MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 2
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................2
3. Nhiệm vụ phương pháp nghiên cu .......................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................... 3
I. TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN ..........................3
1.1. “Đảng cầm quyền” tức là “Đảng nắm chính quyền”, “Đảng lãnh đạo
chính quyền” quyết định bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước .....3
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam một bộ phận của hệ thống chính trị giữ
vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị ...................................................................3
1.3. “Đảng cầm quyền” nhằm phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước
trong quản đất nước ......................................................................................3
1.4. “Đảng cầm quyền” nhưng mọi quyền lực thuộc về nhân dân ................4
1.5. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa
người đầy tớ trung thành của nhân dân ..........................................................4
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN”
TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN
NAY ........................................................................................................................4
2.1. Những mặt hạn chế của Đảng trong phương thức cầm quyền và nguy
cơ đối với Đảng cầm quyền ...............................................................................5
2.2. Vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng cầm quyền”
trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta ......................................6
KẾT LUẬN ............................................................................................... 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 8
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền một bộ phận quan trọng trong
di sản người để lại cho dân tộc ta. tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền giá trị luận thực tiễn cùng to lớn, cần được nghiên cứu, quán
triệt tận dụng sáng tạo trong đổi mới phương thức cầm quyền cảu Đảng ta
hiện nay. Tại Việt Nam, trong thời gian những năm gần đây, đã có nhiều nghiên
cứu về vấn đề này. Một số vấn đề đặt ra đã đạt được kết quả khả quan, tuy
nhiên, có một số vấn đề vẫn cần nghiên cứu và làm rõ thêm. Có thể nói, nghiên
cứu về nội dung, phương thức năng lực cầm quyền của Đảng, tưởng chừng
như mà lại rất mới, tính thời sự, nói khái niệm vĐảng cầm
quyền đã tlâu, không chỉ các nước trên thế giới cả nước ta, nói rất
mới sau gần 80 năm vị thế Đảng cầm quyền, trước mắt chúng ta, vẫn còn
nhiều vấn đề chưa thật sự sáng tỏ, xử còn lúng túng trong luận về đảng
cầm quyền, phương thức cầm quyền của Đảng và cả trong hoạt động thực tiễn
cầm quyền của Đảng.
vậy, cần thiết phải vận dụng ởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền”
trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cu
Hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền như bản chất,
chức năng, nhiệm vụ, hệ thống chính trị, vai trò.
Những chủ trương và quá trình Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng quan
điểm Hồ Chí Minh về Đảng Cầm Quyền trong việc vai trò của Nhà nước trong
việc quản lý đất nước hiện nay.
3. Nhiệm vụ phương pháp nghiên cứu
Nhiệm vụ:
-Làm sáng t nội dung tưởng HChí Minh về Đảng cầm quyền,
-Làm quá trình Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh vào việc đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta hiện nay.
Phương Pp:
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng, kết hợp
chặt chẽ các phương pháp như: phương pháp logic, phuong pháp lịch sử,
phân tích,...
PHẦN NỘI DUNG
I. TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN
1.1. “Đảng cầm quyền” tức “Đảng nắm chính quyền”, “Đảng lãnh đạo
chính quyền” quyết định bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước tất yếu khách quan, bảo đảm cho
Nhà
nước mang bản chất giai cấp công nhân. Do đó, Người luôn suy nghĩ lo
lắng rằng đảng cầm quyền phải làm thế nào để nhân dân thực sự làm chủ, nắm
quyền lực nhà nước. Người luôn đề phòng việc đảng cầm quyền sẽ làm biến chất
đảng viên, nhất người chức quyền, từ đó sẽ làm biến chất Đảng dẫn đến biến
chất Nhà nước. Khi viết Di chúc, thuật ngữ “Đảng cầm quyền” mới chính thức
được Hồ Chí Minh sử dụng phản ánh nhất vai tlãnh đạo của Đảng trong
quá trình cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới - xã hội chủ nghĩa. Đảng cầm
quyền Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đã giành
được chính quyền nay trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước để hoàn thành sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam một bộ phận của hệ thống chính trị giữ vai
trò lãnh đạo hệ thống chính trị
Đảng một bộ phận của hệ thống chính trị, không đứng trên mà đứng trong
hệ thống chính trị ấy. Đảng một bộ phận của hệ thống chính trị, là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc nhưng giữ vai trò lãnh đạo. Đảng phải thực sự gương mẫu
trong việc tuân thủ Hiến pháp pháp luật, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
thông qua Mặt trận Tổ quốc các tchức chính trị - xã hội. Trở thành Đảng cầm
quyền, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng các thành tố còn
lại trong hệ thống chính trị, phát huy tốt vai trò của mình để không mâu thuẫn, kìm
hãm vai trò của các thành tố khác.
