MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
Phần 1. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1.
do chọn đề tài ................................................................................................. 3
2.
Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4
3.
Kết cấu của bài tiểu luận ..................................................................................... 4
Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................................. 4
Chương I. Khái quát về bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh .................................... 4
1.
Hoàn cảnh ra đời ................................................................................................. 4
2.
Quá trình viết di chúc của c ............................................................................ 5
3.
Những nội dung cốt yếu trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh .............. 7
Chương II. Những giá trị lịch sử to lớn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
1.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh_văn kiện lịch sử vô giá của nhân dân Việt
Nam ................................................................................................................... 12
2.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc là định hướng cơ bản,
quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cả hôm
nay và mai sau ....................................................................................................14
3.
Lời tạm kết ......................................................................................................... 16
Chương III. Giá trị nhân văn sâu sắc trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
1.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân ........................................................... 17
2.
tưởng bình đẳng, bác ái niềm tin con người ......................................... 21
3.
Những suy nghĩ về thời hậu chiến ..................................................................... 24
4.
Lời tạm kết ......................................................................................................... 28
Phần 3. Kết luận ............................................................................................................ 29
Phần 4. Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 30
2
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người
cộng sản đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh
không mệt mỏi dâng hiến cả một đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, tưởng cộng
sản chủ nghãi, vì độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa,hòa bình và công trên thế
giới. Trước khi người ra đi, Người đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta một di sản lớn, đó
chính những lời cuối cùng trong bản Di chúc của Người, Như một bài học lớn cho bao
lớp thế hệ con cháu. 50 năm đã trôi qua, nhưng những tưởng, tình cảm Chủ tịch
Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta vẫn ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.
do chọn đề tài
Việc lựa chọn đề tài "Những giá trị lịch sử nhân văn trong bản di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh" một quyết định tỉnh táo, nhằm khám phá sâu sắc về di sản văn hóa và
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ CMinh đối với lịch sử Việt Nam. Bản di chúc, như một bản
tuyên ngôn tâm huyết, không chỉ một biểu tượng của cuộc chiến tranh giải phóng,
còn là nguồn tư duy nhân văn và lịch sử quý báu.
Những dòng chữ trong bản di chúc không chỉ những câu văn đơn thuần, mà là những
hồi đầy nghệ thuật của một lãnh tụ tài năng. Trải qua những giai đoạn lịch sử quan
trọng, bản di chúc không chỉ kể lên câu chuyện của một quốc gia đang chiến đấu cho
độc lập còn bức tranh về tưởng nhân văn, lòng yêu nướctầm quan trọng của
mỗi cá nhân trong xã hội.
tưởng về độc lập tự do không chỉ mục tiêu cao cả, còn tia hy vọng dẫn
dắt nhân dân Việt Nam qua những thử thách khó khăn. Bản di chúc thể hiện tình yêu
nước cháy bỏng, với những đoạn văn sâu sắc về lòng trung hiếu, lòng đoàn kết dân tộc
và lòng tự chủ tự quyết.
Đồng thời, ng biểu ợng của sự hiểu biết sâu sắc về tưởng Mác - Lênin,
tầm quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hướng dẫn chiến lược mục
tiêu quốc gia. Bản di chúc không chỉ nói về chiến tranh n về tầm quan trọng của
hòa bình, đặt ra mục tiêu xây dựng một hội công bằng hòa bình sau những năm
chiến tranh khốc liệt.
Với đề tài này, chúng ta không chỉ mở cửa sổ nhìn vào quá khứ, còn nắm bắt ý nghĩa
của những giá trị lịch sử nhân văn này đối với hiện tại tương lai của Việt Nam.
Bản di chúc một bức tranh lớn, một nguồn cảm hứng tận di sản quý báu
chúng ta cần bảo tồn và khám phá.
3
2.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm bài tiểu luận, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu để khám
phá "Những giá trị lịch sử nhân văn trong bản di chúc của Chtịch Hồ Chí Minh".
Nó đòi hỏi sự kết hợp linh hoạt giữa nghiên cứu văn bản, tìm kiếm tổng hợp tài liệu,
chọn lọc thông tin liên quan hình ảnh phù hợp để đưa vào bài viết của tôi một cách
hợp lí nhất.
3.
Kết cấu của bài thu hoạch
Bài tiểu luận gồm 4 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luậnphần danh mục
tài liệu tham khảo.
Trong phần mở đầu u do chọn đề tài, phương pháp nghiên cứukết cấu bài tiểu
luận.
Trong phần nội dung nêu được khái quát về bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
như các giá trị lịch sử và giá trị nhân văn có trong bản di chúc ấy.
Phần kết luận trình bày tóm gọn lại những vấn đề bản thân đã nghiên cứu trong chủ
đề “ Giá trị lịch sử và nhân văn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Danh mục tài liệu tham khảo dẫn lại những nguồn tài liệu đã sử dụng trong quá trình
làm bài tiểu luận.
PHẦN 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I. Khái quát về bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước, thương
dân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân của vị lãnh tụ đại, di huấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh. thể khai thác, m hiểu
bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng điểm chung
nhất toát lên khi nghiên cứu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Bản Di chúc chứa
đựng cả hệ thống ởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết quốc tế,
về xây dựng Đảng, về đạo đức cách mạng...
1.
Hoàn cảnh ra đời
Trong cuộc đời 79 mùa xuân, Bác Hồ đã làm việc nhiều nơi, nhưng Người
làm việc lâu nhất Khu Phủ Chủ tịch (từ 19/12/1954 đến 02/9/1969). Trong 15 năm ấy,
Người sống làm việc nhà sàn nhiều thời gian nhất (từ 19/5/1958 đến 17/8/1969). T
ngày 17/8/1969, do điều kiện sức khoẻ của Người, các bác sỹ đề nghị Người không lên
xuống nhà sàn nữa, Người đã xuống căn nhà được xây dựng năm 1967. Tại đây, Người
đã được các bác sỹ tận tình cứu chữa, nhưng Người đã ra đi lúc 9 giờ 47 phút ngày
2/9/1969 sau một cơn đau tim. Chuẩn bcho sự ra đi này, từ năm 1965, khi còn nhà
sàn, Bác đã chọn đúng giờ đẹp nhất trong ngày, chọn đúng lúc sức khoẻ tốt nhất trong
những năm đó để viết sẵn Di chúc, với đức khiêm tốn cao cBác không gọi "Di
chúc", "Chúc thư" hay "Di huấn"... Bác gọi rất giản dị "Tài liệu", "Thư", " Mấy
4
lời để lại". Bác cũng không muốn cho nhiều người biết việc làm của một người sắp đi
xa, ngại dẫn đến những suy nghĩ không lợi, nên mở đầu bài viết, Bác ghi "Nhân
dịp 75 tuổi" và phía n lề trái, Bác ghi chú thêm hàng chữ "Tuyệt đối mật". nghĩa
tài liệu "Tuyệt đối mật" này sẽ chỉ được công bố khi Người đi gặp Cụ Các Mác, Cụ
Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác.
Những lúc thảo tài liệu "Tuyệt đối mật", Bác đã ngồi chiếc ghế mây để viết hoặc
Bác ngồi đánh máy trên chiếc bàn gỗ được trong phòng làm việc tầng hai nhà sàn.
sở khẳng định điều này nhiều liệu, song những tài liệu đã công bố lời kể của
đồng chí Kỳ- nguyên thưriêng của Bác, người được Bác tin cẩn giao phó cho cất
giữ cẩn thậntài liệu "Tuyệt đối bí mật" đáng tin cậy.Trong hồi ký của mình, đồng chí
Kỳ viết: "Đúng 9h, Bác Hồ ngồi chăm chú viết. Vấn đề chắc đã suy ngẫm từ lâu.
Phòng làm việc trên nhà sàn yên tĩnh. Gió mát dịu, thoang thoảng hương thơm của hoa
vườn...
Chính vào giờ phút đó Bác Hồ đặt bút viết những dòng đầu tiên vào tài liệu "Tuyệt đối
bí mật" để dặn lại cho muôn đời con cháu mai sau".
2.
Quá trình viết di chúc
Theo đồng chí Quang Tùng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết vào thời
điểm bản lề của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; cách mạng còn khó khăn
song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng. Trong Di chúc, Bác
căn dặn nhiều điều: Trước hết nói về Đảng. Bác dạy: Đoàn kết một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng của dân ta. Người tâm huyết nhắc nhở các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ: cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ n con
ngươi của mắt mình. Đặc biệt, Bác nhấn mạnh: Đảng ta một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Điều đó cho thấy sự nung nấu, suy tính
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều năm, chứa đựng chiều sâu của tưởng, tình cảm,
chiều cao trí tuệ của Người.
Di chúc một văn kiện lịch sửgiá, toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng
của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, kết tinh của tinh hoa tưởng, đạo đức và tâm
hồn cao đẹp của một nhân, suốt đời phấn đấu hy sinh Tổ quốc nhân loại. Di chúc
những lời căn dặn thiết tha, chứa đựng biết bao tình cảm, hoài bão khí phách, thể
hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn dò trước lúc Bác đi xa.
Trong các tác phẩmng nhớ Bác HồHồi ký Bác Hồ viết Di chúc, đồng chí Kỳ,
thư ký của Bác Hồ nêu rõ, Bác bắt đầu viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc để lại
cho muôn đời sau vào lúc 9 giờ sáng thứ hai, ngày 10/5/1965; đến 10 giờ, Bác viết xong
phần mở đầu. Bác xếp tài liệu lại chuyển sang làm các công việc thường ngày. c
5
ngày tiếp theo, ngày 11, 12, 13/5/1965, cũng vào giờ đó (từ 9 giờ đến 10 giờ), Bác viết
tiếp các phần còn lại. Riêng ngày 14/5/1965, do buổi sáng lịch đi thăm một hợp tác
ngoại thành Nội dự một phiên họp của Bộ Chính trị, Bác chuyển viết Di chúc
sang buổi chiều với thời gian gấp đôi, từ 14 gi đến 16 giờ. Đúng 16 giờ, Bác đánh máy
xong bản Di chúc cho vào phong bì. Đến 21 giờ hôm đó, Bác giao chiếc phong cho
đồng chí Kỳ dặn: “Chú cất giữ cẩn thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa lại cho
Bác”.
cứ đến dịp sinh nhật Bác hằng năm, đồng c Kỳ lại đặt bản Di chúc lên bàn làm
việc của Bác; sau đó Bác bổ sung giao lại cho đồng chí Kỳ. Bác đọc kỹ bản Di
chúc xem xét, cân nhắc kỹ từng đoạn, từng câu, từng ý, từng lời và bổ sung thêm vào
bản Di chúc tùy theo nh hình đất nước. Đặc biệt qua tình hình chiến sự miền Nam,
Bác lại viết thêm những phần cần thiết vào bản Di chúc. Năm 1966, Bác bổ sung thêm
phần nói về tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong đó Bác nhấn mạnh: “Phải tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Năm 1967, Bác xem lại bản Di chúc, nhưng không sửa
gì. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang, gồm một số đoạn về việc riêng một số công việc
cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi. Năm 1969, Bác xem
viết lại toàn bộ phần mở đầu gồm 1 trang viết tay. Ngày 19/5/1969, Bác sửa lần cuối.
Theo đồng chí Nguyễn Văn Công, Giám đốc Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch,
những bút tích của Bác còn lại trong các bản Di chúc đã cho thấy, đây văn bản được
Bác tập trung thời gian, suy nghĩ, chỉnh sửa nhiều nhất so với c n bản bút tích của
Bác để lại. Điều đó, thhiện tinh thần trách nhiệm của Bác trước sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, nhưng đó còn tấm lòng của vị lãnh tụ với tương lai đất nước. Bản Di chúc
còn mang nét độc đáo rất riêng nữa, dù bút tích Bác ghi "Tuyệt đốimật", nhưng
đây lại tài liệu được công bố rộng rãi nhất, được nhiều thế hệ học tập, noi theo. Toàn
văn Di chúc của Bác Hồ đã được Bộ Chính trị cho công bố xuất bản cùng ngày tổ
chức lễ quốc tang 9/9/1969. Di chúctoàn bộ tưởng của Bác tài sản vô giá để lại
cho Đảng và nhân dân ta.
Theo cuốn Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Nội, ngày
19/5/1969 Bác xem lại Di chúc: “Đúng 9h, Bác ngồi vào bàn làm việc với bản Di chúc
trước mặt. Bên ngoài nắng đã lên cao. Những chùm hoa phượng nở sớm, bắt nắng khoe
màu rực rỡ. Mặt hồ lăn tăn gợn sóng, lấp lánh ánh mặt trời. Một làn gió mát rượi ùa vào
khung cửa sổ làm bay bay những sợi tóc bạc của Bác. c ngồi đó, tựa lưng vào thành
ghế thoải mái, ung dung, nét suy hiện lên trên vầng trán rộng...”. Ngày 20/5/1969,
“Người xem lại tài liệu lần cuối và xếp vào phong bì cất đi”.
Theo đồng chí Trần Thị Thuấn, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch,
trong cuộc đời 79 mùa xuân, Bác Hồ đã làm việc nhiều nơi, nhưng nơi Người
làm việc lâu nhất khu Phủ Chủ tịch (từ ngày 19/12/1954 đến 02/9/1969). Trong 15
năm ấy, Người sống làm việc nhà sàn nhiều thời gian nhất (từ 19/5/1958 đến
17/8/1969). Từ ngày 17/8/1969, do điều kiện sức khoẻ của Người, các bác đề nghị
Người không lên nhà sàn nữa, Người đã xuống căn nhà được xây dựng năm 1967. Tại
6
đây, Người đã được các bác tận tình cứu chữa, nhưng Người đã ra đi lúc 9 giờ 47 phút
ngày 2/9/1969 sau một cơn đau tim. Chuẩn bị cho sự ra đi này, từ m 1965, khi còn
nhà sàn, Bác đã chọn đúng giờ đẹp nhất trong ngày, chọn đúng lúc sức khoẻ tốt nhất
trong những năm đó để viết sẵn Di chúc, với đức khiêm tốn cao cả Bác không gọi
“Di chúc”, “Chúc thư” hay “Di huấn"... Bác gọi rất giản dị “Tài liệu”, “Thư”,
“Mấy lời để lại”. Bác cũng không muốn cho nhiều người biết việc làm của một người
sắp đi xa, ngại dẫn đến những suy nghĩ không lợi, nên mở đầu bài viết, Bác ghi
“Nhân dịp 75 tuổi” phía bên lề trái, Bác ghi chú thêm hàng chữ Tuyệt đối mật”.
