Tưởng Hồ Chí Minh” môn học với nội dung kiến thức liên
quan đến tư tưởng, đường lối, chính sách cách mạng qua các giai đoạn
trong phong trào cách mạng của Hồ Chí Minh.
“Tư Tưởng Hồ Chí Minh” một hệ thống quan điểm, đường lối của
Người được Đảng cộng Sản Việt Nam tổng kết, hệ thống a. Hệ thống này
bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội ch
nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể
Việt Nam.
Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh nhận định tưởng Hồ Chí Minh
là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư
tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng Marx-Lenin, tư tưởng văn hóa phương
Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cao đẹp của Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa Mac-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của
cách mạng Việt Nam; luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập
làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất cả các tầng lớp xã hội.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài:
Trong xã hội ngày một hiện đại như ngày nay. Vấn đề độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa hội đã trở thành một niềm khao khát phổ biến
trong toàn nhân loại. Nó góp phần trong các mối quan hệ ngoại giao
trong và ngoài nước, trong vấn đề kinh tế, giáo dục, chính trị, quốc
phòng... Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã góp
phần thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước, trong đó có
Việt Nam. Từ đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng kinh nghiệm, bài học từ
cuộc cách mạng đó để đưa vào đường lối, cách mạng giải phóng dân
tộc của Việt Nam. Từ tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên
cả nước, tiến tới độc lập dân tộc. Những giá trị cốt lõi trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc cho đến nay vẫn còn nguyên
vẹn giá trị, vận dụng nó vào đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bởi
vậy, việc vận dụng tưởng Hồ Chí vào vấn đề độc lập dân tộc mang ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng , bảo vệ Tổ quốc lúc bấy
giờ.
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cu:
a. Mục đích:
Nghiên cứu đềi để làm tưởng Hồ Chí Minh vào vấn đề
độc lập dân tộc dồng thời thấy được vai trò của tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc trong việc vận dụng vào công việc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam hiện nay.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, chỉ ra phân tích sở hình thành tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phân tích nội dung của tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ba là, làm những giá trị của tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
NỘI DUNG
I. SỞ HÌNH THÀNH DUNG TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI
VẤN ĐỀ DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. sở luận
Một là, trước khi tiếp cận chủ nghĩa Mac-Lênin, Hồ Chí Minh
đã tiếp cận với nhiều nền tư tưởng dân chủ tư sản như ở các nước
Pháp, Mỹ: các tưởng tự do, bác ái, bình đẳng đã tác động mạnh mẽ
đến Hồ Chí Minh. Chính Người đã từng nói: “ năm trạc 13 tuổi, lần
đầu tiên tôi nghe những từ tự do, bình đẳng, bác ái... thế là tôi muốn
tìm hiểu văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau ấy”.
Hồ Chí Minh đã từng nhắc đến bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ
(1776) và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư
sản Pháp (1791) về quyền bình đẳng: tất cả mọi người sinh ra đều
quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của cách mạng tư sản Pháp cũng chỉ rõ: “ Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về
quyền lợi”.
Hai là, tư tưởng tiểu tư sản như chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.
Ba là, chủ nghĩa Mac-Lênin là nhân tố quyết định ảnh hưởng
trực tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh. chính sở hình thành nên
thế giới quan và phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Nhờ có thế giới
quan phương pháp luận của ch nghĩa Mac-Lênin Hồ Chí Minh
đã vận dụng và tiếp thu chuyển tiếp những nhân tố ch cực và tiến bộ
của truyền thống dân tộc trở thành tưởng, văn hóa nhân loại để tạo
nên hệ thống tư tưởng của nước mình.
2. sở thực tiễn
Một , xuất phát từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thực dân
Pháp tiến hành xâm lược, chiếm nước ta và biến đất nước ta trở
thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Lúc đó, chính quyền b
nước ta bị lu mờ, bạc nhược chỉ nghỉ đến lợi ích cá nhân, lợi ích gia
tộc nên đã lí hoàn loạt các hiệp ước vô nghĩa. Dẫn đến các phong
trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản
được dấy lên nhưng đều bị thất hại. Dân tộc Việt Nam đứng trước
tình trạng khó khăn, khủng hoảng tế tắc về đường lối cứu nước.
Hai là, xuất phát từ lòng yêu nước Hồ Chí Minh đã ra đi tìm
đường cứu nước (1911-1920). Trải qua gần 10 năm đầy gian truân và
thửu thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp châu lục khảo sát nhiều nước
thuộc địa cũng như nhiều nước bản như Anh, Pháp,Mỹ... Khảo sát
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cuộc cách mạng tư
sản Mỹ, cách mạng tư sản Pháp và người đã hoạt động cách mạng
với những nước thuộc địa Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh đã rút ra được
bài học “ muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể tự trông cậy
vào mình”.