1.3. “Đảng cầm quyền” nhằm phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước trong
quản lý đất nước
Người cho rằng, “Đảng cầm quyền” phải phát huy cao nhất vai trò của Nhà
nước với cách bộ máy do nhân dân lập ra nhằm quản lý, điều hành đất nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối phải tuân theo pháp luật.
Đảng tôn trọng Nhà nước cũng nghĩa tôn trọng phát huy quyền làm ch
của nhân dân. Đảng không sao những công việc sự vụ hằng ngày, làm thay công
việc của Nhà nước. Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc hiện tượng lạm quyền,
“Cậy thế mình là người của Đảng, phớt cả kỷ luật và cả cấp trên trong các đoàn thể
nhân dân hoặc quan Chính phủ”[1]. Đảng không chỉ chịu trách nhiệm lãnh đạo
Nhà nước mà còn phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi hoạt động của Nhà
nước. Đảng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thông qua Nhà nước được nhân
dân ủng hộ.
1.4. “Đảng cầm quyền” nhưng mọi quyền lực thuộc về nhân dân
Đảng cầm quyền nhưng dân chủ, dân làm chủ. Đảng người lãnh đạo, còn
mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân người cầm quyền thực sự, “ông
chủ” nắm chính quyền. Chính quyền từ đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến do dân tổ chứcn. Nói tóm lại, quyền hành lực
lượng đều nơi dân. Hồ Chí Minh khẳng định: Chúng ta đã hy sinh làm cách
mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều
lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[2]. Cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp
thi hành nhiệm vụ quản trong bộ máy Nhà nước những người được nhân dân
“ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân.
1.5. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa người lãnh đạo, vừa người
đầy tớ trung thành của nhân dân
Hồ Chí Minh yêu cầu, Đảng cầm quyền thì đảng viên của Đảng phải vừa
người lãnh đạo, vừa người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh: “Dân chủ thế nào? dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng,
thứ trưởng, y viên này khác làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tcho nhân dân chứ
không phải làm quan cách mạng”[3]. Đảng viên phải nhận thấy đây c điều
kiện, hội, sức mạnh để toàn tâm, toàn ý phụng sự cho tưởng của Đảng.
Quyền mà Đảng có được là do dân, nhờ dân và của dân, cho nên cầm quyền không
phải đứng trên dân như cách hiểu của những người trong hội công
bộc thực sự của nhân dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Phải hiểu đầy tớ” theo nghĩa phục vụ hết mình cho
nhân dân, cái lợi cho dân thì hết sức làm, cái hại cho dân thì hết sức
tránh. Phấn đấu, tu dưỡng theo mục tiêu thực sự “đầy tớ” của nhân dân thì mới
biến quyền lực nhà nước thành quyền lực của nhân dân.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN”
TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
2.1. Những mặt hạn chế của Đảng trong phương thức cầm quyền nguy
đối với Đảng cầm quyền
Về mặt hạn chế :
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam người lãnh đạo duy nhất đối
với cách mạng Việt Nam, giữ vững vai trò cầm quyền phát huy tính chủ động,
trách nhiệm của Nhà nước các tổ chức chính trị - hội. Bên cạnh kết quả đạt
được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, luận về Đảng
cầm quyền đến nay chưa đủ về khái niệm, nội dung, hình, phương thức, điều
kiện cầm quyền. Các nguy cần phòng tránh đối với Đảng cầm quyền vẫn chưa
được ý thức đầy đủ. Nhận thức về dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền
còn hạn chế. Đặc biệt “Chưa xác định nội dung phương thức cầm quyền.
Chưa thật sphát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt
động trong các quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trước nhân dân”[4].
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho “Đảng ta chưa thật sự trong sạch,
vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước chế độ”[5]. Một trong những nguyên nhân của những hạn chế, khuyết
điểm do “xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa hội nhập quốc tế vấn đề mới khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết
rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.”[6].
Nguy đối với Đảng cầm quyền:
Sau khi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch
những suy thoái của một số cán bộ, đảng viên và cảnh báo hai nguy cơ đối với một
Đảng cầm quyền: một là, sai lầm về đường lối; hai là, sự suy thoái, biến chất của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội do Đại hội VII của Đảng thông qua (năm 1991), Đảng lại nhấn
mạnh đến hai nguy cơ này và đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của
Đảng (năm 1994), Đảng đã bổ sung thêm xác định 4 nguy đối với Đảng
cách mạng Việt Nam lúc này là: - Nguy tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực trên thế giới, do điểm xuất phát thấp. - Nguy sai
lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nguy cơ về tệ nạn tham
nhũng tệ quan liêu, lãng phí. - Nguy “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch.