Có nghĩa tài liệu “Tuyệt đối mật” này sẽ chỉ được công bố khi Người đi gặp Cụ Các
Mác, Cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác.
Như vậy, bản Di chúc đã được Bác khởi thảo từ ngày 10/5/1965. Ngày 20/5/1969 ngày
Bác xem lại lần cuối cùng. Trong khoảng 4 năm ấy cứ vào trung tuần tháng 5 hằng m,
phần lớn mỗi ngày Bác đều dành 1 giờ để xem lại, sửa chữa, bổ sung những chỗ cần
thiết, khi viết thêm một số trang, hoặc sửa chữa một số câu, khi chỉ thay đổi một
vài chữ trong Di chúc. Với trách nhiệm với hậu thế, Bác cân nhắc từng ý, từng lời, nhưng
mỗi ý, mỗi lời đều giản dị, chân thành, trong sáng, tự nhiên như chính cuộc đời Bác
đã sống.
Với những đồng chí làm việc tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch,
liên quan đến sự ra đời bản Di chúc lịch sử Bác Hồ để lại, Bác thể hiện trên những bản
thảo Di chúc Bác viết tay hay những trang Di chúc Bác tự tay đánh máy, còn nhiều
kỷ vật khác. Đó ngôi nhà sàn, phòng làm việc tầng 2 nhà sàn, bộ bàn ghế Bác vẫn
thường ngồi làm việc và đã ngồi để thảo Di chúc, chiếc giá sách trên đó Bác đã từng
cất tài liệu “Tuyệt đối bí mật”, là chiếc máy chữ Bác đã dùng đánh văn bản và đánh Di
chúc (bản năm 1965), những chiếc bút Bác đã dùng để viết, sửa chữa, bổ sung Di chúc,
chiếc phongBác đựng tài liệu “Tuyệt đối mật”... Tất cả đều là những di vật lịch
sử, đã tồn tại cùng với sự tồn tại của ngôi nhà sàn, trong thời gian không gian Bác đã
làm việc khu Phủ Chủ tịch. Chúng đã trở thành những vật chứng thiêng liêng,
chứng kiến những hoạt động cụ thể của Bác Hồ, chứng kiến những suy nghĩ sâu sắc được
Bác nghiền ngẫm, chắt lọc để rồi được hiện hữu thành di sản văn hoá cho muôn đời sau,
không chỉ cho các thế hệ người Việt Nam còn cho cả nhân dân yêu lao động, hoà
bình, công lý trên thế giới...
3.
Những nội dung cốt yếu trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
7
“Trước hết nói về Đảng”
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Trước hết nói về Đảng”, “theo ý tôi, việc
cần phải làm trước tiên chỉnh đốn lại Đảng”cách Người đề cập đến vấn đề cốt
tử này. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh cũng nói: “Đầu tiên ng việc đối với con người”.
Đây là hai nội dung trọng yếu, mối quan hệ biện chứng được Người đề cập trong Di
chúc.
Một là, về các nguyên tắc tổ chức của Đảng
Thứ nhất, nguyên tắc tự phê bình phê bình. Mục tiêu của việc thực hiện nguyên tắc
này là “để củng cố sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Theo Người, “phê bình nêu
ưu điểm vạch khuyết điểm của đồng cmình. Tự phê bình nêu ưu điểm vạch
khuyết điểm của mình”. Tự phê bình phê bình cách giúp chúng ta nhìn ra khuyết
điểm của bản thân mình cũng như của đồng chí mình để “thật tcố gắng tự sửa chữa
và giúp sửa chữa lẫn nhau”.
Tự phê bình phê bình phải được thực hiện thường xuyên khéo léo, phải tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau. Cách thức thực hiện “phê bình tự phê bình phải từ trên
xuống dưới, từ dưới lên trên”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh tác dụng của phê bình từ ới
lên. Đây một duy mới, đột phá đòi hỏi đảng viên phải bản lĩnh mới thực hiện
được. thông thường cấp trên phê bình cấp dưới. Thật không dễ khi cấp dưới phê bình
cấp trên. Làm tốt được nguyên tắc này sẽ củng cố được khối đoàn kết trong Đảng.
8
“Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau” thì mới đạt được kết quả tốt. Người cũng
cùng tinh tế khi luôn nhắc nhở “nêu ưu điểm” trước rồi mới “vạch khuyết điểm”. Chỉ
trong vài dòng ngắn ngủi khi đưa ra chỉ dẫn về tự phê bình phê bình, duy biện
chứng của Người đã được thể hiện thật rõ nét và rất sinh động.
Thứ hai, nguyên tắc thực hành dân chủ rộng rãi. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi… cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng”.
Nguyên tắc này được thể hiện nét trong nguyên tắc làm việc tập thể lãnh đạo,
nhân phụ trách. Cách m việc này huy động được kinh nghiệm, trí tuệ, cách nhìn của đa
số, tránh được góc nhìn phiến diện, giản đơn, một chiều. Tập thể lãnh đạo để tránh việc
nhân ôm đồm, bao biện, độc đoán, chủ quan. nhân phụ trách để tránh tình trạng
bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ, không ai chịu trách nhiệm.
Tập thể lãnh đạo dân chủ; nhân phụ trách tập trung. Hồ Chí Minh cùng tinh
tế khi nói “dân chủ tập trung” chứ không nói “tập trung dân chủ”. Dân chủ là điều kiện
để tập trung; tập trung trên cơ sn chủ. Dân chủ tập trung không tách rời nhau.
Như vậy, nguyên tắc này thể hiểu , khi thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi của nhiều
người, mọi người được tự do phát biểu ý kiến của mình còn khi đã đi đến kết luận chung,
thì tất cả sẽ phải tuân thủ và sẽ ủy quyền cho cá nhân phụ trách.
Dân chủ trong Đảng điều kiện quan trọng để thực hiện dân chủ trong xã hội. Dân chủ
vừa mục tiêu, vừa công cụ, động lực để tiến tới mộthội n chủ, công bằng, n
minh, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc thực sự.
Thứ ba, nguyên tắc đoàn kếtthống nhất. Đây kết quả tất yếu của việc thực hiện tốt
hai nguyên tắc trên. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Muốn đoàn kết phải gi gìn kỷ luật của Đảng. Mỗi đảng viên phải tuyệt đối tuân theo kỷ
luật của Đảng, có như vậy Đảng mới thành một Đảng đoàn kết chặt chẽ, ý chí thống
nhất, hành động nhất trí, mạnh mẽ để lãnh đạo nhân dân đến thắng lợi. “Đoàn kếtkỷ
luật làm cho bộ đội mạnh, đoàn thể mạnh”. Đoàn kết cội nguồn của thành công: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Hai là, về người cán bộ, đảng viên
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở về đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt
trong điều kiện đảng cầm quyền. Người căn dặn: “Đảng ta một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư”. Suy cho cùng, một tổ chức thành công hay không phụ thuộc
9
vào đội ngũ cán bộ của tổ chức ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đạo đức
cách mạng của đội ngũ này. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - những đức tính ấy
được Người đề cập nhiều trong các bài nói, bài viết trước đó; một lần nữa lại được
nhấn mạnh trong Di chúc. Chăm chỉ, chuyên cần, tiết kiệm, liêm khiết, chính trực, đặt
lợi ích của đất ớc, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích nhân luôn những
đức tính mà mỗi người cán bộ, đảng viên cần phải rèn luyện, tu dưỡng suốt đời; luôn ý
thức Đảng cũng như cán bộ, đảng viên phải vừa người lãnh đạo, vừa là người đày t
thật trung thành của nhân dân, không lên mặt “quan cách mạng”. Đặc biệt, cần phải nhìn
hai vị trí này trong mối quan hệ biện chứng với nhau. nh đạo đòi hỏi cách, phẩm
chất, năng lực, còn “đày tớ” đòi hỏi thái độ, tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân.
Ba là, về hai trách nhiệm quan trọng của Đảng
Trước hết, Người bàn về trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ phục vụ cho nhu
cầu trước mắt của cách mạng còn quan tâm đến việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau. Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau một việc
rất quan trọngrất cần thiết”. Người đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ: “Non sông
Việt Nam trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quang
để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính nhờ một phần lớn
công học tập của các em”. Người bày tỏ niềm tin vào thế hệ trẻ: “Nước nhà trông mong
chờ đợi các em rất nhiều”. Đầu năm 1946, trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn
quốc nhân dịp tết sắp đến, Người khẳng định: “Tuổi trẻ mùa Xuân của hội”. Trong
Thư gửi các bạn thanh niên năm 1947, Người viết: “Thanh niên người chủ tương lai
của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn do các
thanh niên”. Với thế hệ trẻ, điều quan trọng phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng,
làm cho họ trở thành những người “vừa hồng vừa chuyên”.
Để bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, cần quan tâm đến thể dục, trí dục, mỹ dục,
đức dục của các em học sinh nhằm làm cho thân thể khỏe mạnh, giữ gìn vệ sinh chung,
vệ sinh riêng, học thêm những tri thức mới, phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp,
làm cho học sinh năm cái yêu (yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa
học, yêu trọng của công). Trong ba phạm vi gia đình, nhà trường,hội, Người chỉ dẫn
cụ thể: “Ở trường, thì kính thầy, yêu bạn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. nhà, thì yêu kính
giúp đỡ cha mẹ. hội, thì tùy sức mình tham gia những việc ích lợi chung”.
Thứ hai, về trách nhiệm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh có một ham muốn tột bậc “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Độc
lập, tự do chỉ bước đầu tiên để hướng đến mục tiêu cuối cùng hạnh phúc của nhân
dân. Người khẳng định: “Nếu nước độc lập dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng nghĩa gì”. Nhân dân chỉ hiểu được giá trị của hạnh phúc, tự do
khi trước hết họ được ăn no, mặc đủ.
10
Nhân dân nguồn sức mạnh của Đảng. “Dựa vào dân t việc gì,khó đến đâu cũng
có thể làm được”. Do đó, chăm lo cho nhân dân chính là cách để tăng cường sức mạnh
của Đảng. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải lấy tiêu chí lợi, hại cho dân
làm tiêu chí hành độngthước đo một Đảng cách mạng chân chính. Bác dặn: “Việc
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc hại đến dân ta phải hết sức tránh”. Đảng lo cho
dân trước hết lo những nhu cầu thiết yếu, năn, mặc, sau đó đến những nhu cầu
tinh thần. Sau Cách mạng Tháng Tám m 1945, Đảng Nhà nước thực hiện nhiều chủ
trương, chính sách chống đói, chống dốt, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển văn hóa
để thực hiện một ch thiết thực việc chăm lo đời sống cho nhân dân. Sự thống khổ
của nhân dân là nỗi thống khổ của Người và hạnh phúc của dân chính hạnh phúc của
Người: “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, một ngày tôi
ăn không ngon, ngủ không yên”.
Câu nói mộc mạc của Người mà chất chứa ý nghĩa sâu xa, khái quát toàn bộ những nội
dung cốt yếu trong mối quan hệ giữa Đảng với dân, đó “Đảng phải hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân, phải thấu hiểu rằng lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng”.
“Đầu tiên công việc đối với con người
lãnh tụ tối cao của ĐảngNhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nh sự quan m
của mình cho mọi tầng lớp nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn những công việc cụ
thể cần làm với từng tầng lớp, đối tượng sau khi ớc nhà thống nhất: Đối với những
người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; đối với các liệt sĩ; đối với
cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt thiếu sức lao động và túng thiếu; với những
chiến trẻ tuổi trong các lực lượng trang nhân dân thanh niên xung phong; với
phụ nữ; với những nạn nhân của chế độ hội cũ; với nông dân. Những tầng lớp, đối
tượng trên được Hồ Chí Minh dành cho sự quan tâm đặc biệt. Họ những người đã góp
công sức trực tiếp vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng “yếu thế” trong
hội. Người trù liệu, căn dặn từng công việc Đảng, Nhà nước cần phải thực hiện
với những đối tượng đặc biệt này.
Con người - vấn đề trung tâm trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Người bàn tới các nguyên tắc tổ chức của Đảng để xây dựng một Đảng đoàn kết, một
Đảng mạnh hướng tới một ớc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu
mạnh. Đây chính là hội hội chnghĩa do con người và con người. Do đó, thực
hiện tốt các nguyên tắc tổ chức của Đảng chính tạo ra công cụ, phương tiện cần thiết
để đạt tới mục tiêu xây dựng một xã hội tất cả vì con người, cho con người.
Khi bàn tới người đảng viên, thực chất Người đang nói tới con người trong Đảng.
Đảng viên tốt thì Đảng mới thể thành công trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình.
11
Hai trách nhiệm quan trọng của Đảng trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau trách nhiệm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân đều
hướng tới con người. thể thấy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng chính nói
về con người: Đó không chỉ con người hiện tại trong Đảng (đảng viên) còn con
người Đảng phải trách nhiệm xây dựng làm đội ngũ kế cận trong tương lai (thế hệ
cách mạng cho đời sau) con ngườiĐảng hướng tới phục vụ lợi ích của họ (quần
chúng nhân dân).
Bên cạnh các công việc đối với con người Hồ Chí Minh đề cập trực tiếp trong Di
chúc thì toàn bộ nội dung bàn về Đảng thực chất cũng chính bàn về vấn đề con người.
đây, con người vừa mục tiêu, vừa động lực của sự phát triển, quan hệ biện
chứng với nhau. Do đó, thể khẳng định, điều cốt lõi Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn hậu thế trước lúc đi xa chính là vấn đề con người.
Suy cho cùng, con người nguồn lực quan trọng nhất của mọi quốc gia. Các nguồn lực
khác dồi dào, phong phú, đa dạng đến đâu nhưng nếu nguồn lực con người thiếu
hoặc yếu thì quốc gia đó khó phát triển được. 50 năm đã trôi qua, đọc lại bản Di chúc
thiêng liêng của Người, điều căn cốt Đảng Nhà nước cần tiếp tục quan tâm, đầu
tư, xây dựng, phát triển đó là con người - nhân tố ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của quốc gia - dân tộc trong thời đại ngày nay.
