiện những điều mình muốn, tiếc là sức của ngựa chưa đủ để làm điều đó. Con người chúng ta đôi khi cũng mong
muốn làm những điều mình chưa đủ sức để làm.
Một vài thành tích nho nhỏ, một vài lời khen có cánh khiến nhiều người rơi vào ảo tưởng, họ cho rằng bản thân của mình rất
giỏi. Thực tế kinh nghiệm thì ít, kỹ năng thiếu trầm trọng nhưng lại bảo thủ không lắng ý kiến đóng góp của bất cứ ai và cái
kết cho những kẻ huênh hoang thường là một bài học nhớ đời.
Không nỗ lực mà đòi thành công. Có rất nhiều bạn trẻ khi thấy người khác thành công, họ cũng muốn nhanh nhanh chóng
chóng trở thành người thành công. Thực tế để thành công, người khác phải trải qua một loạt thử thách mới có thể đi đến được
thành công. Cái mà chúng ta nhìn thấy bên ngoài có vẻ an nhàn, sung sướng của họ chỉ là một phần còn phía sau đó là những
tháng ngày thức đêm dậy sớm thì không phải ai cũng hiểu được.
Đòi hỏi những thứ viển vông, năng lực của bản thân chưa đến nhưng vẫn thích mơ về thành công là thực trạng của rất nhiều
bạn trẻ ngày nay. Nếu muốn thành công mà không phải nỗ lực thì chỉ có thể là đi ngủ và mơ đó mới là cách nhanh nhất.
Thành công không có đường tắt, nếu muốn làm việc lớn bạn phải nhẫn nại.
Sự khác biệt giữa người thành công và kẻ thất bại đó là người thành công luôn biết cách làm cho mình tốt lên mỗi ngày còn
kẻ thất bại chỉ biết than thân trách phận khi gặp khó khăn. Ở bất cứ giai đoạn nào của cuộc đời cũng sẽ có khó khăn nhất định
và quan trọng là chúng ta biết cách đối diện và vượt qua nó. Than vẫn cũng chẳng thể khiến cho khó khăn biến mất, vậy nên
chúng ta hãy tập cách làm quen với khó khăn. Chưa nỗ lực đã bắt đầu đổ lỗi cho số phận, chưa làm đã than vất và, chưa bắt
đầu đã nghĩ về viễn cảnh thất bại. Thực tế không có thành công nào đến dễ dàng, nếu chỉ biết ngồi đó chờ đợi thời điểm thích
hợp đến thì sẽ chẳng thể đi đến đâu.
Không ngừng học hỏi. Mỗi giai đoạn chúng ta sẽ có những nhiệm vụ riêng và bạn sẽ được trải nghiệm nhiều thứ hay ho.
Những người đi trước luôn có nhiều kinh nghiệm, họ sẽ là tiền bối chỉ dẫn và truyền lại kinh nghiệm cho bạn. Thế nên bạn
nhất định phải học hỏi kinh nghiệm từ họ nhé.
Đôi khi một mình bước đi sẽ chính là cách giúp bạn mạnh mẽ tiến về phía trước, khó khăn chỉ là một phần, phần thường đang
đợi bạn ở phía trước. Thế nên đừng nản chỉ vì bạn sẽ không thể biết mình đi đến đâu nếu không bắt đầu đi từ những bước đầu tiên.