Trong 4 nguy đó, hai nguy bên trong rất nguy hại chính chỗ
dựa để cho những nguy từ bên ngoài tấn công vào Đảng. Cụ thể là: - Nguy
sai lầm về đường lối, đi chệch hướng hội chủ nghĩa nguy thể xảy ra bất
cứ lúc nào, đặc biệt khi những biến động lớn trong nước cũng như trên thế
giới trong những bước ngoặt của cách mạng. Tuy nhiên, nguy này chỉ diễn ra
cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, bởi đây cấp hoạch định ra đường lối. vậy,
việc xây dựng một tập thể lãnh đạo cao nhất của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong
mỗi thời kỳ của cách mạng nhiệm vquan trọng hàng đầu của Đảng, bởi nếu
cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng vững vàng, kiên định về đường lối thì một
số cấp lãnh đạo địa phương, cơ sở chệch hướng về điểm này, điểm khác thì
cũng không thể lay chuyển được sự lãnh đạo của Đảng. - Nguy về sự suy thoái,
biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên tệ nạn quan liêu, xa dân, tham nhũng,
lãng phí. Đây nguy nguy hiểm nhất th xảy ra bất cứ lúc nào, bởi vì, khi
Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên trở
thành những cán bộ chức, có quyền trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến
sở. Đây điều kiện dễ làm cho cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, chạy
theo chức, quyền, danh, lợi, dẫn đến phai nhạt tưởng, tham nhũng, xa rời nhân
dân dễ xa vào những tệ nạn khi Đảng chưa giành được chính quyền không
được. Những tệ nạn này không chừa một ai bất k cán bộ đó làm gì, lĩnh
vực nào, ở cấp cao hay thấp, nếu cán bộ đó không kiên trì học tập, tu dưỡng và rèn
luyện đạo đức cách mạng thì đều có thể mc phải.
Trong điều kiện mới hiện nay, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức
lối sống, đặc biệt tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân diễn ra rất tinh vi,
phức tạp ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự suy thoái, biến chất không chỉ
diễn ra riêng lẻ đối với những đảng viên thường, nơi, lúc đã trở thành
số đông tính chất tập thể, thậm chí cả một tổ chức, một cấp uỷ xảy ra đối
với cả một số cán bộ trình độ cao, những người giữ chức vchủ chốt trong
bộ máy của Đảng hoặc quan quản của Nhà nước. Đây nguy “diễn biến
bên trong” đặc biệt nguy hại không thể coi thường. Những nguy mà Hội nghị
đại biểu giữa nhiệm kỳ khVII của Đảng chỉ ra, đến nay vẫn còn nguyên tính
thời sự, không còn nguy nữa đã trở thành những thách thức hiển hiện
trong thực tế và càng ngày càng trở nên bức thiết đối với công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
2.2. Vận dụng hiệu quả tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng cầm quyền” trong
đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta
Thường xuyên đổi mới việc ra nghị quyết, thể chế hóa quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng thành các chính sách, chương trình công tác, pháp luật của
Nhà nước. Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng,
ban hành nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Nghị quyết
phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện
bảo đảm triển khai thực hiện hiệu quả; phân công trách nhiệm tổ chức,
nhân, thời hạn hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị quyết”[7].
Trong quan hệ với Đảng cầm quyền, Nhà nước phải thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng. Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam đã
hàm chứa trong đó tinh thần đường lối, chủ trương của Đảng. Muốn nâng cao năng
lực cầm quyền của Đảng thì phải tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả.
Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới một số nội dung trong công tác tổ chức cán
bộ của Đảng. Đảng trực tiếp chỉ đạo, bố trí cán bộ chủ chốt của Nhà nước. Cấp ủy
giới thiệu để quan nhà nước tiến hành bầu cử hoặc bổ nhiệm, bãi nhiệm theo
Hiến pháp pháp luật. Đảng cần chính sách phát hiện, bồi dưỡng sử dụng
nhân tài. Lựa chọn những cán bộ năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất chính trị
tốt, không bị chi phối bởi lợi ích vật chất hay áp lực gì. chế ưu đãi đặc thù về
vật chất tinh thần để họ yên tâm cống hiến. Phát huy tính tiên phong, gương
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ trong thực hiện nhiệm vụ, còn
phải hướng dẫn, động viên, khích lệ nhân dân làm theo.
Thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu
của Đảng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu tviệc thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng. Hoàn thiện hệ thống pháp
luật, các quy định của Đảng Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, phát
huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân.
Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng, tự phê bình phê
bình. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các
quan quản nhà nước. Đảng viên nêu cao trách nhiệm, tham gia trực tiếp vào
việc hoạch định tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng.
Dân chủ trong Đảng nguồn nội lực to lớn làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh
nhưng phải gắn liền với kỷ cương đphát huy phẩm chất bản lĩnh của mỗi cán
bộ, đảng viên.
Giữ vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính
trị, uy tín của Đảng trước nhân dân. Nhân dân tin đi theo Đảng cũng bởi uy tín,
niềm tin, khả năng thuyết phục bằng đường lối đúng đắn, chất lượng đội ngũ đảng
viên, trí tuệ uy tín của Đảng. Đảng phải không ngừng nâng tầm trí tuệ, phát triển
duy lý luận tổng kết thực tiễn, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí. Đồng
thời phải “Coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, quan nhà nước,
trong hthống chính trị nội dung quan trọng tiếp tục đẩy mạnh học tập
làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh… đổi mới phương pháp,
phong cách, lề lối làm việc của các quan lãnh đạo của Đảng tTrung ương tới
sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng
dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm”[8].
Nâng cao chất lượng ng tác xây dựng hoàn thiện chế giám sát quyền
lực của Đảng. Xây dựng chế để thẩm tra, xác minh những ý kiến phản ánh của
nhân dân để Đảng tự soi lại các chủ trương, chính sách. Mở rộng thực hiện các loại
hình dân chủ trực tiếp, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ sở. Vị thế
vai trò cầm quyền của Đảng được củng cố nâng lên bởi sự gắn mật thiết với
nhân dân. Đảng phải hết lòng, hết sức, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân.
KẾT LUẬN
Vấn đề cầm quyền nội dung, phương thức cầm quyền đã được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh, các đảng cầm quyền, các học giả,
các nhà hoạt động chính trị-thực tiễn trên thế giới trong nước quan tâm, nghiên
cứu. Đối với Đảng ta, vấn đề cầm quyền đặt ra không mới, những lại tính cấp
thiết chính trong tình hình mới, Vấn đề Đảng cầm quyền phương thức cầm
quyền của Đảng còn nhiều nội dung chưa được làm sáng tỏ, về mặt luận chúng
ta vẫn còn lúng túng nhất là về phương thức cầm quyền của Đảng. Đảng cầm
quyền hiện nay phương thức cầm quyền của Đảng được thc hiện như thế nào,
những phương thức cầm quyền như thếo hiện nay, vẫn một bài toán cần
phải giải quyết. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng nền kinh tế thị
trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ XHCN và hội nhập
quốc tế. Công cuộc đổi mới của Đảng tuy đạt những thành tựu to lớn, nhưng cũng
đang đứng trước những nguy cơ, thách thức, liên quan đến việc xây dựng N
nước trong sạch, vững mạnh, quản hiệu quả kinh tế-hội, thực hiện thắng lợi
mục tiêu, đường lối đổi mới của Đảng. Vấn đề đặt ra đối với Đảng phải tránh nguy
cơ, vượt qua thách thức, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện công cuộc đổi
mới thắng lợi, đòi hỏi Đảng phải nâng cao nhận thức luận về vai trò, nội dung,
phương thức, thực hiện cầm quyền, năng lực những điều kiện cầm quyền, để
xây dựng đường lối cầm quyền, đội ngũ cầm quyền, thể chế cầm quyền, kiểm soát
quyền lực,… đảm bảo quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và
hội.
Trong quá trình cầm quyền, việc Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn phương
thức cầm quyền rất quan trọng đối với tiến trình kết quả thực hiện các nội
dung, mục tiêu cầm quyền của Đảng. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan
tâm đến phương pháp, cách thức cầm quyền của Đảng, ngày càng nhận thức hơn
tầm quan trọng của phương thức cầm quyền đối với các vấn đề của đất nước. Tiêu
chí đánh giá phương thức cầm quyền được xác định như: Xem xét phương thức
cầm quyền hợp hay không, tức phù hợp với điều kiện lịch sử hay không;
Phương thức cầm quyền hiệu quả không. Điều này chủ yếu xem phương thức
cầm quyền của Đảng thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ hội hay
không, làm cho quyền lực n nước phát triển theo hướng thống nhất hay
không; Xem xét khiến cho quần chúng nhân dân thỏa mãn hay không,.
thể khẳng định rằng: Phương thức cầm quyền tốt hay không tốt cuối cùng được
quyết định bởi nhân dân hài lòng hay không. Bởi vậy, bất kỳ sự đổi mới phương
thức cầm quyền nào cũng phải lấy lợi ích và ý chí của nhân dân làm cơ sở.