Chương 2. Những giá trị lịch sử to lớn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong lịch sử n tộc Việt Nam một vài bản di chúc của các danh nhân hiền tài
công với dân tộc, như: Di chúc của Vua Trần Nhân Tông, Hưng đạo Đại vương Trần
Quốc Tuấn… Nhưng hiếm một Di chúc nào được chuẩn bị công phu, tâm huyết,
giá trị to lớn về lịch sử như bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh_văn kiện lịch sử giá của nhân dân Việt
Nam
Nhận thức sâu sắc quy luật ngặt nghèo của sự sống, trong quá trình bôn ba tìm đường
cứu nước, cứu dân cho đến khi giành được độc lập, tự do cho dân tộc (8/1945), nhưng
độc lập của dân tộc chưa được trọn vẹn, đất nước còn bị chia cắt, điều đó khiến Hồ Chí
Minh chưa lúc nào được yên lòng, Người đã hy sinh cả cuộc đời mình cống hiến cho
Đảng, cho nhân dân, đất nước, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ ch mạng, phục vụ Nhân dân. Nay phải từ biệt thế giới này, tôi không
điềuphải hối hận, chỉ tiếc tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa…” Cùng với đó do những năm tháng hoạt động cách mạng gian khổ, bị tra tấn,
giải đi khắp các lao đã ảnh hưởng tới sức khỏe của Người. Đoán được thời khắc sẽ
phải đi gặp cụ Các-mác; cụ -nin thế giới người hiền, vào tháng 5 năm 1965, khi
Người tròn 75 tuổi, sau 5 năm nung nấu (1960-1965), đi nhiều nơi chiêm nghiệm thực
tiễn, suy ngẫm về hành trình hoạt động cách mạng của mình, tình hình thế giới, tình hình
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh bắt đầu viết tài liệu tuyệt đối mật. Gọi “tuyệt
đốimật” ở đây không phải vì nội dung vì Bác không muốn để Đảng ta, đồng c,
12
đồng bào biết sức khỏe của Bác đang dần suy yếu sinh lo lắng, ảnh hưởng đến nhiệm
vụ, công việc cách mạng. Tài liệu tuyệt đối mật đó chính Di chúc thiêng liêng của
Bác, với ngôn ngữ giản dị, tình cảm nhưng khúc triết, chặt chẽ về bố cục, văn phong,
chứa đựng những điều căn cốt tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, từ cách đặt
vấn đề, sắp đặt thứ tự nội dung, kết thúc bản di chúc. Chỉ với hơn 1.000 từ nhưng Di
chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát nhiều nội dung to lớn, ý nghĩa chính trị, lịch
sử, văn hóa sâu sắc, tài sản vô giá của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta hôm nay và mãi
mãi mai sau. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao hàm nhiều giá trị luận, thực tiễn
cách mạng quý báu, từ vấn đề đối nội, đến công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Nhân
dân ta đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đất nước, chăm lo cho đời sống,
hạnh phúc của nhân n, chăm lo cho các cụ phụ lão, các cháu thanh niên, thiếu niên nhi
đồng. Như Giáo sư Hoàng Chí Bảo đánh giá, Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
là “Quốc bảo” mà còn là “Pháp bảo”.
Bản Di chúc lịch sử ấy đơn giản chỉ “mấy lời để lại”, “tóm tắt vài việc”, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói, nhưng chứa đựng sự tổng kết lớn lao, đại của người Anh hùng giải
phóng n tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất, thể hiện trí tuệ mẫn tiệp, tầm nhìn xa,
trông rộng của Người đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng nhân dân ta.
Bản Di chúc đó không chỉ những lời n dặn thiết tha, chứa đựng biết bao tình cảm,
hoài bão khí phách, thể hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn trước lúc Người đi xa
đã trở thành một tác phẩm “đặc biệt” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tài sản
cùng quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa lịch
sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Theo GS, TS. Văn Hiền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng
luận Trung ương, nhìn vào lịch sử nhân loại, ngay cả những nhà lãnh đạo tài ba nhất,
thông thái nhất cũng không bản di chúc nào có giá trị đích thực thiêng liêng và thực
13
chất như vậy. c luôn quan niệm sự nghiệp cách mạng của chúng ta nhất định sẽ thành
công, nhất định thắng lợi, nhất định sẽ đi đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước,
cho nhân dân. Bác đã dành nhiều thời gian, tập trung suy nghĩ, chỉnh sửa nhiều lần nhất
cho văn bản quan trọng này Điều đó càng thể hiện tinh thần trách nhiệm, tấm lòng của
Bác đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc đối với tương lai của đất
nước.
Khẳng định giá trị lịch sử trường tồn của bản Di chúc, đồng chí Phạm Đình Đảng, Phó
Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu hiện rực rỡ
nhất, sâu thẳm nhất về đức khiêm tốn của người Việt Nam, của một người Cộng sản. Tất
cả điều đó đã hội tụ, kết tinh và chỉ đạo sự nghiệp của chúng ta từ khi Người còn sống.
đặc biệt 50 m vừa qua, chúng ta đã đi qua chặng đường lịch sử hết sức vinh quang
trong toàn bộ lịch sử n tộc chúng ta. ng đó cũng nguyện vọng của đông đảo nhân
dân. Cũng chính điều đó Đảng ta đã xếp Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một
trong năm quốc bảo Việt Nam.
2.
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc định hướng
bản, quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩahội Việt Nam cả
hôm nay và mai sau
Nửa thế kỷ trôi qua nhưng những tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trong bản Di
chúc vẫn ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. GS, TS. Hoàng
Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, thành viên Hội đồng luận Trung ương, Chủ tịch Hội
đồng Khoa học, Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực (ISSTH), người đã
hơn 40 năm nghiên cứu về cuộc đời, tưởng, sự nghiệp của Bác Hồ cho biết, Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ với 1.000 từ, nhưng Người đã làm một tổng kết lớn
luận thực tiễn về cách mạng Việt Nam, về sự nghiệp của Đảng, của dân tộc Người
trọn đời gắn bó, dấn thân và dâng hiến. Người cũng đặt ra vấn đề dự báo trong tương lai.
Với tất cả sự nhạy cảm linh cảm, Người biết rằng, đổi mới thường xuyên lâu
dài, một cuộc chiến đấu khổng lồ, chống lại những cái kỹ, hỏng, lỗi thời, hướng
tới tiến bộ, phát triển tốt đẹp, thế phải dựa vào dân, tập hợp dân thành phong trào, lực
lượng để dân thực hiện. GS, TS. Hoàng Chí Bảo nêu rõ, việc tìm hiểu về minh triết Hồ
Chí Minh trong bản Di chúc của Người để lại cho đồng bào, đồng chí, bầu bạn quốc tế
càng thêm thấu hiểu thấu cảm về Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn viết Di chúc
vào dịp sinh nhật để vui chứ không buồn. Sự sống vốn mạnh hơn cái chết. Lấy sự sống
để vượt lên cái chết, với Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bản lĩnh văn hóa. Người thực sự
là một hiện tượng văn hóa độc đáo.
Nhà báo Đăng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng
Biên tập Tạp chí Cộng sản, chia sẻ: qua nhiều ý kiến báo cáo cũng như tham luận tại Hội
thảo đã làm nhiều nội dung trong Di chúc. những tham luận với góc nhìn tổng thể
cũng những báo cáo đề cập với một vấn đề cụ thể trong Di chúc liên hệ với tình
hình thực tế. Từ đó, chúng ta càng học thêm được những điểm mới cũng như những giá
trị lịch sử và giá trị định hướng Di chúc đã chỉ ra. Theo ông, từ Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, chúng ta càng thêm thấy một con người thật một cuộc đời huyền
14
thoại. tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc định hướng bản, quan
trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam cả hôm nay mai sau,
mục tiêu đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, bao quát toàn
diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Về mối quan hệ giữa đảng cộng sản cầm quyền với nhân dân, PGS,TS. Đoàn Thế Hanh,
Học viện Chính tr quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, lời dặn của Bác sau cùng chủ yếu
đặt vấn đề mối quan hệ giữa Đảng với dân, thể hiện trách nhiệm của Đảng 3 cách.
Một Đảng ta Đảng cầm quyền, hai Đảng ta đầy tớ, ba Đảng người lãnh đạo.
đây suy cho cùng vai trò, trách nhiệm thuộc về Đảng quang vinh. Làm tròn 3 trách nhiệm
này; một cái đòi hỏi thuộc về phẩm chất của Đảng, hai ng lực của đảng cái thứ
ba thái độ, tinh thần trách nhiệm của Đảng. cách Đảng lãnh đạo thì Đảng phải
lựa chọn, tuyển lựa được đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng cả đức lẫn tài, đủ phẩm
chất để thể hiện được vai trò lãnh đạo hoạch định đường lối đưa đất nước đi lên.
Với gần 50 tham luận được gửi đến và 08 tham luận được trình bày tại Hội thảo, có thể
thấy, các nhà nghiên cứu, các học giả đều khẳng định những thành tựu Đảng, Nhà
nước nhân n ta đã đạt được trong thực hiện những lời căn dặn của Người suốt 50
năm qua. Nhiều kết quả, thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực đã được các tham luận
phân tích rất sâu sắc, phong phú, như về tăng cường xây dựng và nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng trong sự nghiệp đổi mới; rèn luyện đạo đức, phong cách, phẩm
chất của người cán bộ, đảng viên hiện nay; vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn;
chính sách đối với người công với cách mạng, thương bệnh binh, cựu thanh niên xung
phong; phát triển kinh tế văn hóa; xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, về
“quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ; xây dựng, củng cố
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa, bảo vệ môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
Kết luận Hội thảo, PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản khẳng
định, năm 2019 đánh dấu chặng đường nửa thế kỷ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực
hiện Di chúc của Người. Đặc biệt, khi các quyết nghị của Trung ương về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, o riết, đạt được những kết quả cụ thể,
rệt trong thời gian qua, góp phần củng cố lòng tin của c tầng lớp nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng. Điều đó đã tiếp tục khẳng định tầm vóc tưởng, tầm nhìn xa của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Theo PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, trong suốt 50 m qua, những nội
dung về đoàn kết, thống nhất trong Đảng; quan tâm chăm lo xây dựng đào tạo, bồi dưỡng
thế hệ ch mạng cho đời sau; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
hội; về nhân dân lao động... luôn được xem những trọng điểm để các cấp, các
ngành, địa phương quyết tâm thực hiện.
Đồng chí Đoàn Minh Huấn nhấn mạnh, trong giai đoạn hiện nay, thực hiện Di chúc của
Chủ tịch Hồ CMinh, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần đề cao ý thức tự
giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, đẩy lùi hiện tượng ‘tự
diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa,’ tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng; thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng
15
Chỉ thị số 05-CT/TW (ngày 15-5-2016) của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo ởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đưa việc học tập làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ thường xuyên của toàn thể cán bộ, đảng
viên và nhân dân,” việc làm đúng đắncần thiết. vậy, việc kỷ niệm 50 năm ngày
Bác mất 50 năm thực hiện Di chúc của Người cũng dịp để mỗi cán bộ, đảng viên,
mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình, phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như di nguyện của Người.
3.
Lời tạm kết
Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị
lịch sử ý nghĩa định hướng cho cách mạng Việt Nam. Những tưởng Chủ tịch
Hồ Chí Minh để lại trong Di chúc vẫn ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng
Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai.
Chương 3. Những giá trị nhân văn sâu sắc trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí
Minh
Bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ một tài liệu chính trị, còn biểu
tượng của những giá trị nhân văn sâu sắc ông gắn với tình yêu nước lòng trung
hiếu. Trong từng câu từ, ta cảm nhận được tâm huyết về tư duy nhân quảng, lòng nhân
ái và ý chí xây dựng một xã hội công bằng và tự do. Bản di chúc không chỉ một bảng
kế hoạch còn câu chuyện về đạo đức lòng trung hiếu, nguồn động viên mãnh
liệt cho những người theo đuổi con đường xây dựng đất nước phồn thịnh công bằng.
Trước những giá trị nhân văn to lớn này, chúng ta như bước vào một thế giới của lòng
tin ý chí, nơi mỗi hành động, mỗi quyết định đều được châm ngôn "Nhất dân, nhất
nước" hướng dẫn. Bản di chúc không chỉ di sản lịch sử, còn nguồn định hình
tâm hồn và tư tưởng cho thế hệ người Việt hiện tại và tương lai.
1.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân
Một trong những nội dung bao trùm, th hiện đậm nét trong bản Di chúc tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người giá trị nhân văn. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh đã được hình thành sớm, nhân tố hằng xuyên trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng phong phú của Người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết
cao nhất khát vọng, ý chí đấu tranh để giải phóng con người, giải phóng gia cấp,
giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam đồng thời p phần vào sự nghiệp
đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Trải xuyên qua hàng ngàn năm lịch sử dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh một
trong những nhân vật kiệt xuất, biểu tượng của Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Với Hồ
Chí Minh, các giá trị về con người được biểu đạt bằng lòng nhân ái, đức khoan dung,
tình yêu nước nhiệt thành sự trung thành tuyệt đối với sứ mệnh Tổ quốc, nhân dân
16
giao phó. Người đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, nền
độc lập của nhân dân Việt Nam cho tất cả các n tộc bị thống trị, dịch. Do vậy,
Hồ Chí Minh không chỉ nhà u ớc còn nhà quốc tế chnghĩa kiên trung,
giàu lòng nhân ái.
Lòng yêu thương, quý trọng con người của Hồ Chí Minh cội nguồn sâu xa từ cốt cách
nhân văn của gia đình, dòng họ, quê hương của dân tộc Việt Nam. Bằng ý chí hành
động cách mạng, Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng cho quá trình đấu tranh tự khẳng
định vị thế, sức sống văn hóa ý chí độc lập của một dân tộc. tưởng hoạt động
của Người còn nhiều đóng góp quan trọng cho trào lưu đấu tranh anh dũng của các
dân tộc yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khái niệm “Giải phóng” là điểm
cốt yếu, giá trị trung tâm. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng không chỉ là nhằm xóa bỏ
xích xiềng lệ còn quá trình giải phóng mang tính toàn hội, hướng đến một
nền tự do thực sự cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người. Trong suốt cuộc đời
mình, bao giờ, đâu, với cương vị nào, Người cũng luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân
dân, nhất những người lao khổ từng bao đời phải sống trong đói nghèo, lạc hậu, thất
học, bị tước đoạt quyền tự do, dân chủ. ởng của Người thể hiện những khát vọng
ngàn đời của dân tộc Việt Nam nhân dân các nước bị áp bức, nô dịch. Tổng thư
Nguyễn Văn Linh từng viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại. Chủ nghĩa
yêu nước của Người xuất phát từ lòng yêu thương hạn đối với nhân dân bị áp bức.
không dừng lại trong phạm vi dân tộc mở rộng đối với nhân dân lao động toàn
thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc; đồng thời
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc
và tiến bộ hội. Chính vì thế, không chỉ nhân dân Việt Nam yêu quý Người, nhân
dân thế giới cũng đáp lại tình cảm của Người và coi Người như người bạn thân thiết”.