Ba là, xuất phát từ xu thế thời đại, đó là thời đại quá độ từ ch
nghĩa bảnn chủ nghĩa hội trên phạm vi toàn thế giới được tác
động từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga ảnh hưởng sâu sắc đến tư
duy của Người về mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam,
nhất là khi Người được tiếp cận với luận cương chủ nghĩa Mac-
Lênin về vấn đề dân tộc, thuộc địa. Việc Nguyễn Ái Quốc tham gia
vào xây dựng Đảng cộng sản Pháp tại đại hội Tua (12/1920) đã đánh
dấu cột mốc quan trọng của Người trong cuộc đời hoạt động cách
mạng, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mac-Lênin, từ người yêu
nước trở thành người cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy được
con đường giải phóng dân tộc của mình. Người khẳng định: “ Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
II. NỘI DUNG BẢN CỦA TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CH NGHĨA XÃ HỘI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc chủ nghĩa
hội
1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể hiện
qua các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, độc lập dân tộc phải là dộc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia toàn vẹnnh thổ , kinh tế,
chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Quyền độc lập lập dân
tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm.
Với một người dân mất nước, cái mà họ cho rằng quý nhất trên
cuộc đời là độc lập tổ quốc, tự do con người. Như Hồ Chí Minh
cũng đã nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được
tự do, Tổ quốc tôi được độc lập,,,”. Không quý hơn độc lập
tự do” đây một chân bất hủ, luôn giá trị mọi thời đại của
Người Hồ Chí Minh.
Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi việc liên quan đến
nước Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân dân
Việt Nam không chấp nhận sự can thiệp của bất cứ nước nào.
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc quyền thiêng liêng nhất, cho
phải hy sinh tính mạng vẫn phải bảo vệ giữ vững quyền độc
lập ấy.
Thứ hai, quyền độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩahội.
Đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự do cho dân tộc là mục
tiêu, khát vọng của dân tộc Việt Nam Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
những mục tiêu, khát vọng đó muốn thật sự có được là chỉ khi nó
mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc phồn vinh cho nhân dân.
Sau cuộc cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi dưới sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản đã mở ra mt thời đại mới – thời đại
quá độ tiếng lên chủ nghĩa hội. Từ sự kiện đó, Hồ Chí Minh đã
sáng suốt xác định mục tiêu của con đường đấu tranh vì quyền
độc lập, tự do của dân tộc là tiến lên chủa nghĩa xã hội, có nghĩa
là phải gắn chủa nghĩa xã hội với độc lập dân tộc. “Chỉ chủ
nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, giành lại quyền độc lập, tự do cho dân
tộc chỉ là cơ sở tiền đề, cơ sở vững chắc để tiến lên chủ nghĩa
hội, để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Để thực hiện hóa điều đó, Người nhấn mạnh: “ Chúng ta
phải thực hiện ngay: 1- Làm cho dân có ăn. 2- Làm cho dân có
mặc. 3- Làm cho dân có chỗ ở. 4- Làm cho dân có học hành. Cái
mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do độc lập giúp sức được cho tự do độc lập”.
Thứ ba, giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện
ở các quyền tự do và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng.
“Nếu nước được độc lập, dân không được hưởng hạnh phúc,
tự do thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”. Độc lập phải được đặc
trong khôi thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ các dân tộc,
các miền Tổ quốc, giữa các dân tộc đồng bào và tất cả giai cấp,
tầng lớp nhân dân yêu ớc, đồng bào trong nước kiềuo
ngoài nước.
Thứ tư, độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính.
Hồ Chí Minh là người đi đầu , chủ động tích cực bày tỏ ước
vọng tìm mọi giải pháp cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình, hết sức
tránh xảy ra xung đột, tránh chiến tranh. Hồ Chí Minh cùng trung
ương Đảng đã kí hiệp định sơ bộ ngày 6-3, chính Người ký tạm
ước 14-9 với chính phủ Pháp với mong muốn giải quyết các cuộc
tranh chấp bằng phương pháp đấu tranh hòa bình.
Khi thực dân Pháp khiêu chiến gây xung đột với nước ta, Hồ
Chí Minh đã kêu gọi nhân dân trước hết làm theo những thi hành
trong tạm ước. Đồng thời Người cũng kêu gọi những Người Pháp
vì lợi ích dân tộc Việt – Pháp mà chấm dứt những hành động
khiêu chiến. Khi chiến tranh nổ ra trên cơ s kiên quyết chiến đến
cùng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh luôn tỏ ra mong
muốn sẵn sàng đàm phán với Pháp để kết thúc cuc chiến tranh,
lập lại hòa bình, tránh làm tổn hại đến người và của, tránh đổ
xương máu trên cả hai dân tộc.