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền hệ thống những quan điểm toàn
diện và sâu sắc về vị trí, vai trò; mục đích, tưởng; nhiệm vụ phương pháp
hoạt động; những thách thức, nguy của Đảng cầm quyền; về mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền nhân dân; Đảng cầm quyền thì đảng viên của Đảng vừa
người lãnh đạo, vừa người đầy tớ trung thành của nhân dân. tưởng Hồ Chí
Minh v“Đảng cầm quyền” mãi mãi cẩm nang thần kphải được giữ gìn
không ngừng phát huy nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của
Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát
triển đất nước nhanh bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa
hội”[9].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 33.
[2]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 292.
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 572.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.197.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.197.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.198.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.216.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.215 - 216.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.CTQG, H.2016, tr.219 - 220.

Preview text:

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 2
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................2
3. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................... 3
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN” ..........................3
1.1. “Đảng cầm quyền” tức là “Đảng nắm chính quyền”, “Đảng lãnh đạo
chính quyền” quyết định bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
.....3
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị và giữ
vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị
...................................................................3
1.3. “Đảng cầm quyền” nhằm phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước
trong quản lý đất nước
......................................................................................3
1.4. “Đảng cầm quyền” nhưng mọi quyền lực thuộc về nhân dân ................4
1.5. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân
..........................................................4
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN”
TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN
NAY
........................................................................................................................4
2.1. Những mặt hạn chế của Đảng trong phương thức cầm quyền và nguy
cơ đối với Đảng cầm quyền
...............................................................................5
2.2. Vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng cầm quyền”
trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta
......................................6
KẾT LUẬN ............................................................................................... 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 8 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là một bộ phận quan trọng trong
di sản mà người để lại cho dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền có giá trị lí luận và thực tiễn vô cùng to lớn, cần được nghiên cứu, quán
triệt và tận dụng sáng tạo trong đổi mới phương thức cầm quyền cảu Đảng ta
hiện nay. Tại Việt Nam, trong thời gian những năm gần đây, đã có nhiều nghiên
cứu về vấn đề này. Một số vấn đề đặt ra đã đạt được kết quả khả quan, tuy
nhiên, có một số vấn đề vẫn cần nghiên cứu và làm rõ thêm. Có thể nói, nghiên
cứu về nội dung, phương thức và năng lực cầm quyền của Đảng, tưởng chừng
như cũ mà lại rất mới, có tính thời sự, nói cũ là vì khái niệm về Đảng cầm
quyền đã có từ lâu, không chỉ ở các nước trên thế giới mà cả ở nước ta, nói rất
mới là vì sau gần 80 năm ở vị thế Đảng cầm quyền, trước mắt chúng ta, vẫn còn
nhiều vấn đề chưa thật sự sáng tỏ, xử lý còn lúng túng trong lý luận về đảng
cầm quyền, phương thức cầm quyền của Đảng và cả trong hoạt động thực tiễn cầm quyền của Đảng.
Vì vậy, cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng cầm quyền”
trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền như bản chất,
chức năng, nhiệm vụ, hệ thống chính trị, vai trò.
Những chủ trương và quá trình Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng quan
điểm Hồ Chí Minh về Đảng Cầm Quyền trong việc vai trò của Nhà nước trong
việc quản lý đất nước hiện nay.
3. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu Nhiệm vụ:
-Làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền,
-Làm rõ quá trình Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh vào việc đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta hiện nay. Phương Pháp:
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng, kết hợp
chặt chẽ các phương pháp như: phương pháp logic, phuong pháp lịch sử, phân tích,... PHẦN NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN”
1.1. “Đảng cầm quyền” tức là “Đảng nắm chính quyền”, “Đảng lãnh đạo
chính quyền” quyết định bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, bảo đảm cho
Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Do đó, Người luôn suy nghĩ và lo
lắng rằng đảng cầm quyền phải làm thế nào để nhân dân thực sự làm chủ, nắm
quyền lực nhà nước. Người luôn đề phòng việc đảng cầm quyền sẽ làm biến chất
đảng viên, nhất là người có chức quyền, từ đó sẽ làm biến chất Đảng dẫn đến biến
chất Nhà nước. Khi viết Di chúc, thuật ngữ “Đảng cầm quyền” mới chính thức
được Hồ Chí Minh sử dụng và phản ánh rõ nhất vai trò lãnh đạo của Đảng trong
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Đảng cầm
quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đã giành
được chính quyền và nay trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước để hoàn thành sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị và giữ vai
trò lãnh đạo hệ thống chính trị

Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, không đứng trên mà là đứng trong
hệ thống chính trị ấy. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc nhưng giữ vai trò lãnh đạo. Đảng phải thực sự gương mẫu
trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trở thành Đảng cầm
quyền, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và các thành tố còn
lại trong hệ thống chính trị, phát huy tốt vai trò của mình để không mâu thuẫn, kìm
hãm vai trò của các thành tố khác.