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ những giá trị kết tinh của truyền thống
văn hóa Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam còn sự hợp luyện tinh hoa
của văn hóa châu Á và thế giới. Xuất thân từ một xứ nông nghiệp lạc hậu, trong một gia
đình Nho giáo, nhưng trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước,
“những đất tự do, những trời lệ”, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, tìm hiểu nhiều
khuynh hướng chính trị, nghiên cứu nhiều hệ tưởng khác nhau. Nhà sử học đồng thời
nhà cách mạng Trần Văn Giàu cho rằng: Mượn tàu buôn làm phương tiện, nhà yêu
nước trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc đã qua cả hai bờ Đại Tây ơng, định London, Paris.
Mỹ, Người học tập Washington, Lincoln; Pháp nghiên cứu Tuyên ngôn dân quyền
và nhân quyền, thích Michelet, Jaurès. Chủ nghĩa nhân văn phương Tây cận đại cho
hạn chế cũng mở ra một khoảng chân trời bởi tính phổ biến (Unversalism) bắt gặp
tưởng đại đồng Nho giáo.
Trong những năm ớc ngoài, Người đã tìm hiểu, thâm nhập vào nền văn hóa Pháp,
văn hóa -viết, văn hóa dân chủ mới Trung Quốc,… đã đọc W.Shakespeare,
Ch.Dickens, V.Hugo, A.France, L.Tolstoy, Lỗ Tấn,… từ nguyên bản. Với vốn ngoại ngữ
17
phong phú, Người đã dịch Quốc tế ca của E.Pottier (Pháp), Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản của K.Marx - F.Engel, Tinh thần luật pháp của Montesquieu, Tỉnh ủy mật của
Phedrov (Nga), n dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên v.v… ra tiếng Việt[3]. Do nền
tảng tri thức phong phú, tầm kiến văn rộng lớn nên ngay sau khi trở về nước chuẩn b
cho cao trào cách mạng mùa Thu năm 1945, nhiều giá trị văn hóa, nhân văn thế giới đã
được Người giới thiệu, lan tỏa trong công chúng. Trong di sản Hồ CMinh, “Các bài
thơ, tiểu luậndiễn văn của Người phản ánh một sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử văn
minh nhân loại một niềm tin chung thủy đối với bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc,
quốc gia, kể cả dân tộc mìnhcác dân tộc khác trên thế giới. vậy, Người được yêu
mến, khâm phục và kính trọng trên toàn thế giới”.
Với Hồ Chí Minh, yêu nước đồng nghĩa với thương dân. Tình thương của Người với
nhân dân không phải từ một đấng bề trên sự đồng cảm, cộng cảm sự truyền nối
những giá trị linh thiêng, máu thịt tự trong hai chữ “đồng bào”. Hiểu thấu nỗi thống khổ
của nhân dân, nỗi nhục của một dân tộc mất quyền tự do (mà dân tộc ấy từng đạt được
nhiều vinh quang trong quá khứ), Người đã khát khao kiếm tìm một con đường đi mới
cho dân tộc. Con đường đó không chỉ nhằm đến sứ mệnh phục hưng quốc thống còn
muốn đạt đến những thang bậc, giá trị mới trong duy chính trị của thời đại, đem lại
nền độc lập, quyền tự do, dân chủ cho nhân dân.
Trong nhận thức của Người, thương dân thì điều nhất thiết và trước hết phải cứu dân
thoát khỏi gông cùm lệ. Nhưng muốn cứu nước, cứu dân thì phải dựa vào dân, huy
động nguồn lực nội sinh tự chính n tộc mình. Nhân dân (nhất nông dân, công nhân...)
lực lượng đông đảo, chủ đạo, mạnh mẽ, kiên định của cách mạng. Dựa vào sức mạnh
của nhân dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân thì Đảng lãnh đạo thể lật đổ chế độ
thống trị của thực dân ách đô hộ phong kiến. Để làm nên sự nghiệp lớn lao đó, H
Chí Minh đã tìm mọi cách làm giàu tri thức của mình bằng những giá trị tinh thần
cách thức vận động quần chúng, đấu tranh của nhiều lãnh tụ cách mạng trên thế giới. Do
vậy, “Chất con người Hồ Chí Minh chất Việt Nam, chất cách mạng, chất cộng sản,
chất nhân văn, tất cả gặp gỡ, hòa quyện trong một con người được nâng lên do sứ
mệnh lịch sử của con người đó”. Nói cách khác, “Hồ Chí Minh đã biết áp dụng một cách
tài tình các nguyên bất tử của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam và lịch sử đã chứng minh Người đã có lý”.
Sự nghiệp cách mạng - Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh gắn liền với những sự kiện
quan trọng trong lịch sđấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam để giành đoạt lại
quyền sống, quyền tự domưu cầu hạnh phúc. Thành công của Cách mạng tháng Tám
năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 cùng những thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ miền Nam, thành tựu của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa hội
miền Bắc… những minh chứng giàu sức thuyết phục về năng lực sáng tạo, sức sống
của một hình nhà nước mới. Do vậy, những thắng lợi của Việt Nam nguồn động
viên cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và phong trào vì hòa
bình, dân chủ tiến bhội. Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh
một trong những người châu Á đầu tiên, bằng trí tuệ, sự nhạy cảm chính trịlòng yêu
nước đã tiếp thu tưởng về đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa của V.I. Lênin
18
để rồi biến những khí luận đó thành lực lượng vật chất cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi trong cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945, góp phần làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của ch nghĩa
thực dân châu Á. Nghe theo lời hiệu triệu của Người, tin vào tài năng tổ chức, nhân
cách của Người, nhân dân Việt Nam đã kiên quyết đứng lên thiết lập nền dân chủ, cộng
hòa đầu tiên Đông Nam Á tiếp đó đã bảo vệ thành quả cách mạng bằng cuộc kháng
chiến bền bỉ chống thực dân Pháp[10]. Với Hồ Chí Minh, lời nói luôn gắn liền với hành
động, luận luôn đi đối với thực tiễn. Theo Đại tướng Nguyên Giáp: “Người nhà
chiến lược thiên tài đồng thời nhà tổ chức đại. Nguyễn Ái Quốc người đầu tiên
viết “Bản án chế độ thực dân” cũng chính Người đã cùng với dân tộc thi hành bản án
ấy”.
Luận giải về cội nguồn của Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, nhà sử học Trần Văn Giàu
cho rằng, Hồ Chí Minh được sinh thành trong một gia đình, vùng quê “địa linh” giàu
đậm tinh thần yêu nước, truyền thống văn hóa và chất nhân văn. Vùng quê đó đã sinh ra
một Nhân kiệt làm rạng danh cho đất nước. Nguyễn sinh ra lớn lên như được tắm
gội trong môi trường xã hội, n hóa ấy. Rồi đi với cha vào kinh. Với tính cần học di
truyền, với trí nhớ thông minh đặc biệt, Nguyễn tiếp thu nền quốc học Việt Nam đã phát
triển tới mức cao nhất từ trước tới lúc bấy giờ trên các mặt lịch sử, triết lý, văn chương
cả bác học lẫn dân gian. Chính cái túi khôn ngàn đời đó sẽ giúp cho Nguyễn tha hương
không tha hóa, lại sáng tạo được với sắc thái Việt Nam khó lẫn lộn”. Từ Luận cương
của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã đến với những tưởng đại của K.Marx - F.Engel,
tiếp cận theo đuổi các mục tiêu đấu tranh một chủ nghĩa nhân văn các giá trị
mới: Chống thực dân gắn liền với sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh xuất phát từ cội nguồn dân tộc, quốc tế ấy và thực tế
đã đạt đến độ hòa luyện cao với những mục tiêu giá trị chung, lớn lao của khu vực, nhân
loại.
người chứng kiến, trải nghiệm qua nhiều thách thức khắc nghiệt lịch sử, “tài năng
kiệt xuất của nhà cách mạng, người tchức cổ những thắng lợi đại nhất của
nhân dân Việt Nam, tính nhân đạo sâu sắc sự giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thu phục được sự mến yêu sự kính trọng vô hạn của nhân dân nh toàn thể loài
người tiến bộ”. Nghe theo lời hiệu triệu: “Không quý hơn độc lập, tự do”, thực hiện
Di chúc thiêng liêng của Người, sự tồn vong của đất nước danh dự của chính mình,
nhân dân Việt Nam đã anh dũng đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù hùng mạnh, hung hãn
nhất thế giới. Trong sự nghiệp cao cả đó, Hồ Chí Minh “được ghi nhớ không phải chỉ
người giải phóng cho Tổ quốc nhân dân bị đô hộ, còn một nhà hiền triết hiện
đại đã mang lại một viễn cảnh hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không
khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”.
Vào thế kXX, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với nhiều đế chế lớn thế giới. Chủ
quyền, nền độc lập của dân tộc nhiều lần bị đe doạ nghiêm trọng. Chưa một thế kỷ
19
nào trên lãnh thViệt Nam lại xuất hiện đồng thời nhiều đội quân xâm lược nước
ngoài như thế, cũng chưa một thế kỷ nào đất nước Việt Nam lại phải chịu nhiều
hy sinh, tổn thất như vậy! Nhưng, Việt Nam đã đứng vững, đã từng bước hồi sinh
phát triển. Đó là cuộc hồi sinh đại của một dân tộc có sinh lực văn hóa mạnh mẽ.
người đứng đầu trào lưu đấu tranh của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh trở thành biểu
tượng của niềm tin, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần dũng cảm của một dân tộc. Khát
vọng mạnh mẽ, ham muốn tột bậc của Người về một Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân
dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành
đã trở thành khẩu hiệu hành động, mục tiêu đấu tranh chất kết tụ tinh thần đoàn kết,
sức mạnh của nhân dân cả nước. Đó tưởng chính tr đồng thời tưởng nhân văn
cao cả mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo, dày công vun đắp, xây dựng.
Thủ tướng Phạm n Đồng viết: “Hồ Chủ Tịch thành công trong sự nghiệp to lớn này
Hồ Chủ tịch tiêu biểu cho nước Việt Nam, cho dân Việt Nam. Nguyện vọng tối cao
của nước, nguyện vọng tha thiết nhất của dân nguyện vọng của Người, lẽ sống, đời
hoạt động của Người. Chính sách, chủ trương chính trị của Người để thực hiện nguyện
vọng ấy: tranh thủ độc lập cho nước, tự do, hạnh phúc cho dân. Nhìn vào chính sách
chủ trương ấy, quốc dân hoàn toàn tín nhiệm tin tưởng. Uy tín của Hồ Chủ tịch căn
bản chỗ đó. Nhưng giữa Hồ Chủ tịch dân tộc Việt Nam, mối quan hệ còn mật
thiết, nồng nàn hơn: đó là mối quan hệ tình cảm, lòng tương thân, tương ái của Hồ Chủ
tịch với dân tộc Việt Nam của dân tộc Việt Nam với Hồ Chủ tịch”[15]. Chủ nghĩa
nhân văn cao cả của Người “là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời
đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống văn
hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn
trên con đường tiến n thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử chế độ
thuộc địa”.
2.
tưởng bình đẳng, bác ái niềm tin con người
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, nghiên cứu, kế thừa những tưởng lớn của
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn Dân quyền Nhân quyền
của cách mạng Pháp m 1791,... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thế giới
về nền độc lập của dân tộc Việt Nam, về quyền bình đẳng của tất cmọi người, đồng
thời Người cũng khẳng định quyền được sống, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của
nhân dân Việt Nam. Đó chân bất tử, quyền sống, quyền tự do không ai thể bác
bỏ, xâm phạm. Tuy nhiên, trong suốt hơn 8 thập niên độ hộ Việt Nam, thực dân Pháp đã
tìm mọi cách chia rẽ về chính trị, xóa bỏ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Cùng với
đó, về kinh tế thực dân Pháp đã “bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân
nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”.
tưởng của Hồ Chí Minh về con người luôn thấm đượm triết luận, chất nhân văn Á
Đông. Theo Người, tính thiện, ác trong mỗi con người không phải bản tính tự nhiên
do xã hội, chế độ giáo dục quy định nên. Hơn thế, bản tính của con người cũng thể
biến đổi theo thời gian do những tác nhân hội để thích ứng với môi trường sống,
xu thế hội. “Người tôn trọng từ bi của đạo Phật như cái gốc của đạo đức... tình cảm
ấy hòa hợp với lòng yêu nước, thương dân”. Lúc hoạt động ở nước ngoài cũng như khi
20
về nước, Hồ Chí Minh luôn tích cực, chủ động tiếp thu tinh hoa các nền văn hóa để làm
giàu thêm vốn tri thức, tinh thần nhân văn sự hiểu biết về con người. Trong suốt cuộc
đời mình, Hồ CMinh luôn quan tâm đến vấn đề con người, nhân dân, đất ớc
chính Người đã dâng hiến cả cuộc đời cho nhân dân, đất nước.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng yêu thương con người là giá trị bao trùm, quán xuyến
toàn bộ tư tưởng, suy nghĩ hành động. Bản Di chúc sự chưng cất những suy nghĩ,
tưởng của Hồ Chí Minh về con ngườicon người. Theo quan điểm Hồ Chí Minh,
con người vốn quý nhất, nhân tố trung m, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Để thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc cần phải những
con người toàn diện. Đó những người vừa đức vừa tài, trong đó đức gốc.
Người từng chỉ rõ: “Đạo đức thể nói tóm tắt là: Nhận phải trái. Gi vững lập trường.
Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Hồ Chí Minh cho rằng, bất kỳ lúc nào, đâu,
làm việc người cán bộ, đảng viên cũng cần “phải thấm nhuần đạo đức cách mạng”.
Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền thì vấn đề đạo đức càng trở nên quan trọng. Đảng
viên, cán bộ phải vừa người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân. Năng lực, đạo đức của người cán bộ phải được thể hiện cụ thể trong mọi suy nghĩ,
hành động; phải luôn tiên phong, sẵn sàng gánh nhận việc khó khăn, gian khổ, phải đặt
lợi ích của đất nước, tập thể lên trên hết và phải thụ hưởng sau mọi người.