1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa hội
Quan niệm ca Hồ Chí Minh về những đặc trưng về chủ nghĩa
xã hội bao gồm những vấn đề sau:
Một là, nhà nước chủ nghĩa hội nhà nước do nhân dân làm
chủ, nhà nước phải phát huy đúng đắn để phát huy tính tích cực
và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
hội.
Hai là, chủ nghĩa hội công bằng hợp lí, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không ởng, các dân tộc bình
đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
nền sản xuất hiện đạo cao chế độ sản xuấtng hữu liệu chủ
yếu. Nhằm nâng cao đời sống lao động, cơ sở vật chất cho nhân
dân, đặc biệt là nhân dân lao động.
Bốn là, chủ nghĩa xẫ hội một hội phát triển cao về văn hóa
đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh
em, là con người được giải phóng khỏi áp bức, bốc lột, có cuộc
sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát
triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Năm là, chủ nghĩa hội công trình sẵn của nhân dân, do
dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại, mối quan hệ của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biến chứng với nhau,
gắn liền với nhau, phản ánh mối quan hệ cách mạng không ngừng
phát triển. Hồ Chí Minh ng đã khẳng định trong ơng lĩnh đầu
tiên ca Đảng: Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách mạng thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” nhằm “đánh đổ để quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” , “làm cho nước Nam hoàn
toàn độc lập”, “dựng ra chính phủ công nông binh” để đi lên chủ
nghĩa xã hội.
2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc chủ nghĩa hội trong
tưởng Hồ Chí Minh
2.1 Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc tiếnn chủ nghĩa xa hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trên hết, trước
hết, là sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa hội. Theo Người, con
đường cách mạng của Việt Nam có 2 con đường chính: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cách mạng hội chủ nghĩa.
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục
tiêu cấp bách, trên hết.
Theo Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội
dung dân tộc dân chủ. Đó là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn, chứ không phải thứ độc lập giả hiệu, độc lập nữa vời, độc
lập hình thức. Vì thế độc lập dân tộc là thứ gì đó rất thiêng liêng,
cao cả; là khát vọng mang tính mang tính phổ biến với toàn nhân
loại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; độc lập
dân tộc bao giờ cũng gắn liền với tự do, ấm no, hạnh phúc của
nhân dân lao động.
Với Hồ Chí Minh để đảm bảo độc lập dân tộc, để không bị rơi
vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu chặng đường tiếp theo chỉ có đi
lên chủ nghĩa hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc
khỏi ách nô lệ, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo cho nền độc
lập thực sự, chân chính”.
2.2 điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội
Hồ Chí Minh khẳng định điều kiện cơ bản để gắn liền độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội là xác lập, tăng cường vai trò lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng Sản. Không có Đảng Cộng
Sản thì sự nghiệp cách mạng Việt Nam không thể theo con đường
cách mạng vô sản được và chắc chắn rằng sẽ đi vào vết xe đổ của
các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của Đảng Cộng Sản mang tính
khách quan. Để hoàn thành được sứ mệnh của mình thì phải xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để
nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ để vượt qua
được thử thách gay gắt nhất. Đảng phảiy dựng, cũng cố ng
cường khối liên minh công - nông và trí thức làm nền tảng cho
khối đại đoàn kết dân tộc. Ngườic định công ng gốc,
chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu
bạn của cách mạng.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với ch nghĩa hội yếu tố
khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hóa khi gắn liền
với những điều kiện đảm bảo, trong đó quan trọng nhất là việc
xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
2.3 Hiện thực trên thực tế tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với ch
nghĩa xã hội được thể hiện qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1930 1945:
Ở giai đoạn này, độc lập dân tộc được xem là nhiệm v
trọng tâm trước mắt, đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội
dung chủ đạo và được tiến hành theo lập trường của giai cấp
vô sản; mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là
phương hướng tiến lên và thực hiện mục tiêu đó. Đường lối
giương cao ngọn cờ dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội giai
đoạn này được thể hiện qua Chánh cương vắn tắt của Đảng
được thông qua tại đại hội Đảng xác định rõ con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng đã hàm chứa nội dung phương
hướng để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh xác định tính chất của cách mạng Việt Nam
là con đường cách mạng vô sản; xác định đối tượng đấu tranh
là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản và
tầng lớp địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực
lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm
công nhân, nông dân và tầng lớp tiểu tư sản..., trong đó tầng
lớp quan trọng là khối liên minh công -nông, tập hợp dưới
ngọn cờ giải phóng dân tộc do Đảng là của tầng lớp công nhân
lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng dân tộc Việt Nam là
cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăn khít với cách
mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có
tính chủ động, thể giành thắng lợi trước cách mạng sản
“chính quốc”, tác động tính tích cực đến cách mạng “chính
quốc’.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, cách mạng
Tháng Tám (1945) đã giành thắng lợi. Đó thắng lợi đầu tiên
của tư tưởng Hồ chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ
nguyên thời kỳ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1945 1954:
Đây là thời kì bảo vệ độc lập và xây dựng tiền đề những
sở đầu tiên của chủ nghĩa hội, thực hiện “kháng chiến và
kiến quốc”; Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những
quan điểm lý luận của con đường cách mạng Việt Nam. Để
thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan
điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự ờng đi
đôi ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Đường lối
phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi
đôi với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng
từng bước chế độ mới. Đây là nguyên nhân quyết định thắng
lợi của cuộc đấu tranh xâm lược của Pháp.