1.3. “Đảng cầm quyền” nhằm phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước trong quản lý đất nước
Người cho rằng, “Đảng cầm quyền” phải phát huy cao nhất vai trò của Nhà
nước với tư cách bộ máy do nhân dân lập ra nhằm quản lý, điều hành đất nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối và phải tuân theo pháp luật.
Đảng tôn trọng Nhà nước cũng có nghĩa là tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Đảng không sa vào những công việc sự vụ hằng ngày, làm thay công
việc của Nhà nước. Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc hiện tượng lạm quyền,
“Cậy thế mình là người của Đảng, phớt cả kỷ luật và cả cấp trên trong các đoàn thể
nhân dân hoặc cơ quan Chính phủ”[1]. Đảng không chỉ chịu trách nhiệm lãnh đạo
Nhà nước mà còn phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi hoạt động của Nhà
nước. Đảng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thông qua Nhà nước và được nhân dân ủng hộ.
1.4. “Đảng cầm quyền” nhưng mọi quyền lực thuộc về nhân dân
Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ, dân làm chủ. Đảng là người lãnh đạo, còn
mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là người cầm quyền thực sự, là “ông
chủ” nắm chính quyền. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách
mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều
lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[2]. Cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp
thi hành nhiệm vụ quản lý trong bộ máy Nhà nước là những người được nhân dân
“ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân.
1.5. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ trung thành của nhân dân

Hồ Chí Minh yêu cầu, Đảng cầm quyền thì đảng viên của Đảng phải vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng,
thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân chứ
không phải làm quan cách mạng”[3]. Đảng viên phải nhận thấy đây là lúc có điều
kiện, cơ hội, sức mạnh để toàn tâm, toàn ý phụng sự cho lý tưởng của Đảng.
Quyền mà Đảng có được là do dân, nhờ dân và của dân, cho nên cầm quyền không
phải là đứng trên dân như cách hiểu của những người trong xã hội cũ mà là công
bộc thực sự của nhân dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Phải hiểu “đầy tớ” theo nghĩa là phục vụ hết mình cho
nhân dân, cái gì có lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì có hại cho dân thì hết sức
tránh. Phấn đấu, tu dưỡng theo mục tiêu thực sự là “đầy tớ” của nhân dân thì mới
biến quyền lực nhà nước thành quyền lực của nhân dân.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN”
TRONG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
2.1. Những mặt hạn chế của Đảng trong phương thức cầm quyền và nguy cơ
đối với Đảng cầm quyền
Về mặt hạn chế :
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất đối
với cách mạng Việt Nam, giữ vững vai trò cầm quyền và phát huy tính chủ động,
trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Bên cạnh kết quả đạt
được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, lý luận về Đảng
cầm quyền đến nay chưa đủ rõ về khái niệm, nội dung, mô hình, phương thức, điều
kiện cầm quyền. Các nguy cơ cần phòng tránh đối với Đảng cầm quyền vẫn chưa
được ý thức đầy đủ. Nhận thức về dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền
còn hạn chế. Đặc biệt là “Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền.
Chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt
động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trước nhân dân”[4].
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho “Đảng ta chưa thật sự trong sạch,
vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ”[5]. Một trong những nguyên nhân của những hạn chế, khuyết
điểm là do “xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết
rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.”[6].