Trải qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, quan điểm của Hồ Chí Minh
về con người ngày càng phát triển, toàn diện. nhiều bài viết, Người luôn coi con người
vừa mục tiêu vừa động lực cánh mạng. Tầm nhìn Hồ Chí Minh về con người không
chỉ là giải phóng nhân dân thoát khỏi xích xiềng lệ mà còn việc bảo đảm cơm no,
áo ấm, trang bị tri thứchạnh phúc thực sự cho người dân. Đó chính giá trị đích thực
của nền độc lập, tự do bao thế hệ chiến cách mạng, nhân dân đã phải hy sinh, đổ
máu để giành đoạt lại. Hồ Chí Minh nhìn thấy quy luật vận động, phát triển của lịch
sửđã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi theo quy luật ấy. Nhiều nhà nghiên cứu trong
nước, quốc tế từng luận bàn về phong cách an nhiên tự tại, phong độ Hồ Chí Minh.
thể hiểu: “Phong độ ung dung của Hồ Chí Minh phong độ của người nhận thức được
quy luật của lịch sử, tin ở nhân dân nhân dân, con người biết mình muốn đi
đến đâu, biết tránh thác ghềnh, biết thắng quân địch, con người tĩnh như núi, động như
21

Preview text:

MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
Phần 1. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 3
2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4
3. Kết cấu của bài tiểu luận ..................................................................................... 4
Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................................. 4
Chương I. Khái quát về bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh .................................... 4
1. Hoàn cảnh ra đời ................................................................................................. 4
2. Quá trình viết di chúc của Bác ............................................................................ 5
3. Những nội dung cốt yếu trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh .............. 7
Chương II. Những giá trị lịch sử to lớn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh_văn kiện lịch sử vô giá của nhân dân Việt
Nam ................................................................................................................... 12
2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc là định hướng cơ bản,
quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cả hôm
nay và mai sau ....................................................................................................14
3. Lời tạm kết ......................................................................................................... 16
Chương III. Giá trị nhân văn sâu sắc trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân ........................................................... 17
2. Tư tưởng bình đẳng, bác ái và niềm tin ở con người ......................................... 21
3. Những suy nghĩ về thời hậu chiến ..................................................................... 24
4. Lời tạm kết ......................................................................................................... 28
Phần 3. Kết luận ............................................................................................................ 29
Phần 4. Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 30 2 LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh
không mệt mỏi và dâng hiến cả một đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng
sản chủ nghãi, vì độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, vì hòa bình và công lý trên thế
giới. Trước khi người ra đi, Người đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta một di sản lớn, đó
chính là những lời cuối cùng trong bản Di chúc của Người, Như một bài học lớn cho bao
lớp thế hệ con cháu. 50 năm đã trôi qua, nhưng những tư tưởng, tình cảm mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta vẫn là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việc lựa chọn đề tài "Những giá trị lịch sử và nhân văn trong bản di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh" là một quyết định tỉnh táo, nhằm khám phá sâu sắc về di sản văn hóa và
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với lịch sử Việt Nam. Bản di chúc, như một bản
tuyên ngôn tâm huyết, là không chỉ một biểu tượng của cuộc chiến tranh giải phóng, mà
còn là nguồn tư duy nhân văn và lịch sử quý báu.
Những dòng chữ trong bản di chúc không chỉ là những câu văn đơn thuần, mà là những
hồi ký đầy nghệ thuật của một lãnh tụ tài năng. Trải qua những giai đoạn lịch sử quan
trọng, bản di chúc không chỉ kể lên câu chuyện của một quốc gia đang chiến đấu cho
độc lập mà còn là bức tranh về tư tưởng nhân văn, lòng yêu nước và tầm quan trọng của
mỗi cá nhân trong xã hội.
Tư tưởng về độc lập và tự do không chỉ là mục tiêu cao cả, mà còn là tia hy vọng dẫn
dắt nhân dân Việt Nam qua những thử thách khó khăn. Bản di chúc thể hiện tình yêu
nước cháy bỏng, với những đoạn văn sâu sắc về lòng trung hiếu, lòng đoàn kết dân tộc
và lòng tự chủ tự quyết.
Đồng thời, nó cũng là biểu tượng của sự hiểu biết sâu sắc về tư tưởng Mác - Lênin, và
tầm quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hướng dẫn chiến lược và mục
tiêu quốc gia. Bản di chúc không chỉ nói về chiến tranh mà còn về tầm quan trọng của
hòa bình, đặt ra mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng và hòa bình sau những năm chiến tranh khốc liệt.
Với đề tài này, chúng ta không chỉ mở cửa sổ nhìn vào quá khứ, mà còn nắm bắt ý nghĩa
của những giá trị lịch sử và nhân văn này đối với hiện tại và tương lai của Việt Nam.
Bản di chúc là một bức tranh lớn, một nguồn cảm hứng vô tận và là di sản quý báu mà
chúng ta cần bảo tồn và khám phá. 3
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm bài tiểu luận, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu để khám
phá "Những giá trị lịch sử và nhân văn trong bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh".
Nó đòi hỏi sự kết hợp linh hoạt giữa nghiên cứu văn bản, tìm kiếm và tổng hợp tài liệu,
chọn lọc thông tin liên quan và hình ảnh phù hợp để đưa vào bài viết của tôi một cách hợp lí nhất.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
Bài tiểu luận gồm 4 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo.
Trong phần mở đầu nêu rõ lí do chọn đề tài, phương pháp nghiên cứu và kết cấu bài tiểu luận.
Trong phần nội dung nêu được khái quát về bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
như các giá trị lịch sử và giá trị nhân văn có trong bản di chúc ấy.
Phần kết luận trình bày tóm gọn lại những vấn đề mà bản thân đã nghiên cứu trong chủ
đề “ Giá trị lịch sử và nhân văn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Danh mục tài liệu tham khảo dẫn lại những nguồn tài liệu đã sử dụng trong quá trình làm bài tiểu luận.
PHẦN 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I. Khái quát về bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước, thương
dân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân của vị lãnh tụ vĩ đại, là di huấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh. Có thể khai thác, tìm hiểu
bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng điểm chung
nhất toát lên khi nghiên cứu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Bản Di chúc chứa
đựng cả hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết quốc tế,
về xây dựng Đảng, về đạo đức cách mạng...

1. Hoàn cảnh ra đời
Trong cuộc đời 79 mùa xuân, Bác Hồ đã ở và làm việc ở nhiều nơi, nhưng Người ở và
làm việc lâu nhất là Khu Phủ Chủ tịch (từ 19/12/1954 đến 02/9/1969). Trong 15 năm ấy,
Người sống và làm việc ở nhà sàn nhiều thời gian nhất (từ 19/5/1958 đến 17/8/1969). Từ
ngày 17/8/1969, do điều kiện sức khoẻ của Người, các bác sỹ đề nghị Người không lên
xuống nhà sàn nữa, Người đã xuống ở căn nhà được xây dựng năm 1967. Tại đây, Người
đã được các bác sỹ tận tình cứu chữa, nhưng Người đã ra đi lúc 9 giờ 47 phút ngày
2/9/1969 sau một cơn đau tim. Chuẩn bị cho sự ra đi này, từ năm 1965, khi còn ở nhà
sàn, Bác đã chọn đúng giờ đẹp nhất trong ngày, chọn đúng lúc sức khoẻ tốt nhất trong
những năm đó để viết sẵn Di chúc, mà với đức khiêm tốn cao cả Bác không gọi là "Di
chúc", "Chúc thư" hay "Di huấn"... Bác gọi rất giản dị là "Tài liệu", là "Thư", là " Mấy 4
lời để lại". Bác cũng không muốn cho nhiều người biết việc làm của một người sắp đi
xa, ngại dẫn đến những suy nghĩ không có lợi, nên mở đầu bài viết, Bác ghi rõ "Nhân
dịp 75 tuổi" và phía bên lề trái, Bác ghi chú thêm hàng chữ "Tuyệt đối bí mật". Có nghĩa
tài liệu "Tuyệt đối bí mật" này sẽ chỉ được công bố khi Người đi gặp Cụ Các Mác, Cụ
Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác.
Những lúc thảo tài liệu "Tuyệt đối bí mật", Bác đã ngồi ở chiếc ghế mây để viết hoặc
Bác ngồi đánh máy trên chiếc bàn gỗ được kê trong phòng làm việc tầng hai nhà sàn. Cơ
sở khẳng định điều này có nhiều tư liệu, song những tài liệu đã công bố và lời kể của
đồng chí Vũ Kỳ- nguyên thư ký riêng của Bác, người được Bác tin cẩn giao phó cho cất
giữ cẩn thậntài liệu "Tuyệt đối bí mật" là đáng tin cậy.Trong hồi ký của mình, đồng chí
Vũ Kỳ viết: "Đúng 9h, Bác Hồ ngồi chăm chú viết. Vấn đề chắc đã suy ngẫm từ lâu.
Phòng làm việc trên nhà sàn yên tĩnh. Gió mát dịu, thoang thoảng hương thơm của hoa vườn...
Chính vào giờ phút đó Bác Hồ đặt bút viết những dòng đầu tiên vào tài liệu "Tuyệt đối
bí mật" để dặn lại cho muôn đời con cháu mai sau".
2. Quá trình viết di chúc
Theo đồng chí Lê Quang Tùng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết vào thời
điểm bản lề của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; cách mạng dù còn khó khăn
song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng. Trong Di chúc, Bác
căn dặn nhiều điều: Trước hết nói về Đảng. Bác dạy: Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Người tâm huyết nhắc nhở các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ: cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình. Đặc biệt, Bác nhấn mạnh: Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Điều đó cho thấy sự nung nấu, suy tính
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều năm, chứa đựng chiều sâu của tư tưởng, tình cảm,
chiều cao trí tuệ của Người.
Di chúc là một văn kiện lịch sử vô giá, toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng
của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, là kết tinh của tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm
hồn cao đẹp của một vĩ nhân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Di chúc
là những lời căn dặn thiết tha, chứa đựng biết bao tình cảm, hoài bão và khí phách, thể
hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn dò trước lúc Bác đi xa.
Trong các tác phẩm Càng nhớ Bác Hồ và Hồi ký Bác Hồ viết Di chúc, đồng chí Vũ Kỳ,
thư ký của Bác Hồ nêu rõ, Bác bắt đầu viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc để lại
cho muôn đời sau vào lúc 9 giờ sáng thứ hai, ngày 10/5/1965; đến 10 giờ, Bác viết xong
phần mở đầu. Bác xếp tài liệu lại và chuyển sang làm các công việc thường ngày. Các 5
ngày tiếp theo, ngày 11, 12, 13/5/1965, cũng vào giờ đó (từ 9 giờ đến 10 giờ), Bác viết
tiếp các phần còn lại. Riêng ngày 14/5/1965, do buổi sáng có lịch đi thăm một hợp tác
xã ở ngoại thành Hà Nội và dự một phiên họp của Bộ Chính trị, Bác chuyển viết Di chúc
sang buổi chiều với thời gian gấp đôi, từ 14 giờ đến 16 giờ. Đúng 16 giờ, Bác đánh máy
xong bản Di chúc và cho vào phong bì. Đến 21 giờ hôm đó, Bác giao chiếc phong bì cho
đồng chí Vũ Kỳ và dặn: “Chú cất giữ cẩn thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa lại cho Bác”.
Và cứ đến dịp sinh nhật Bác hằng năm, đồng chí Vũ Kỳ lại đặt bản Di chúc lên bàn làm
việc của Bác; sau đó Bác bổ sung và giao lại cho đồng chí Vũ Kỳ. Bác đọc kỹ bản Di
chúc xem xét, cân nhắc kỹ từng đoạn, từng câu, từng ý, từng lời và bổ sung thêm vào
bản Di chúc tùy theo tình hình đất nước. Đặc biệt là qua tình hình chiến sự miền Nam,
Bác lại viết thêm những phần cần thiết vào bản Di chúc. Năm 1966, Bác bổ sung thêm
phần nói về tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong đó Bác nhấn mạnh: “Phải có tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Năm 1967, Bác xem lại bản Di chúc, nhưng không sửa
gì. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang, gồm một số đoạn về việc riêng và một số công việc
cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi. Năm 1969, Bác xem
và viết lại toàn bộ phần mở đầu gồm 1 trang viết tay. Ngày 19/5/1969, Bác sửa lần cuối.
Theo đồng chí Nguyễn Văn Công, Giám đốc Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch,
những bút tích của Bác còn lại trong các bản Di chúc đã cho thấy, đây là văn bản được
Bác tập trung thời gian, suy nghĩ, chỉnh sửa nhiều nhất so với các văn bản bút tích của
Bác để lại. Điều đó, thể hiện tinh thần trách nhiệm của Bác trước sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, nhưng đó còn là tấm lòng của vị lãnh tụ với tương lai đất nước. Bản Di chúc
còn mang nét độc đáo rất riêng nữa là, dù bút tích Bác ghi rõ "Tuyệt đối bí mật", nhưng
đây lại là tài liệu được công bố rộng rãi nhất, được nhiều thế hệ học tập, noi theo. Toàn
văn Di chúc của Bác Hồ đã được Bộ Chính trị cho công bố và xuất bản cùng ngày tổ
chức lễ quốc tang 9/9/1969. Di chúc và toàn bộ tư tưởng của Bác là tài sản vô giá để lại
cho Đảng và nhân dân ta.
Theo cuốn Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, ngày
19/5/1969 Bác xem lại Di chúc: “Đúng 9h, Bác ngồi vào bàn làm việc với bản Di chúc
trước mặt. Bên ngoài nắng đã lên cao. Những chùm hoa phượng nở sớm, bắt nắng khoe
màu rực rỡ. Mặt hồ lăn tăn gợn sóng, lấp lánh ánh mặt trời. Một làn gió mát rượi ùa vào
khung cửa sổ làm bay bay những sợi tóc bạc của Bác. Bác ngồi đó, tựa lưng vào thành
ghế thoải mái, ung dung, nét suy tư hiện lên trên vầng trán rộng...”. Ngày 20/5/1969,
“Người xem lại tài liệu lần cuối và xếp vào phong bì cất đi”.
Theo đồng chí Trần Thị Thuấn, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch,
trong cuộc đời 79 mùa xuân, Bác Hồ đã ở và làm việc ở nhiều nơi, nhưng nơi Người ở
và làm việc lâu nhất là khu Phủ Chủ tịch (từ ngày 19/12/1954 đến 02/9/1969). Trong 15
năm ấy, Người sống và làm việc ở nhà sàn nhiều thời gian nhất (từ 19/5/1958 đến
17/8/1969). Từ ngày 17/8/1969, do điều kiện sức khoẻ của Người, các bác sĩ đề nghị
Người không lên nhà sàn nữa, Người đã xuống ở căn nhà được xây dựng năm 1967. Tại 6
đây, Người đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng Người đã ra đi lúc 9 giờ 47 phút
ngày 2/9/1969 sau một cơn đau tim. Chuẩn bị cho sự ra đi này, từ năm 1965, khi còn ở
nhà sàn, Bác đã chọn đúng giờ đẹp nhất trong ngày, chọn đúng lúc sức khoẻ tốt nhất
trong những năm đó để viết sẵn Di chúc, mà với đức khiêm tốn cao cả Bác không gọi là
“Di chúc”, “Chúc thư” hay “Di huấn"... Bác gọi rất giản dị là “Tài liệu”, là “Thư”, là
“Mấy lời để lại”. Bác cũng không muốn cho nhiều người biết việc làm của một người
sắp đi xa, ngại dẫn đến những suy nghĩ không có lợi, nên mở đầu bài viết, Bác ghi rõ
“Nhân dịp 75 tuổi” và phía bên lề trái, Bác ghi chú thêm hàng chữ “Tuyệt đối bí mật”.