Giai đoạn 1945 1975:
thời kỳ này, sáng tạo luận của Hồ Chí Minh thể hiện
tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam, thống nhất cả nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa hội.
Trong mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, người xác định
rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của cách mạng từng miền và tác
động, hỗ trợ lẫn nhau giữa cách mạng hai miền. Đây thể hiện
hóa con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội – con đường
mà Hồ Chí Minh đã ra sức bảo vệ và kiên trì phát triển.
Hồ Chí Minh tiếp tục xác định kẻ thù tiếp theo mà dân
tộc ta phải tập trung đánh đổ chính là đế quốc Mỹ. Về tập hợp
lực lượng, Hồ Chí Minh những quan niệm cách làm sáng
tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại
đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho
cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng Mặt
trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chng Mỹ, cứu
nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ.
Sức mạnh của “ba tầng Mặt trận” đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp to lớn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống M
cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn
chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa hội nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh ch nghĩa
xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng
tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh
đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính ph
biến tính đặc thù của công cuộcy dựng chủ nghĩa hội
trong phạm vi một nước.
Giai đoạn sau 1975:
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống
nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định:
“Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một
nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng
ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh,
là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi
mới: “Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập,
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai
sau”.
Thực tiễn đó chỉ ra rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán và đúng đắn
của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân
dân ta trong 91 năm qua. Hiện tại, dù còn nhiều khó khăn,
nhưng Ðảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và ch
nghĩa xã hội, vì đó là con đường đúng đắn, là quy luật và xu
thế phát triển tất yếu của thời đại; điều kiện bảo đảm để dân
tộc thực sự độc lập, nhân dân cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc; mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh trở thành hiện thực.
3. Vận dụng tưởng Hồ Chí Minh vào vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay
Bàn về vấn đề chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã có một hệ
thống quan điểm về các vấn đề: kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,
con người. Những quan điểm đó đều thể hiền các mặt của chủ nghĩa
xã hội.
3.1 Đặc trưng về bn cht chủ nghĩa hội
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu liệu sản xuấtc chủ yếu.
Nhằm không ngừng nâng cao đời sống, sở vật chất tinh thần cho
nhân dân, trên hết là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ.
Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động
được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa hội. Chủ nghĩa hội công trình tập thể của nhân dân,
do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo
đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và
tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết khả năng sẵn
có của mình; xã hội công bằng hợp lý, thực hiện chế độ phân phối
theo lao động ( làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì
không hưởng, trừ các đối tượng già cả, neo đơn, đối tượng trẻ em và
các đối tượng chính sách); Chủ nghĩa xã hội có quan hệ bình đẳng
giữa các dân tộc trong nước, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền
xuôi; Quan hệ hòa bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
3.2 Chủ nghĩa hội áp dụng vào thực tế ngày nay
Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống
phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến
hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá
hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản
chất khoa học, cách mạng nền tảng tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của của Đảng và thành tựu ca sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Trước tình hình
trên, Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn và định hướng phát
triển đất nước trong những mốc lịch sử quan trọng:
Một là, đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phấn đấu trở thành nước
đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập trung bình thấp. Đảng ta đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu về
phát triển kinh tế - hội 5, năm 2021 - 2025, trong đó: “Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm
2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD”.
Hai là, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt
Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 -
2030, Đảng ta xác định 12 định hướng trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó về lĩnh vực kinh tế là: “Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ
mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng…; nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Ba là, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam
Dân ch Cộng hòa, nay nước Cộng hòa hội ch nghĩa Việt Nam,
Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao: “Khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành
một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để đạt được mục tiêu trên, cần thực hiện tốt những giải pháp
bản:
Một là, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ
nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với
các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ
nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp
và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập
quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt
tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo xử một
cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ,
đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi
lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng
củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các
nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công
hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối,
bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền
vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển,
trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết nguồn nhân lực
chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả v
kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 - 338).