Nguy cơ đối với Đảng cầm quyền:
Sau khi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ
những suy thoái của một số cán bộ, đảng viên và cảnh báo hai nguy cơ đối với một
Đảng cầm quyền: một là, sai lầm về đường lối; hai là, sự suy thoái, biến chất của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua (năm 1991), Đảng lại nhấn
mạnh đến hai nguy cơ này và đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của
Đảng (năm 1994), Đảng đã bổ sung thêm và xác định có 4 nguy cơ đối với Đảng
và cách mạng Việt Nam lúc này là: - Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp. - Nguy cơ sai
lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nguy cơ về tệ nạn tham
nhũng và tệ quan liêu, lãng phí. - Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Trong 4 nguy cơ đó, có hai nguy cơ bên trong rất nguy hại và nó chính là chỗ
dựa để cho những nguy cơ từ bên ngoài tấn công vào Đảng. Cụ thể là: - Nguy cơ
sai lầm về đường lối, đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa là nguy cơ có thể xảy ra bất
cứ lúc nào, đặc biệt là khi có những biến động lớn ở trong nước cũng như trên thế
giới và trong những bước ngoặt của cách mạng. Tuy nhiên, nguy cơ này chỉ diễn ra
ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, bởi đây là cấp hoạch định ra đường lối. Vì vậy,
việc xây dựng một tập thể lãnh đạo cao nhất của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong
mỗi thời kỳ của cách mạng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, bởi vì nếu
cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng vững vàng, kiên định về đường lối thì dù có một
số cấp lãnh đạo ở địa phương, cơ sở có chệch hướng về điểm này, điểm khác thì
cũng không thể lay chuyển được sự lãnh đạo của Đảng. - Nguy cơ về sự suy thoái,
biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ nạn quan liêu, xa dân, tham nhũng,
lãng phí. Đây là nguy cơ nguy hiểm nhất và có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bởi vì, khi
Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên trở
thành những cán bộ có chức, có quyền trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến
cơ sở. Đây là điều kiện dễ làm cho cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, chạy
theo chức, quyền, danh, lợi, dẫn đến phai nhạt lý tưởng, tham nhũng, xa rời nhân
dân và dễ xa vào những tệ nạn mà khi Đảng chưa giành được chính quyền không
có được. Những tệ nạn này không chừa một ai và bất kỳ cán bộ đó làm gì, ở lĩnh
vực nào, ở cấp cao hay thấp, nếu cán bộ đó không kiên trì học tập, tu dưỡng và rèn
luyện đạo đức cách mạng thì đều có thể mắc phải.
Trong điều kiện mới hiện nay, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức
lối sống, đặc biệt là tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân diễn ra rất tinh vi,
phức tạp và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự suy thoái, biến chất không chỉ
diễn ra riêng lẻ và đối với những đảng viên thường, mà có nơi, có lúc đã trở thành
số đông có tính chất tập thể, thậm chí có cả một tổ chức, một cấp uỷ và xảy ra đối
với cả một số cán bộ có trình độ cao, có những người giữ chức vụ chủ chốt trong
bộ máy của Đảng hoặc cơ quan quản lý của Nhà nước. Đây là nguy cơ “diễn biến
bên trong” đặc biệt nguy hại không thể coi thường. Những nguy cơ mà Hội nghị
đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng chỉ ra, đến nay vẫn còn nguyên tính
thời sự, nó không còn là nguy cơ nữa mà đã trở thành những thách thức hiển hiện
trong thực tế và càng ngày càng trở nên bức thiết đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
2.2. Vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng cầm quyền” trong
đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta

Thường xuyên đổi mới việc ra nghị quyết, thể chế hóa quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng thành các chính sách, chương trình công tác, pháp luật của
Nhà nước. Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng,
ban hành nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Nghị quyết
phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện
bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá
nhân, thời hạn hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị quyết”[7].
Trong quan hệ với Đảng cầm quyền, Nhà nước phải thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
hàm chứa trong đó tinh thần đường lối, chủ trương của Đảng. Muốn nâng cao năng
lực cầm quyền của Đảng thì phải tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả.
Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới một số nội dung trong công tác tổ chức cán
bộ của Đảng. Đảng trực tiếp chỉ đạo, bố trí cán bộ chủ chốt của Nhà nước. Cấp ủy
giới thiệu để cơ quan nhà nước tiến hành bầu cử hoặc bổ nhiệm, bãi nhiệm theo
Hiến pháp và pháp luật. Đảng cần có chính sách phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng
nhân tài. Lựa chọn những cán bộ có năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất chính trị
tốt, không bị chi phối bởi lợi ích vật chất hay áp lực gì. Có cơ chế ưu đãi đặc thù về
vật chất và tinh thần để họ yên tâm cống hiến. Phát huy tính tiên phong, gương
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ trong thực hiện nhiệm vụ, mà còn
phải hướng dẫn, động viên, khích lệ nhân dân làm theo.
Thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu từ việc thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng. Hoàn thiện hệ thống pháp
luật, các quy định của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, phát
huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng, tự phê bình và phê
bình. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các
cơ quan quản lý nhà nước. Đảng viên nêu cao trách nhiệm, tham gia trực tiếp vào
việc hoạch định và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng.
Dân chủ trong Đảng là nguồn nội lực to lớn làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh
nhưng phải gắn liền với kỷ cương để phát huy phẩm chất và bản lĩnh của mỗi cán bộ, đảng viên.