Có nghĩa tài liệu “Tuyệt đối bí mật” này sẽ chỉ được công bố khi Người đi gặp Cụ Các
Mác, Cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác.
Như vậy, bản Di chúc đã được Bác khởi thảo từ ngày 10/5/1965. Ngày 20/5/1969 là ngày
Bác xem lại lần cuối cùng. Trong khoảng 4 năm ấy cứ vào trung tuần tháng 5 hằng năm,
phần lớn mỗi ngày Bác đều dành 1 giờ để xem lại, sửa chữa, bổ sung những chỗ cần
thiết, có khi viết thêm một số trang, hoặc sửa chữa một số câu, có khi chỉ thay đổi một
vài chữ trong Di chúc. Với trách nhiệm với hậu thế, Bác cân nhắc từng ý, từng lời, nhưng
mỗi ý, mỗi lời đều giản dị, chân thành, trong sáng, tự nhiên như chính cuộc đời mà Bác đã sống.
Với những đồng chí làm việc tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch,
liên quan đến sự ra đời bản Di chúc lịch sử Bác Hồ để lại, Bác thể hiện trên những bản
thảo Di chúc Bác viết tay hay những trang Di chúc Bác tự tay đánh máy, còn có nhiều
kỷ vật khác. Đó là ngôi nhà sàn, là phòng làm việc tầng 2 nhà sàn, là bộ bàn ghế Bác vẫn
thường ngồi làm việc và đã ngồi để thảo Di chúc, là chiếc giá sách trên đó Bác đã từng
cất tài liệu “Tuyệt đối bí mật”, là chiếc máy chữ Bác đã dùng đánh văn bản và đánh Di
chúc (bản năm 1965), những chiếc bút Bác đã dùng để viết, sửa chữa, bổ sung Di chúc,
là chiếc phong bì Bác đựng tài liệu “Tuyệt đối bí mật”... Tất cả đều là những di vật lịch
sử, đã tồn tại cùng với sự tồn tại của ngôi nhà sàn, trong thời gian và không gian Bác đã
ở và làm việc ở khu Phủ Chủ tịch. Chúng đã trở thành những vật chứng thiêng liêng,
chứng kiến những hoạt động cụ thể của Bác Hồ, chứng kiến những suy nghĩ sâu sắc được
Bác nghiền ngẫm, chắt lọc để rồi được hiện hữu thành di sản văn hoá cho muôn đời sau,
không chỉ cho các thế hệ người Việt Nam mà còn cho cả nhân dân yêu lao động, hoà
bình, công lý trên thế giới...
3. Những nội dung cốt yếu trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh 7
“Trước hết nói về Đảng”
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trước hết nói về Đảng”, “theo ý tôi, việc
cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng” là cách mà Người đề cập đến vấn đề cốt
tử này. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh cũng nói: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Đây là hai nội dung trọng yếu, có mối quan hệ biện chứng được Người đề cập trong Di chúc.
Một là, về các nguyên tắc tổ chức của Đảng
Thứ nhất, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Mục tiêu của việc thực hiện nguyên tắc
này là “để củng cố sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Theo Người, “phê bình là nêu
ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch
khuyết điểm của mình”. Tự phê bình và phê bình là cách giúp chúng ta nhìn ra khuyết
điểm của bản thân mình cũng như của đồng chí mình để “thật thà cố gắng tự sửa chữa
và giúp sửa chữa lẫn nhau”.
Tự phê bình và phê bình phải được thực hiện thường xuyên và khéo léo, phải có tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau. Cách thức thực hiện “phê bình và tự phê bình phải từ trên
xuống dưới, từ dưới lên trên”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh tác dụng của phê bình từ dưới
lên. Đây là một tư duy mới, đột phá đòi hỏi đảng viên phải có bản lĩnh mới thực hiện
được. Vì thông thường cấp trên phê bình cấp dưới. Thật không dễ khi cấp dưới phê bình
cấp trên. Làm tốt được nguyên tắc này sẽ củng cố được khối đoàn kết trong Đảng. 8
“Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau” thì mới đạt được kết quả tốt. Người cũng
vô cùng tinh tế khi luôn nhắc nhở “nêu ưu điểm” trước rồi mới “vạch khuyết điểm”. Chỉ
trong vài dòng ngắn ngủi khi đưa ra chỉ dẫn về tự phê bình và phê bình, tư duy biện
chứng của Người đã được thể hiện thật rõ nét và rất sinh động.
Thứ hai, nguyên tắc thực hành dân chủ rộng rãi. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi… là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng”.
Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét trong nguyên tắc làm việc là tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Cách làm việc này huy động được kinh nghiệm, trí tuệ, cách nhìn của đa
số, tránh được góc nhìn phiến diện, giản đơn, một chiều. Tập thể lãnh đạo để tránh việc
cá nhân ôm đồm, bao biện, độc đoán, chủ quan. Cá nhân phụ trách để tránh tình trạng
bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ, không ai chịu trách nhiệm.
Tập thể lãnh đạo là dân chủ; cá nhân phụ trách là tập trung. Hồ Chí Minh vô cùng tinh
tế khi nói “dân chủ tập trung” chứ không nói “tập trung dân chủ”. Dân chủ là điều kiện
để tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ. Dân chủ và tập trung không tách rời nhau.
Như vậy, nguyên tắc này có thể hiểu là, khi thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi của nhiều
người, mọi người được tự do phát biểu ý kiến của mình còn khi đã đi đến kết luận chung,
thì tất cả sẽ phải tuân thủ và sẽ ủy quyền cho cá nhân phụ trách.
Dân chủ trong Đảng là điều kiện quan trọng để thực hiện dân chủ trong xã hội. Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là công cụ, động lực để tiến tới một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc thực sự.
Thứ ba, nguyên tắc đoàn kết và thống nhất. Đây là kết quả tất yếu của việc thực hiện tốt
hai nguyên tắc trên. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Muốn đoàn kết phải giữ gìn kỷ luật của Đảng. Mỗi đảng viên phải tuyệt đối tuân theo kỷ
luật của Đảng, có như vậy Đảng mới thành một Đảng đoàn kết chặt chẽ, ý chí thống
nhất, hành động nhất trí, mạnh mẽ để lãnh đạo nhân dân đến thắng lợi. “Đoàn kết và kỷ
luật làm cho bộ đội mạnh, đoàn thể mạnh”. Đoàn kết là cội nguồn của thành công: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Hai là, về người cán bộ, đảng viên
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở về đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt
trong điều kiện đảng cầm quyền. Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư”. Suy cho cùng, một tổ chức có thành công hay không phụ thuộc 9
vào đội ngũ cán bộ của tổ chức ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đạo đức
cách mạng của đội ngũ này. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - những đức tính ấy
được Người đề cập nhiều trong các bài nói, bài viết trước đó; và một lần nữa lại được
nhấn mạnh trong Di chúc. Chăm chỉ, chuyên cần, tiết kiệm, liêm khiết, chính trực, đặt
lợi ích của đất nước, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân luôn là những
đức tính mà mỗi người cán bộ, đảng viên cần phải rèn luyện, tu dưỡng suốt đời; luôn ý
thức Đảng cũng như cán bộ, đảng viên phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân, không lên mặt “quan cách mạng”. Đặc biệt, cần phải nhìn
hai vị trí này trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Lãnh đạo đòi hỏi tư cách, phẩm
chất, năng lực, còn “đày tớ” đòi hỏi thái độ, tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân.
Ba là, về hai trách nhiệm quan trọng của Đảng
Trước hết, Người bàn về trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ phục vụ cho nhu
cầu trước mắt của cách mạng mà còn quan tâm đến việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau. Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết”. Người đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ: “Non sông
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang
để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở
công học tập của các em”. Người bày tỏ niềm tin vào thế hệ trẻ: “Nước nhà trông mong
chờ đợi ở các em rất nhiều”. Đầu năm 1946, trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn
quốc nhân dịp tết sắp đến, Người khẳng định: “Tuổi trẻ là mùa Xuân của xã hội”. Trong
Thư gửi các bạn thanh niên năm 1947, Người viết: “Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên”. Với thế hệ trẻ, điều quan trọng là phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng,
làm cho họ trở thành những người “vừa hồng vừa chuyên”.
Để bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, cần quan tâm đến thể dục, trí dục, mỹ dục,
đức dục của các em học sinh nhằm làm cho thân thể khỏe mạnh, giữ gìn vệ sinh chung,
vệ sinh riêng, học thêm những tri thức mới, phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp,
làm cho học sinh có năm cái yêu (yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa
học, yêu trọng của công). Trong ba phạm vi gia đình, nhà trường, xã hội, Người chỉ dẫn
cụ thể: “Ở trường, thì kính thầy, yêu bạn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Ở nhà, thì yêu kính
và giúp đỡ cha mẹ. Ở xã hội, thì tùy sức mình mà tham gia những việc có ích lợi chung”.
Thứ hai, về trách nhiệm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Độc
lập, tự do chỉ là bước đầu tiên để hướng đến mục tiêu cuối cùng là hạnh phúc của nhân
dân. Người khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Nhân dân chỉ hiểu được giá trị của hạnh phúc, tự do
khi trước hết họ được ăn no, mặc đủ. 10
Nhân dân là nguồn sức mạnh của Đảng. “Dựa vào dân thì việc gì, dù khó đến đâu cũng
có thể làm được”. Do đó, chăm lo cho nhân dân chính là cách để tăng cường sức mạnh
của Đảng. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải lấy tiêu chí lợi, hại cho dân
làm tiêu chí hành động và thước đo một Đảng cách mạng chân chính. Bác dặn: “Việc gì
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”. Đảng lo cho
dân trước hết là lo những nhu cầu thiết yếu, như ăn, mặc, ở sau đó đến những nhu cầu
tinh thần. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều chủ
trương, chính sách chống đói, chống dốt, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển văn hóa
là để thực hiện một cách thiết thực việc chăm lo đời sống cho nhân dân. Sự thống khổ
của nhân dân là nỗi thống khổ của Người và hạnh phúc của dân chính là hạnh phúc của
Người: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi
ăn không ngon, ngủ không yên”.
Câu nói mộc mạc của Người mà chất chứa ý nghĩa sâu xa, khái quát toàn bộ những nội
dung cốt yếu trong mối quan hệ giữa Đảng với dân, đó là “Đảng phải hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân, phải thấu hiểu rằng lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng”.
“Đầu tiên là công việc đối với con người”
Là lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm
của mình cho mọi tầng lớp nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn những công việc cụ
thể cần làm với từng tầng lớp, đối tượng sau khi nước nhà thống nhất: Đối với những
người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; đối với các liệt sĩ; đối với
cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu; với những
chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; với
phụ nữ; với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ; với nông dân. Những tầng lớp, đối
tượng trên được Hồ Chí Minh dành cho sự quan tâm đặc biệt. Họ là những người đã góp
công sức trực tiếp vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, là lực lượng “yếu thế” trong
xã hội. Người trù liệu, căn dặn từng công việc mà Đảng, Nhà nước cần phải thực hiện
với những đối tượng đặc biệt này.
Con người - vấn đề trung tâm trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Người bàn tới các nguyên tắc tổ chức của Đảng là để xây dựng một Đảng đoàn kết, một
Đảng mạnh hướng tới một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Đây chính là xã hội xã hội chủ nghĩa do con người và vì con người. Do đó, thực
hiện tốt các nguyên tắc tổ chức của Đảng chính là tạo ra công cụ, phương tiện cần thiết
để đạt tới mục tiêu xây dựng một xã hội tất cả vì con người, cho con người.
Khi bàn tới người đảng viên, thực chất là Người đang nói tới con người trong Đảng.
Đảng viên có tốt thì Đảng mới có thể thành công trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. 11
Hai trách nhiệm quan trọng của Đảng là trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau và trách nhiệm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân đều
hướng tới con người. Có thể thấy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng chính là nói
về con người: Đó không chỉ là con người hiện tại trong Đảng (đảng viên) mà còn là con
người mà Đảng phải có trách nhiệm xây dựng làm đội ngũ kế cận trong tương lai (thế hệ
cách mạng cho đời sau) và con người mà Đảng hướng tới phục vụ lợi ích của họ (quần chúng nhân dân).
Bên cạnh các công việc đối với con người mà Hồ Chí Minh đề cập trực tiếp trong Di
chúc thì toàn bộ nội dung bàn về Đảng thực chất cũng chính là bàn về vấn đề con người.
Ở đây, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, có quan hệ biện
chứng với nhau. Do đó, có thể khẳng định, điều cốt lõi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn hậu thế trước lúc đi xa chính là vấn đề con người.
Suy cho cùng, con người là nguồn lực quan trọng nhất của mọi quốc gia. Các nguồn lực
khác dù có dồi dào, phong phú, đa dạng đến đâu nhưng nếu nguồn lực con người thiếu
hoặc yếu thì quốc gia đó khó mà phát triển được. 50 năm đã trôi qua, đọc lại bản Di chúc
thiêng liêng của Người, điều căn cốt mà Đảng và Nhà nước cần tiếp tục quan tâm, đầu
tư, xây dựng, phát triển đó là con người - nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của quốc gia - dân tộc trong thời đại ngày nay.