Ba , về hội, tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững,
nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác,
nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trước hết cán bộ lãnh đạo, quản các cấp,
thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm
làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch,
vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bốn là, cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa
xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề
đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử
thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài,
không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương,
đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy
mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của Nhân
dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện
đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu,
nguyện vọng của mình. Sức mạnh Nhân dân cội nguồn sâu xa của
thắng lợi, của phát triển.
Năm là, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương
hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực
tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham
khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới thời đại. Trong thế giới
toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mi quốc gia - dân tộc
không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới
thời đại, của thời cuộc và cục diện ca nó. Chính vì vậy, chúng ta
phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển, đa phương hoá,
đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập ch
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Sáu là, phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư
tưởng lý luận ca chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và
cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính
khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những
người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát
triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực
tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách
có chọn lọc trên tinh thần phê phán và ng tạo những thành tựu mới
nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta
luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi
thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc
sống.
III. KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường
cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc
của dân tộc và khát vọng ca quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự
do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách
thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư
tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, ớc nhà Bắc Nam thống
nhất vầ ngày nay, đó nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một
hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh.

Preview text:

Tư Tưởng Hồ Chí Minh” là môn học với nội dung kiến thức liên
quan đến tư tưởng, đường lối, chính sách cách mạng qua các giai đoạn
trong phong trào cách mạng của Hồ Chí Minh.
“Tư Tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm, đường lối của
Người được Đảng cộng Sản Việt Nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống này
bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh
là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư
tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng Marx-Lenin, tư tưởng văn hóa phương
Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cao đẹp của Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa Mac-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của
cách mạng Việt Nam; luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và
làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất cả các tầng lớp xã hội. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài:
Trong xã hội ngày một hiện đại như ngày nay. Vấn đề độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành một niềm khao khát phổ biến
trong toàn nhân loại. Nó góp phần trong các mối quan hệ ngoại giao
trong và ngoài nước, trong vấn đề kinh tế, giáo dục, chính trị, quốc
phòng... Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã góp
phần thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước, trong đó có
Việt Nam. Từ đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng kinh nghiệm, bài học từ
cuộc cách mạng đó để đưa vào đường lối, cách mạng giải phóng dân
tộc của Việt Nam. Từ tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên
cả nước, tiến tới độc lập dân tộc. Những giá trị cốt lõi trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc cho đến nay vẫn còn nguyên
vẹn giá trị, vận dụng nó vào đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bởi
vậy, việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí vào vấn đề độc lập dân tộc mang ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng , bảo vệ Tổ quốc lúc bấy giờ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: a. Mục đích:
Nghiên cứu đề tài để làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh vào vấn đề
độc lập dân tộc dồng thời thấy được vai trò của tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc trong việc vận dụng vào công việc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam hiện nay.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, chỉ ra và phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phân tích nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ba là, làm rõ những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI
VẤN ĐỀ DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Cơ sở lý luận
Một là, trước khi tiếp cận chủ nghĩa Mac-Lênin, Hồ Chí Minh
đã tiếp cận với nhiều nền tư tưởng dân chủ tư sản như ở các nước
Pháp, Mỹ: các tư tưởng tự do, bác ái, bình đẳng đã tác động mạnh mẽ
đến Hồ Chí Minh. Chính Người đã từng nói: “ năm trạc 13 tuổi, lần
đầu tiên tôi nghe những từ tự do, bình đẳng, bác ái... thế là tôi muốn
tìm hiểu văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau ấy”.
Hồ Chí Minh đã từng nhắc đến bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ
(1776) và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư
sản Pháp (1791) về quyền bình đẳng: “ tất cả mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của cách mạng tư sản Pháp cũng chỉ rõ: “ Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hai là, tư tưởng tiểu tư sản như chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn: “ Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.
Ba là, chủ nghĩa Mac-Lênin là nhân tố quyết định ảnh hưởng
trực tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chính là cơ sở hình thành nên
thế giới quan và phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Nhờ có thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lênin mà Hồ Chí Minh
đã vận dụng và tiếp thu chuyển tiếp những nhân tố tích cực và tiến bộ
của truyền thống dân tộc trở thành tư tưởng, văn hóa nhân loại để tạo
nên hệ thống tư tưởng của nước mình.