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính
trị, uy tín của Đảng trước nhân dân. Nhân dân tin và đi theo Đảng cũng bởi uy tín,
niềm tin, khả năng thuyết phục bằng đường lối đúng đắn, chất lượng đội ngũ đảng
viên, trí tuệ và uy tín của Đảng. Đảng phải không ngừng nâng tầm trí tuệ, phát triển
tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí. Đồng
thời phải “Coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,
trong hệ thống chính trị mà nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh… đổi mới phương pháp,
phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới
cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng
dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm”[8].
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền
lực của Đảng. Xây dựng cơ chế để thẩm tra, xác minh những ý kiến phản ánh của
nhân dân để Đảng tự soi lại các chủ trương, chính sách. Mở rộng thực hiện các loại
hình dân chủ trực tiếp, thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Vị thế và
vai trò cầm quyền của Đảng được củng cố và nâng lên bởi sự gắn bó mật thiết với
nhân dân. Đảng phải hết lòng, hết sức, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. KẾT LUẬN
Vấn đề cầm quyền và nội dung, phương thức cầm quyền đã được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh, các đảng cầm quyền, các học giả,
các nhà hoạt động chính trị-thực tiễn trên thế giới và trong nước quan tâm, nghiên
cứu. Đối với Đảng ta, vấn đề cầm quyền đặt ra không mới, những lại có tính cấp
thiết chính trong tình hình mới, Vấn đề Đảng cầm quyền và phương thức cầm
quyền của Đảng còn nhiều nội dung chưa được làm sáng tỏ, về mặt lý luận chúng
ta vẫn còn lúng túng và nhất là về phương thức cầm quyền của Đảng. Đảng cầm
quyền và hiện nay phương thức cầm quyền của Đảng được thực hiện như thế nào,
có những phương thức cầm quyền như thế nào hiện nay, … vẫn là một bài toán cần
phải giải quyết. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng nền kinh tế thị
trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ XHCN và hội nhập
quốc tế. Công cuộc đổi mới của Đảng tuy đạt những thành tựu to lớn, nhưng cũng
đang đứng trước những nguy cơ, thách thức, liên quan đến việc xây dựng Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, quản lý hiệu quả kinh tế-xã hội, thực hiện thắng lợi
mục tiêu, đường lối đổi mới của Đảng. Vấn đề đặt ra đối với Đảng phải tránh nguy
cơ, vượt qua thách thức, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện công cuộc đổi
mới thắng lợi, đòi hỏi Đảng phải nâng cao nhận thức lý luận về vai trò, nội dung,
phương thức, thực hiện cầm quyền, năng lực và những điều kiện cầm quyền, để
xây dựng đường lối cầm quyền, đội ngũ cầm quyền, thể chế cầm quyền, kiểm soát
quyền lực,… đảm bảo quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Trong quá trình cầm quyền, việc Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn phương
thức cầm quyền là rất quan trọng đối với tiến trình và kết quả thực hiện các nội
dung, mục tiêu cầm quyền của Đảng. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan
tâm đến phương pháp, cách thức cầm quyền của Đảng, ngày càng nhận thức rõ hơn
tầm quan trọng của phương thức cầm quyền đối với các vấn đề của đất nước. Tiêu
chí đánh giá phương thức cầm quyền được xác định như: Xem xét phương thức
cầm quyền có hợp lý hay không, tức là có phù hợp với điều kiện lịch sử hay không;
Phương thức cầm quyền có hiệu quả không. Điều này chủ yếu xem phương thức
cầm quyền của Đảng có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội hay
không, có làm cho quyền lực nhà nước phát triển theo hướng thống nhất hay
không; Xem xét nó có khiến cho quần chúng nhân dân thỏa mãn hay không,. Có
thể khẳng định rằng: Phương thức cầm quyền tốt hay không tốt cuối cùng được
quyết định bởi nhân dân có hài lòng hay không. Bởi vậy, bất kỳ sự đổi mới phương
thức cầm quyền nào cũng phải lấy lợi ích và ý chí của nhân dân làm cơ sở.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là hệ thống những quan điểm toàn
diện và sâu sắc về vị trí, vai trò; mục đích, lý tưởng; nhiệm vụ và phương pháp
hoạt động; những thách thức, nguy cơ của Đảng cầm quyền; về mối quan hệ giữa
Đảng cầm quyền và nhân dân; Đảng cầm quyền thì đảng viên của Đảng vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về “Đảng cầm quyền” mãi mãi là cẩm nang thần kỳ phải được giữ gìn và
không ngừng phát huy nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát
triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”[9].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 33.
[2]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 292.
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 572.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.197.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.197.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016, tr.198.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.216.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.215 - 216.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.CTQG, H.2016, tr.219 - 220.