Chương 2. Những giá trị lịch sử to lớn trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam có một vài bản di chúc của các danh nhân hiền tài có
công với dân tộc, như: Di chúc của Vua Trần Nhân Tông, Hưng đạo Đại vương Trần
Quốc Tuấn… Nhưng hiếm có một Di chúc nào được chuẩn bị công phu, tâm huyết, có
giá trị to lớn về lịch sử như bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

1. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh_văn kiện lịch sử vô giá của nhân dân Việt Nam
Nhận thức sâu sắc quy luật ngặt nghèo của sự sống, trong quá trình bôn ba tìm đường
cứu nước, cứu dân cho đến khi giành được độc lập, tự do cho dân tộc (8/1945), nhưng
độc lập của dân tộc chưa được trọn vẹn, đất nước còn bị chia cắt, điều đó khiến Hồ Chí
Minh chưa lúc nào được yên lòng, Người đã hy sinh cả cuộc đời mình cống hiến cho
Đảng, cho nhân dân, đất nước, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ Cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không
có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa…” Cùng với đó là do những năm tháng hoạt động cách mạng gian khổ, bị tra tấn,
giải đi khắp các lao tù đã ảnh hưởng tới sức khỏe của Người. Đoán được thời khắc sẽ
phải đi gặp cụ Các-mác; cụ Lê-nin và thế giới người hiền, vào tháng 5 năm 1965, khi
Người tròn 75 tuổi, sau 5 năm nung nấu (1960-1965), đi nhiều nơi chiêm nghiệm thực
tiễn, suy ngẫm về hành trình hoạt động cách mạng của mình, tình hình thế giới, tình hình
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh bắt đầu viết tài liệu tuyệt đối bí mật. Gọi là “tuyệt
đối bí mật” ở đây không phải vì nội dung mà vì Bác không muốn để Đảng ta, đồng chí, 12
đồng bào biết sức khỏe của Bác đang dần suy yếu mà sinh lo lắng, ảnh hưởng đến nhiệm
vụ, công việc cách mạng. Tài liệu tuyệt đối bí mật đó chính là Di chúc thiêng liêng của
Bác, với ngôn ngữ giản dị, tình cảm nhưng khúc triết, chặt chẽ về bố cục, văn phong,
chứa đựng những điều căn cốt tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, từ cách đặt
vấn đề, sắp đặt thứ tự nội dung, kết thúc bản di chúc. Chỉ với hơn 1.000 từ nhưng Di
chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát nhiều nội dung to lớn, có ý nghĩa chính trị, lịch
sử, văn hóa sâu sắc, là tài sản vô giá của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta hôm nay và mãi
mãi mai sau. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao hàm nhiều giá trị lý luận, thực tiễn
cách mạng quý báu, từ vấn đề đối nội, đến công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Nhân
dân ta đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đất nước, chăm lo cho đời sống,
hạnh phúc của nhân dân, chăm lo cho các cụ phụ lão, các cháu thanh niên, thiếu niên nhi
đồng. Như Giáo sư Hoàng Chí Bảo đánh giá, Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
là “Quốc bảo” mà còn là “Pháp bảo”.
Bản Di chúc lịch sử ấy đơn giản chỉ là “mấy lời để lại”, “tóm tắt vài việc”, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói, nhưng chứa đựng sự tổng kết lớn lao, vĩ đại của người Anh hùng giải
phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất, thể hiện trí tuệ mẫn tiệp, tầm nhìn xa,
trông rộng của Người đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Bản Di chúc đó không chỉ là những lời căn dặn thiết tha, chứa đựng biết bao tình cảm,
hoài bão và khí phách, thể hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn dò trước lúc Người đi xa
mà nó đã trở thành một tác phẩm “đặc biệt” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tài sản vô
cùng quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam, có ý nghĩa lịch
sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Theo GS, TS. Vũ Văn Hiền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng
Lý luận Trung ương, nhìn vào lịch sử nhân loại, ngay cả những nhà lãnh đạo tài ba nhất,
thông thái nhất cũng không có bản di chúc nào có giá trị đích thực thiêng liêng và thực 13
chất như vậy. Bác luôn quan niệm sự nghiệp cách mạng của chúng ta nhất định sẽ thành
công, nhất định thắng lợi, nhất định sẽ đi đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước,
cho nhân dân. Bác đã dành nhiều thời gian, tập trung suy nghĩ, chỉnh sửa nhiều lần nhất
cho văn bản quan trọng này Điều đó càng thể hiện tinh thần trách nhiệm, tấm lòng của
Bác đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và đối với tương lai của đất nước.
Khẳng định giá trị lịch sử trường tồn của bản Di chúc, đồng chí Phạm Đình Đảng, Phó
Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện rực rỡ
nhất, sâu thẳm nhất về đức khiêm tốn của người Việt Nam, của một người Cộng sản. Tất
cả điều đó đã hội tụ, kết tinh và chỉ đạo sự nghiệp của chúng ta từ khi Người còn sống.
Và đặc biệt 50 năm vừa qua, chúng ta đã đi qua chặng đường lịch sử hết sức vinh quang
trong toàn bộ lịch sử dân tộc chúng ta. Cũng đó cũng là nguyện vọng của đông đảo nhân
dân. Cũng chính vì điều đó mà Đảng ta đã xếp Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
trong năm quốc bảo Việt Nam.
2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc là định hướng cơ
bản, quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cả hôm nay và mai sau
Nửa thế kỷ trôi qua nhưng những tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trong bản Di
chúc vẫn là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. GS, TS. Hoàng
Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Hội
đồng Khoa học, Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực (ISSTH), người đã có
hơn 40 năm nghiên cứu về cuộc đời, tư tưởng, sự nghiệp của Bác Hồ cho biết, Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ với 1.000 từ, nhưng Người đã làm một tổng kết lớn lý
luận và thực tiễn về cách mạng Việt Nam, về sự nghiệp của Đảng, của dân tộc mà Người
trọn đời gắn bó, dấn thân và dâng hiến. Người cũng đặt ra vấn đề dự báo trong tương lai.
Với tất cả sự nhạy cảm và linh cảm, Người biết rằng, đổi mới là thường xuyên và lâu
dài, là một cuộc chiến đấu khổng lồ, chống lại những cái cũ kỹ, hư hỏng, lỗi thời, hướng
tới tiến bộ, phát triển tốt đẹp, vì thế phải dựa vào dân, tập hợp dân thành phong trào, lực
lượng để dân thực hiện. GS, TS. Hoàng Chí Bảo nêu rõ, việc tìm hiểu về minh triết Hồ
Chí Minh trong bản Di chúc của Người để lại cho đồng bào, đồng chí, bầu bạn quốc tế
càng thêm thấu hiểu và thấu cảm về Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn viết Di chúc
vào dịp sinh nhật để vui chứ không buồn. Sự sống vốn mạnh hơn cái chết. Lấy sự sống
để vượt lên cái chết, với Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bản lĩnh văn hóa. Người thực sự
là một hiện tượng văn hóa độc đáo.
Nhà báo Hà Đăng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng
Biên tập Tạp chí Cộng sản, chia sẻ: qua nhiều ý kiến báo cáo cũng như tham luận tại Hội
thảo đã làm rõ nhiều nội dung trong Di chúc. Có những tham luận với góc nhìn tổng thể
cũng có những báo cáo đề cập với một vấn đề cụ thể trong Di chúc và có liên hệ với tình
hình thực tế. Từ đó, chúng ta càng học thêm được những điểm mới cũng như những giá
trị lịch sử và giá trị định hướng mà Di chúc đã chỉ ra. Theo ông, từ Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, chúng ta càng thêm thấy rõ một con người thật mà có một cuộc đời huyền 14
thoại. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc là định hướng cơ bản, quan
trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cả hôm nay và mai sau,
vì mục tiêu đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, bao quát toàn
diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Về mối quan hệ giữa đảng cộng sản cầm quyền với nhân dân, PGS,TS. Đoàn Thế Hanh,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, lời dặn dò của Bác sau cùng chủ yếu
là đặt vấn đề mối quan hệ giữa Đảng với dân, thể hiện trách nhiệm của Đảng ở 3 tư cách.
Một Đảng ta là Đảng cầm quyền, hai Đảng ta là đầy tớ, ba Đảng là người lãnh đạo. Ở
đây suy cho cùng vai trò, trách nhiệm thuộc về Đảng quang vinh. Làm tròn 3 trách nhiệm
này; một cái đòi hỏi thuộc về phẩm chất của Đảng, hai là năng lực của đảng và cái thứ
ba là thái độ, tinh thần trách nhiệm của Đảng. Tư cách là Đảng lãnh đạo thì Đảng phải
lựa chọn, tuyển lựa được đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng có cả đức lẫn tài, đủ phẩm
chất để thể hiện được vai trò lãnh đạo hoạch định đường lối đưa đất nước đi lên.
Với gần 50 tham luận được gửi đến và 08 tham luận được trình bày tại Hội thảo, có thể
thấy, các nhà nghiên cứu, các học giả đều khẳng định những thành tựu mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã đạt được trong thực hiện những lời căn dặn của Người suốt 50
năm qua. Nhiều kết quả, thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực đã được các tham luận
phân tích rất sâu sắc, phong phú, như về tăng cường xây dựng và nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng trong sự nghiệp đổi mới; rèn luyện đạo đức, phong cách, phẩm
chất của người cán bộ, đảng viên hiện nay; vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn;
chính sách đối với người có công với cách mạng, thương bệnh binh, cựu thanh niên xung
phong; phát triển kinh tế và văn hóa; xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, về
“quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ; xây dựng, củng cố
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;…
Kết luận Hội thảo, PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản khẳng
định, năm 2019 đánh dấu chặng đường nửa thế kỷ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực
hiện Di chúc của Người. Đặc biệt, khi các quyết nghị của Trung ương về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, ráo riết, đạt được những kết quả cụ thể, rõ
rệt trong thời gian qua, góp phần củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng. Điều đó đã tiếp tục khẳng định tầm vóc tư tưởng, tầm nhìn xa của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Theo PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, trong suốt 50 năm qua, những nội
dung về đoàn kết, thống nhất trong Đảng; quan tâm chăm lo xây dựng đào tạo, bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội; về nhân dân lao động... luôn được xem là những trọng điểm để các cấp, các
ngành, địa phương quyết tâm thực hiện.
Đồng chí Đoàn Minh Huấn nhấn mạnh, trong giai đoạn hiện nay, thực hiện Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần đề cao ý thức tự
giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, đẩy lùi hiện tượng ‘tự
diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa,’ tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng; thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và 15
Chỉ thị số 05-CT/TW (ngày 15-5-2016) của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đưa việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ thường xuyên của toàn thể cán bộ, đảng
viên và nhân dân,” là việc làm đúng đắn và cần thiết. Vì vậy, việc kỷ niệm 50 năm ngày
Bác mất và 50 năm thực hiện Di chúc của Người cũng là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên,
mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình, phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như di nguyện của Người. 3. Lời tạm kết
Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị
lịch sử và ý nghĩa định hướng cho cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh để lại trong Di chúc vẫn là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng
Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai.
Chương 3. Những giá trị nhân văn sâu sắc trong bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
Bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một tài liệu chính trị, mà còn là biểu
tượng của những giá trị nhân văn sâu sắc mà ông gắn bó với tình yêu nước và lòng trung
hiếu. Trong từng câu từ, ta cảm nhận được tâm huyết về tư duy nhân quảng, lòng nhân
ái và ý chí xây dựng một xã hội công bằng và tự do. Bản di chúc không chỉ là một bảng
kế hoạch mà còn là câu chuyện về đạo đức và lòng trung hiếu, là nguồn động viên mãnh
liệt cho những người theo đuổi con đường xây dựng đất nước phồn thịnh và công bằng.
Trước những giá trị nhân văn to lớn này, chúng ta như bước vào một thế giới của lòng
tin và ý chí, nơi mà mỗi hành động, mỗi quyết định đều được châm ngôn "Nhất dân, nhất
nước" hướng dẫn. Bản di chúc không chỉ là di sản lịch sử, mà còn là nguồn định hình
tâm hồn và tư tưởng cho thế hệ người Việt hiện tại và tương lai.

1. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân
Một trong những nội dung bao trùm, thể hiện đậm nét trong bản Di chúc là tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người và giá trị nhân văn. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh đã được hình thành sớm, là nhân tố hằng xuyên trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng phong phú của Người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết
và cao nhất ở khát vọng, ý chí đấu tranh để giải phóng con người, giải phóng gia cấp,
giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam đồng thời góp phần vào sự nghiệp
đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Trải xuyên qua hàng ngàn năm lịch sử dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh là một
trong những nhân vật kiệt xuất, biểu tượng của Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Với Hồ
Chí Minh, các giá trị về con người được biểu đạt bằng lòng nhân ái, đức khoan dung,
tình yêu nước nhiệt thành và sự trung thành tuyệt đối với sứ mệnh mà Tổ quốc, nhân dân 16
giao phó. Người đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, nền
độc lập của nhân dân Việt Nam và cho tất cả các dân tộc bị thống trị, nô dịch. Do vậy,
Hồ Chí Minh không chỉ là nhà yêu nước mà còn là nhà quốc tế chủ nghĩa kiên trung, giàu lòng nhân ái.
Lòng yêu thương, quý trọng con người của Hồ Chí Minh có cội nguồn sâu xa từ cốt cách
nhân văn của gia đình, dòng họ, quê hương và của dân tộc Việt Nam. Bằng ý chí và hành
động cách mạng, Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng cho quá trình đấu tranh tự khẳng
định vị thế, sức sống văn hóa và ý chí độc lập của một dân tộc. Tư tưởng và hoạt động
của Người còn có nhiều đóng góp quan trọng cho trào lưu đấu tranh anh dũng của các
dân tộc yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khái niệm “Giải phóng” là điểm
cốt yếu, có giá trị trung tâm. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng không chỉ là nhằm xóa bỏ
xích xiềng nô lệ mà còn là quá trình giải phóng mang tính toàn xã hội, hướng đến một
nền tự do thực sự và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người. Trong suốt cuộc đời
mình, bao giờ, ở đâu, với cương vị nào, Người cũng luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân
dân, nhất là những người lao khổ từng bao đời phải sống trong đói nghèo, lạc hậu, thất
học, bị tước đoạt quyền tự do, dân chủ. Tư tưởng của Người thể hiện những khát vọng
ngàn đời của dân tộc Việt Nam và nhân dân các nước bị áp bức, nô dịch. Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh từng viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại. Chủ nghĩa
yêu nước của Người xuất phát từ lòng yêu thương vô hạn đối với nhân dân bị áp bức.
Nó không dừng lại trong phạm vi dân tộc mà mở rộng đối với nhân dân lao động toàn
thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc; đồng thời
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc
và tiến bộ xã hội. Chính vì thế, không chỉ nhân dân Việt Nam yêu quý Người, mà nhân
dân thế giới cũng đáp lại tình cảm của Người và coi Người như người bạn thân thiết”.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là những giá trị kết tinh của truyền thống
văn hóa Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam mà còn là sự hợp luyện tinh hoa
của văn hóa châu Á và thế giới. Xuất thân từ một xứ nông nghiệp lạc hậu, trong một gia
đình Nho giáo, nhưng trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước,
“những đất tự do, những trời nô lệ”, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, tìm hiểu nhiều
khuynh hướng chính trị, nghiên cứu nhiều hệ tư tưởng khác nhau. Nhà sử học đồng thời
là nhà cách mạng Trần Văn Giàu cho rằng: Mượn tàu buôn làm phương tiện, nhà yêu
nước trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc đã qua cả hai bờ Đại Tây Dương, định cư ở London, Paris.