2. Cơ sở thực tiễn
Một là, xuất phát từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX thực dân
Pháp tiến hành xâm lược, chiếm nước ta và biến đất nước ta trở
thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Lúc đó, chính quyền bị
nước ta bị lu mờ, bạc nhược chỉ nghỉ đến lợi ích cá nhân, lợi ích gia
tộc nên đã lí hoàn loạt các hiệp ước vô nghĩa. Dẫn đến các phong
trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản
được dấy lên nhưng đều bị thất hại. Dân tộc Việt Nam đứng trước
tình trạng khó khăn, khủng hoảng tế tắc về đường lối cứu nước.
Hai là, xuất phát từ lòng yêu nước Hồ Chí Minh đã ra đi tìm
đường cứu nước (1911-1920). Trải qua gần 10 năm đầy gian truân và
thửu thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp châu lục khảo sát nhiều nước
thuộc địa cũng như nhiều nước tư bản như Anh, Pháp,Mỹ... Khảo sát
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cuộc cách mạng tư
sản Mỹ, cách mạng tư sản Pháp và người đã hoạt động cách mạng
với những nước thuộc địa Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh đã rút ra được
bài học “ muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể tự trông cậy vào mình”.
Ba là, xuất phát từ xu thế thời đại, đó là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới được tác
động từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga ảnh hưởng sâu sắc đến tư
duy của Người về mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam,
nhất là khi Người được tiếp cận với luận cương chủ nghĩa Mac-
Lênin về vấn đề dân tộc, thuộc địa. Việc Nguyễn Ái Quốc tham gia
vào xây dựng Đảng cộng sản Pháp tại đại hội Tua (12/1920) đã đánh
dấu cột mốc quan trọng của Người trong cuộc đời hoạt động cách
mạng, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mac-Lênin, từ người yêu
nước trở thành người cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy được
con đường giải phóng dân tộc của mình. Người khẳng định: “ Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. II.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể hiện
qua các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, độc lập dân tộc phải là dộc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ , kinh tế,
chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Quyền độc lập lập dân
tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm.
Với một người dân mất nước, cái mà họ cho rằng quý nhất trên
cuộc đời là độc lập tổ quốc, tự do con người. Như Hồ Chí Minh
cũng đã nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được
tự do, Tổ quốc tôi được độc lập,,,”. “Không có gì quý hơn độc lập
tự do” đây là một chân lý bất hủ, luôn có giá trị ở mọi thời đại của Người Hồ Chí Minh.
Nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi việc liên quan đến
nước Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân dân
Việt Nam không chấp nhận sự can thiệp của bất cứ nước nào.
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng nhất, cho
dù phải hy sinh tính mạng vẫn phải bảo vệ và giữ vững quyền độc lập ấy.
Thứ hai, quyền độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự do cho dân tộc là mục
tiêu, khát vọng của dân tộc Việt Nam và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
những mục tiêu, khát vọng đó muốn thật sự có được là chỉ khi nó
mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và phồn vinh cho nhân dân.
Sau cuộc cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi dưới sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản đã mở ra một thời đại mới – thời đại
quá độ tiếng lên chủ nghĩa xã hội. Từ sự kiện đó, Hồ Chí Minh đã
sáng suốt xác định mục tiêu của con đường đấu tranh vì quyền
độc lập, tự do của dân tộc là tiến lên chủa nghĩa xã hội, có nghĩa
là phải gắn chủa nghĩa xã hội với độc lập dân tộc. “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, giành lại quyền độc lập, tự do cho dân
tộc chỉ là cơ sở tiền đề, cơ sở vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã
hội, để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Để thực hiện hóa điều đó, Người nhấn mạnh: “ Chúng ta
phải thực hiện ngay: 1- Làm cho dân có ăn. 2- Làm cho dân có
mặc. 3- Làm cho dân có chỗ ở. 4- Làm cho dân có học hành. Cái
mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”.
Thứ ba, giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện
ở các quyền tự do và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng.
“Nếu nước được độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc,
tự do thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”. Độc lập phải được đặc
trong khôi thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ các dân tộc,
các miền Tổ quốc, giữa các dân tộc đồng bào và tất cả giai cấp,
tầng lớp nhân dân yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ngoài nước.
Thứ tư, độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính.
Hồ Chí Minh là người đi đầu , chủ động tích cực bày tỏ ước
vọng và tìm mọi giải pháp cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình, hết sức
tránh xảy ra xung đột, tránh chiến tranh. Hồ Chí Minh cùng trung
ương Đảng đã kí hiệp định sơ bộ ngày 6-3, chính Người ký tạm
ước 14-9 với chính phủ Pháp với mong muốn giải quyết các cuộc
tranh chấp bằng phương pháp đấu tranh hòa bình.
Khi thực dân Pháp khiêu chiến gây xung đột với nước ta, Hồ
Chí Minh đã kêu gọi nhân dân trước hết làm theo những thi hành
trong tạm ước. Đồng thời Người cũng kêu gọi những Người Pháp
vì lợi ích dân tộc Việt – Pháp mà chấm dứt những hành động
khiêu chiến. Khi chiến tranh nổ ra trên cơ sở kiên quyết chiến đến
cùng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh luôn tỏ ra mong
muốn sẵn sàng đàm phán với Pháp để kết thúc cuộc chiến tranh,
lập lại hòa bình, tránh làm tổn hại đến người và của, tránh đổ
xương máu trên cả hai dân tộc.
1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng về chủ nghĩa
xã hội bao gồm những vấn đề sau:
Một là, nhà nước chủ nghĩa xã hội là nhà nước do nhân dân làm
chủ, nhà nước phải phát huy đúng đắn để phát huy tính tích cực
và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, chủ nghĩa xã hội công bằng và hợp lí, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình
đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
nền sản xuất hiện đạo cao và chế độ sản xuất công hữu tư liệu chủ
yếu. Nhằm nâng cao đời sống lao động, cơ sở vật chất cho nhân
dân, đặc biệt là nhân dân lao động.
Bốn là, chủ nghĩa xẫ hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa
đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh
em, là con người được giải phóng khỏi áp bức, bốc lột, có cuộc
sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát
triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Năm là, chủ nghĩa xã hội là công trình sẵn có của nhân dân, do
dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại, mối quan hệ của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biến chứng với nhau,
gắn liền với nhau, phản ánh mối quan hệ cách mạng không ngừng
phát triển. Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định trong cương lĩnh đầu
tiên của Đảng: Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” nhằm “đánh đổ để quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” , “làm cho nước Nam hoàn
toàn độc lập”, “dựng ra chính phủ công nông binh” để đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
2.1 Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xa hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trên hết, trước
hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con
đường cách mạng của Việt Nam có 2 con đường chính: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục
tiêu cấp bách, trên hết.
Theo Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội
dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nữa vời, độc
lập hình thức. Vì thế độc lập dân tộc là thứ gì đó rất thiêng liêng,
cao cả; là khát vọng mang tính mang tính phổ biến với toàn nhân
loại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; độc lập
dân tộc bao giờ cũng gắn liền với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân lao động.
Với Hồ Chí Minh để đảm bảo độc lập dân tộc, để không bị rơi
vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu chặng đường tiếp theo chỉ có đi
lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc
khỏi ách nô lệ, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo cho nền độc
lập thực sự, chân chính”.
2.2 điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh khẳng định điều kiện cơ bản để gắn liền độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội là xác lập, tăng cường vai trò lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng Sản. Không có Đảng Cộng
Sản thì sự nghiệp cách mạng Việt Nam không thể theo con đường
cách mạng vô sản được và chắc chắn rằng sẽ đi vào vết xe đổ của
các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của Đảng Cộng Sản mang tính
khách quan. Để hoàn thành được sứ mệnh của mình thì phải xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để
nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ để vượt qua
được thử thách gay gắt nhất. Đảng phải xây dựng, cũng cố và tăng
cường khối liên minh công - nông và trí thức làm nền tảng cho
khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công – nông là gốc, là
chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là yếu tố
khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hóa khi gắn liền
với những điều kiện đảm bảo, trong đó quan trọng nhất là việc
xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.3 Hiện thực trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1930 – 1945:
Ở giai đoạn này, độc lập dân tộc được xem là nhiệm vụ
trọng tâm trước mắt, đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội
dung chủ đạo và được tiến hành theo lập trường của giai cấp
vô sản; mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là
phương hướng tiến lên và thực hiện mục tiêu đó. Đường lối
giương cao ngọn cờ dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở giai
đoạn này được thể hiện qua Chánh cương vắn tắt của Đảng
được thông qua tại đại hội Đảng xác định rõ con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng đã hàm chứa nội dung và phương
hướng để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh xác định tính chất của cách mạng Việt Nam
là con đường cách mạng vô sản; xác định đối tượng đấu tranh
là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản và
tầng lớp địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực
lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm
công nhân, nông dân và tầng lớp tiểu tư sản..., trong đó tầng
lớp quan trọng là khối liên minh công -nông, tập hợp dưới
ngọn cờ giải phóng dân tộc do Đảng là của tầng lớp công nhân
lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng dân tộc Việt Nam là
cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăn khít với cách
mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có
tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
“chính quốc”, tác động tính tích cực đến cách mạng “chính quốc’.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, cách mạng
Tháng Tám (1945) đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi đầu tiên
của tư tưởng Hồ chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ
nguyên thời kỳ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1945 – 1954:
Đây là thời kì bảo vệ độc lập và xây dựng tiền đề những
cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và
kiến quốc”; Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những
quan điểm lý luận của con đường cách mạng Việt Nam. Để
thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan
điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đi
đôi ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Đường lối
phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi
đôi với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng
từng bước chế độ mới. Đây là nguyên nhân quyết định thắng
lợi của cuộc đấu tranh xâm lược của Pháp.