Ở Mỹ, Người học tập Washington, Lincoln; ở Pháp nghiên cứu Tuyên ngôn dân quyền
và nhân quyền, thích Michelet, Jaurès. Chủ nghĩa nhân văn phương Tây cận đại cho dù
hạn chế cũng mở ra một khoảng chân trời bởi tính phổ biến (Unversalism) bắt gặp tư
tưởng đại đồng Nho giáo.
Trong những năm ở nước ngoài, Người đã tìm hiểu, thâm nhập vào nền văn hóa Pháp,
văn hóa Xô-viết, văn hóa dân chủ mới Trung Quốc,… đã đọc W.Shakespeare,
Ch.Dickens, V.Hugo, A.France, L.Tolstoy, Lỗ Tấn,… từ nguyên bản. Với vốn ngoại ngữ 17
phong phú, Người đã dịch Quốc tế ca của E.Pottier (Pháp), Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản của K.Marx - F.Engel, Tinh thần luật pháp của Montesquieu, Tỉnh ủy bí mật của
Phedrov (Nga), Tân dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên v.v… ra tiếng Việt[3]. Do có nền
tảng tri thức phong phú, tầm kiến văn rộng lớn nên ngay sau khi trở về nước chuẩn bị
cho cao trào cách mạng mùa Thu năm 1945, nhiều giá trị văn hóa, nhân văn thế giới đã
được Người giới thiệu, lan tỏa trong công chúng. Trong di sản Hồ Chí Minh, “Các bài
thơ, tiểu luận và diễn văn của Người phản ánh một sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn
minh nhân loại và một niềm tin chung thủy đối với bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc,
quốc gia, kể cả dân tộc mình và các dân tộc khác trên thế giới. Vì vậy, Người được yêu
mến, khâm phục và kính trọng trên toàn thế giới”.
Với Hồ Chí Minh, yêu nước đồng nghĩa với thương dân. Tình thương của Người với
nhân dân không phải từ một đấng bề trên mà là sự đồng cảm, cộng cảm và sự truyền nối
những giá trị linh thiêng, máu thịt tự trong hai chữ “đồng bào”. Hiểu thấu nỗi thống khổ
của nhân dân, nỗi nhục của một dân tộc mất quyền tự do (mà dân tộc ấy từng đạt được
nhiều vinh quang trong quá khứ), Người đã khát khao kiếm tìm một con đường đi mới
cho dân tộc. Con đường đó không chỉ nhằm đến sứ mệnh phục hưng quốc thống mà còn
muốn đạt đến những thang bậc, giá trị mới trong tư duy chính trị của thời đại, đem lại
nền độc lập, quyền tự do, dân chủ cho nhân dân.
Trong nhận thức của Người, thương dân thì điều nhất thiết và trước hết là phải cứu dân
thoát khỏi gông cùm nô lệ. Nhưng muốn cứu nước, cứu dân thì phải dựa vào dân, huy
động nguồn lực nội sinh tự chính dân tộc mình. Nhân dân (nhất là nông dân, công nhân...)
là lực lượng đông đảo, chủ đạo, mạnh mẽ, kiên định của cách mạng. Dựa vào sức mạnh
của nhân dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân thì Đảng lãnh đạo có thể lật đổ chế độ
thống trị của thực dân và ách đô hộ phong kiến. Để làm nên sự nghiệp lớn lao đó, Hồ
Chí Minh đã tìm mọi cách làm giàu tri thức của mình bằng những giá trị tinh thần và
cách thức vận động quần chúng, đấu tranh của nhiều lãnh tụ cách mạng trên thế giới. Do
vậy, “Chất con người Hồ Chí Minh là chất Việt Nam, chất cách mạng, chất cộng sản,
chất nhân văn, tất cả gặp gỡ, hòa quyện trong một con người và được nâng lên do sứ
mệnh lịch sử của con người đó”. Nói cách khác, “Hồ Chí Minh đã biết áp dụng một cách
tài tình các nguyên lý bất tử của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam và lịch sử đã chứng minh Người đã có lý”.
Sự nghiệp cách mạng - Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh gắn liền với những sự kiện
quan trọng trong lịch sử đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam để giành đoạt lại
quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Thành công của Cách mạng tháng Tám
năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 cùng những thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ ở miền Nam, thành tựu của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc… là những minh chứng giàu sức thuyết phục về năng lực sáng tạo, sức sống
của một mô hình nhà nước mới. Do vậy, những thắng lợi của Việt Nam là nguồn động
viên cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và phong trào vì hòa
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là
một trong những người châu Á đầu tiên, bằng trí tuệ, sự nhạy cảm chính trị và lòng yêu
nước đã tiếp thu tư tưởng về đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa của V.I. Lênin 18
để rồi biến những vũ khí lý luận đó thành lực lượng vật chất cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi trong cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945, góp phần làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân ở châu Á. Nghe theo lời hiệu triệu của Người, tin vào tài năng tổ chức, nhân
cách của Người, nhân dân Việt Nam đã kiên quyết đứng lên thiết lập nền dân chủ, cộng
hòa đầu tiên ở Đông Nam Á và tiếp đó đã bảo vệ thành quả cách mạng bằng cuộc kháng
chiến bền bỉ chống thực dân Pháp[10]. Với Hồ Chí Minh, lời nói luôn gắn liền với hành
động, lý luận luôn đi đối với thực tiễn. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Người là nhà
chiến lược thiên tài đồng thời là nhà tổ chức vĩ đại. Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên
viết “Bản án chế độ thực dân” và cũng chính Người đã cùng với dân tộc thi hành bản án ấy”.
Luận giải về cội nguồn của Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, nhà sử học Trần Văn Giàu
cho rằng, Hồ Chí Minh được sinh thành trong một gia đình, vùng quê “địa linh” giàu
đậm tinh thần yêu nước, truyền thống văn hóa và chất nhân văn. Vùng quê đó đã sinh ra
một Nhân kiệt làm rạng danh cho đất nước. “Nguyễn sinh ra và lớn lên như được tắm
gội trong môi trường xã hội, văn hóa ấy. Rồi đi với cha vào kinh. Với tính cần học di
truyền, với trí nhớ thông minh đặc biệt, Nguyễn tiếp thu nền quốc học Việt Nam đã phát
triển tới mức cao nhất từ trước tới lúc bấy giờ trên các mặt lịch sử, triết lý, văn chương
cả bác học lẫn dân gian. Chính cái túi khôn ngàn đời đó sẽ giúp cho Nguyễn tha hương
mà không tha hóa, lại sáng tạo được với sắc thái Việt Nam khó lẫn lộn”. Từ Luận cương
của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã đến với những tư tưởng vĩ đại của K.Marx - F.Engel,
tiếp cận và theo đuổi các mục tiêu đấu tranh vì một chủ nghĩa nhân văn và các giá trị
mới: Chống thực dân gắn liền với sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh xuất phát từ cội nguồn dân tộc, quốc tế ấy và thực tế
đã đạt đến độ hòa luyện cao với những mục tiêu giá trị chung, lớn lao của khu vực, nhân loại.
Là người chứng kiến, trải nghiệm qua nhiều thách thức khắc nghiệt lịch sử, “tài năng
kiệt xuất của nhà cách mạng, người tổ chức và cổ vũ những thắng lợi vĩ đại nhất của
nhân dân Việt Nam, tính nhân đạo sâu sắc và sự giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thu phục được sự mến yêu và sự kính trọng vô hạn của nhân dân mình và toàn thể loài
người tiến bộ”. Nghe theo lời hiệu triệu: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, thực hiện
Di chúc thiêng liêng của Người, vì sự tồn vong của đất nước và danh dự của chính mình,
nhân dân Việt Nam đã anh dũng đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù hùng mạnh, hung hãn
nhất thế giới. Trong sự nghiệp cao cả đó, Hồ Chí Minh “được ghi nhớ không phải chỉ là
người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện
đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không
khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”.
Vào thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với nhiều đế chế lớn thế giới. Chủ
quyền, nền độc lập của dân tộc nhiều lần bị đe doạ nghiêm trọng. Chưa có một thế kỷ 19
nào mà trên lãnh thổ Việt Nam lại xuất hiện đồng thời nhiều đội quân xâm lược nước
ngoài như thế, và cũng chưa có một thế kỷ nào mà đất nước Việt Nam lại phải chịu nhiều
hy sinh, tổn thất như vậy! Nhưng, Việt Nam đã đứng vững, đã từng bước hồi sinh và
phát triển. Đó là cuộc hồi sinh vĩ đại của một dân tộc có sinh lực văn hóa mạnh mẽ. Là
người đứng đầu trào lưu đấu tranh của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh trở thành biểu
tượng của niềm tin, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần dũng cảm của một dân tộc. Khát
vọng mạnh mẽ, ham muốn tột bậc của Người về một Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân
dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành
đã trở thành khẩu hiệu hành động, mục tiêu đấu tranh và chất kết tụ tinh thần đoàn kết,
sức mạnh của nhân dân cả nước. Đó là tư tưởng chính trị đồng thời là lý tưởng nhân văn
cao cả mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo, dày công vun đắp, xây dựng.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chủ Tịch thành công trong sự nghiệp to lớn này
vì Hồ Chủ tịch tiêu biểu cho nước Việt Nam, cho dân Việt Nam. Nguyện vọng tối cao
của nước, nguyện vọng tha thiết nhất của dân là nguyện vọng của Người, là lẽ sống, đời
hoạt động của Người. Chính sách, chủ trương chính trị của Người là để thực hiện nguyện
vọng ấy: tranh thủ độc lập cho nước, tự do, hạnh phúc cho dân. Nhìn vào chính sách và
chủ trương ấy, quốc dân hoàn toàn tín nhiệm và tin tưởng. Uy tín của Hồ Chủ tịch căn
bản là ở chỗ đó. Nhưng giữa Hồ Chủ tịch và dân tộc Việt Nam, mối quan hệ còn mật
thiết, nồng nàn hơn: đó là mối quan hệ tình cảm, lòng tương thân, tương ái của Hồ Chủ
tịch với dân tộc Việt Nam và của dân tộc Việt Nam với Hồ Chủ tịch”[15]. Chủ nghĩa
nhân văn cao cả của Người “là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời
đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống có văn
hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn
trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”.
2. Tư tưởng bình đẳng, bác ái và niềm tin ở con người
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, nghiên cứu, kế thừa những tư tưởng lớn của
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền
của cách mạng Pháp năm 1791,... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thế giới
về nền độc lập của dân tộc Việt Nam, về quyền bình đẳng của tất cả mọi người, đồng
thời Người cũng khẳng định quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của
nhân dân Việt Nam. Đó là chân lý bất tử, là quyền sống, quyền tự do không ai có thể bác
bỏ, xâm phạm. Tuy nhiên, trong suốt hơn 8 thập niên độ hộ Việt Nam, thực dân Pháp đã
tìm mọi cách chia rẽ về chính trị, xóa bỏ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Cùng với
đó, về kinh tế thực dân Pháp đã “bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân
nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người luôn thấm đượm triết luận, chất nhân văn Á
Đông. Theo Người, tính thiện, ác trong mỗi con người không phải bản tính tự nhiên mà
là do xã hội, chế độ giáo dục quy định nên. Hơn thế, bản tính của con người cũng có thể
biến đổi theo thời gian do những tác nhân xã hội và để thích ứng với môi trường sống,
xu thế xã hội. “Người tôn trọng từ bi của đạo Phật như cái gốc của đạo đức... và tình cảm
ấy hòa hợp với lòng yêu nước, thương dân”. Lúc hoạt động ở nước ngoài cũng như khi 20
về nước, Hồ Chí Minh luôn tích cực, chủ động tiếp thu tinh hoa các nền văn hóa để làm
giàu thêm vốn tri thức, tinh thần nhân văn và sự hiểu biết về con người. Trong suốt cuộc
đời mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề con người, nhân dân, đất nước và
chính Người đã dâng hiến cả cuộc đời cho nhân dân, đất nước.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng yêu thương con người là giá trị bao trùm, quán xuyến
toàn bộ tư tưởng, suy nghĩ và hành động. Bản Di chúc là sự chưng cất những suy nghĩ,
tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và vì con người. Theo quan điểm Hồ Chí Minh,
con người là vốn quý nhất, là nhân tố trung tâm, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Để thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc cần phải có những
con người toàn diện. Đó là những người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc.
Người từng chỉ rõ: “Đạo đức có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái. Giữ vững lập trường.
Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Hồ Chí Minh cho rằng, bất kỳ lúc nào, ở đâu,
làm việc gì người cán bộ, đảng viên cũng cần “phải thấm nhuần đạo đức cách mạng”.
Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền thì vấn đề đạo đức càng trở nên quan trọng. Đảng
viên, cán bộ phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân. Năng lực, đạo đức của người cán bộ phải được thể hiện cụ thể trong mọi suy nghĩ,
hành động; phải luôn tiên phong, sẵn sàng gánh nhận việc khó khăn, gian khổ, phải đặt
lợi ích của đất nước, tập thể lên trên hết và phải thụ hưởng sau mọi người.
Trải qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, quan điểm của Hồ Chí Minh
về con người ngày càng phát triển, toàn diện. Ở nhiều bài viết, Người luôn coi con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực cánh mạng. Tầm nhìn Hồ Chí Minh về con người không
chỉ là giải phóng nhân dân thoát khỏi xích xiềng nô lệ mà còn là việc bảo đảm cơm no,
áo ấm, trang bị tri thức và hạnh phúc thực sự cho người dân. Đó chính là giá trị đích thực
của nền độc lập, tự do mà bao thế hệ chiến sĩ cách mạng, nhân dân đã phải hy sinh, đổ
máu để giành đoạt lại. Hồ Chí Minh nhìn thấy rõ quy luật vận động, phát triển của lịch
sử và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi theo quy luật ấy. Nhiều nhà nghiên cứu trong
nước, quốc tế từng luận bàn về phong cách an nhiên tự tại, phong độ Hồ Chí Minh. Có
thể hiểu: “Phong độ ung dung của Hồ Chí Minh là phong độ của người nhận thức được
quy luật của lịch sử, tin ở nhân dân và có nhân dân, con người biết mình muốn gì và đi
đến đâu, biết tránh thác ghềnh, biết thắng quân địch, con người tĩnh như núi, động như 21