• Giai đoạn 1945 – 1975:
Ở thời kỳ này, sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện
tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam, thống nhất cả nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, người xác định
rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của cách mạng từng miền và tác
động, hỗ trợ lẫn nhau giữa cách mạng hai miền. Đây thể hiện
hóa con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội – con đường
mà Hồ Chí Minh đã ra sức bảo vệ và kiên trì phát triển.
Hồ Chí Minh tiếp tục xác định kẻ thù tiếp theo mà dân
tộc ta phải tập trung đánh đổ chính là đế quốc Mỹ. Về tập hợp
lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách làm sáng
tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại
đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho
cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng Mặt
trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu
nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ.
Sức mạnh của “ba tầng Mặt trận” đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp to lớn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn
chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa
xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng
tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh
đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ
biến và tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong phạm vi một nước.
Giai đoạn sau 1975:
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống
nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định:
“Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một
nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng
ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh,
là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi
mới: “Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập,
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”.
Thực tiễn đó chỉ ra rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán và đúng đắn
của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân
dân ta trong 91 năm qua. Hiện tại, dù còn nhiều khó khăn,
nhưng Ðảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vì đó là con đường đúng đắn, là quy luật và xu
thế phát triển tất yếu của thời đại; là điều kiện bảo đảm để dân
tộc thực sự độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc; mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh trở thành hiện thực.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay
Bàn về vấn đề chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã có một hệ
thống quan điểm về các vấn đề: kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,
con người. Những quan điểm đó đều thể hiền các mặt của chủ nghĩa xã hội.
3.1 Đặc trưng về bản chất chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu tư liệu sản xuấtc chủ yếu.
Nhằm không ngừng nâng cao đời sống, cơ sở vật chất và tinh thần cho
nhân dân, trên hết là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ.
Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động
được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân,
do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo
đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và
tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết khả năng sẵn
có của mình; xã hội công bằng hợp lý, thực hiện chế độ phân phối
theo lao động ( làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì
không hưởng, trừ các đối tượng già cả, neo đơn, đối tượng trẻ em và
các đối tượng chính sách); Chủ nghĩa xã hội có quan hệ bình đẳng
giữa các dân tộc trong nước, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền
xuôi; Quan hệ hòa bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
3.2 Chủ nghĩa xã hội áp dụng vào thực tế ngày nay
Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống
phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến
hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá
hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản
chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Trước tình hình
trên, Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn và định hướng phát
triển đất nước trong những mốc lịch sử quan trọng:
Một là, đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phấn đấu trở thành nước
đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập trung bình thấp. Đảng ta đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu về
phát triển kinh tế - xã hội 5, năm 2021 - 2025, trong đó: “Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm
2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD”.
Hai là, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt
Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 -
2030, Đảng ta xác định 12 định hướng trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó về lĩnh vực kinh tế là: “Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ
mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng…; nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Ba là, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao: “Khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành
một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để đạt được mục tiêu trên, cần thực hiện tốt những giải pháp cơ bản:
Một là, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ
nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với
các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ
nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp
và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập
quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt
tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một
cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ,
đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi
lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng
củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các
nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công
hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối,
bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền
vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển,
trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực
chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về
kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 - 338).
Ba là, về xã hội, tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững,
nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác,
nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm
làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch,
vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bốn là, cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa
xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề
đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử
thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài,
không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương,
đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy
mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của Nhân
dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện
đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu,
nguyện vọng của mình. Sức mạnh Nhân dân là cội nguồn sâu xa của
thắng lợi, của phát triển.
Năm là, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương
hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực
tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham
khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới
toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc
không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và
thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta
phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá,
đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Sáu là, phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư
tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và
cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính
khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những
người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát
triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực
tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách
có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới
nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta
luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi
thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. III. KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường
cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc
của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự
do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách
thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư
tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống
nhất vầ ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã
hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.