Đại đoàn kết dân tộc một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực
quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết nhân
sinh hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai,
địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững.
Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy
nhất Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân
các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó nền gốc của đại đoàn kết.
cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã nền vững, gốc tốt, còn
phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. tưởng vđại đoàn kết tiếp tục
được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm tnhư: “đại đoàn kết toàn
dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy
cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm trên đều thống
nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết của toàn thể nhân dân
Việt Nam.
Như vậy, đại đoàn kết dân tộc theo tưởng Hồ Chí Minh đại đoàn kết các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn
kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam sống trong nước hay
định nước ngoài thành một khối vững chắc trên sở thốn g nhất về
mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
I. sở hình thành
1. sở lý luận
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu
tố được hình thành trên sở kế thừa phát triển chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận
dụng phát triển, chủ nghĩa Mác Lênin phù hợp với tình hình điều kiện cụ
thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1.1. Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc ta
Lòng yêu nước sức mạnh đoàn kết vĩ đại không “vũ khí” nào thể
thay thế, trở thành điểm cốt lõi của bản sắc văn hóa Việt Nam, sợi dây bền
chặt gắn bó, cố kết con người Việt Nam tạo thành sức mạnh chống giặc ngoại
xâm, giữ gìn bảo vệ non sông bờ cõi, đó chính là nét đặc trưng của truyền thống
dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng triết nhân sinh, được khái
niệm thành duy chính trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa
nước.
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn hoá, văn
học còn được những anh hùng dân tộc các thời kỳ lịch sử khác nhau như
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đúc kết nâng lên thành
phép đánh giặc giữ nước, “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng
một lòng phụ tử”,…Truyền thống ấy được tiếp nối trong tưởng tập hợp lực
lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
xâm lược các thế lực phong kiến tiếp tay, tiêu biểu nhất cụ Phan Bội
Châu và cụ Phan Chu trinh ở một phần từ đầu thế kỷ XX.
Sớm tiếp thu được truyền thống yêu nước nhân nghĩa đoàn kết của
dân tộc. Người đã khẳng định: “Dân ta một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt
qua mọi sự nguy hiểm, k khăn, nhấn chìm tất cả bán nước cướp
nước”. thể thấy, chính chủ nghĩa yêu nước truyền thống đoàn kết của
nhân dân ta sở mạnh mẽ thúc đẩy nên việc hình thành tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc.
1.2. Tinh hoa văn hoá của nhân loại
Văn hoá phương Đông, trong đó Nho giáo, Phật giáo, bên cạnh nhiều
điều không hợp lý, nhiều điểm tích cực. Chẳng hạn như thuyết Đại đồng
tưởng bình đẳng về tài sản của Nho giáo. Theo Khổng Tử, “Thiên hạ sẽ thái
bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ không đều”. Quan
điểm "nước lấy dân làm gốc" (quốc dân vi bản) của Nho giáo. Trong Phật
giáo cũng có những điểm hay. Ví dụ tư tưởng “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”,
“cầu đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức mạnh đoàn
kết.
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học
trên ghế Trường Quốc học. Sau này trong ba mươi năm hoạt động nước ngoài.
Người đã chọn lọc những hạt nhân hợp trong Tuyên ngôn độc lập của cách
mạng tư sản Mỹ. trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từ cách mạng, tư
sản Pháp. Người đã học được tưởng, phong cách dân chủ phương Tây, khai
thác tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa nhân văn từ các triết gia sản
trong Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa phương Tây đã góp phần làm giàu trí tuệ
Hồ Chí Minh.
Chính những nhận thức sâu sắc, am hiểu tường tận, tiếp thu chọn lọc
những giá trị văn hoá của nhân loại đã góp phần giúp Người hình thành nên
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.3. Những quan điểm trong học thuyết Mác-LêNin
Học thuyết Mác-Lênin sở luận quan trọng nhất đối với quá hình
xây dựng hình thành nên tưởng HChí Minh về đại đoàn kết dân tộc nói
riêng và cả tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin, cách mạng sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, nhân dân người sáng tạo lịch sử; giai cấp sản muốn thực hiện vai trò
lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công - nông sở để
xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Đoàn kết trong học thuyết Mác -
Lênin lấy giai cấp công - nông làm nền tảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh quốc tế : Quần chúng nhân dân lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất cho hội; Quần chúng nhân dân lực lượng bản của các cuộc cách
mạng xã hội; Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo, bảo tồn các giá trị văn
hoá trong xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 minh chứng
hùng hồn cho tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác- Lênin.
Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đi từ chiến lược “giai cấpsản tất cả
các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp sản tất cả các nước các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
xem đây ánh sáng mới cho đường cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc ta vì Mác-nin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng,
đã chỉ ra sự cần thiết trong việc tập hợp lại, đoàn kết các lực lượng cách mạng
trong phạm vi từng nước trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc
đấu tranh chống nghĩa đế quốc thực dân.
Sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhờ đó Người đã nắm
các vấn đề bản cốt lõi để lấy đó làm sở khoa học trong việc hình
thành tưởng HChí Minh vđại đoàn kết toàn dân - khiến cho tư tưởng này
trở thành truyền thống, bài học sâu sắc đối với mỗi người con đất Việt.
2. sở thực tiễn
Không chỉ được hình thành từ những sở luận, tưởng này còn được xuất
phát tthực tiễn lịch sử của dân tộc nhiều năm bôn ba nước ngoài của H
Chí Minh
2.1. Thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. hội Việt Nam
bắt đầu có những biến chuyển và phân hoá, làm nảy sinh trong hội Việt Nam
hai giai cấp mới: giai cấp sản giai cấp sản. Dưới ách thống trị tàn bạo
của thực dân Pháp, nhân dân ta đã kiên trì đứng lên đấu tranh, liên tục duy trì
ngọn lửa cứu nước, các cuộc khởi nghĩa diễn ra mạnh mẽ nhưng đều lần lượt
thất bại: Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần
Vương, phong trào nông dân Yên Thế kéo dài 30 năm; Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào Vương; Cuộc khởi nghĩa Yên Bái,…
Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước.
Mặc các phong trào đã diễn ra với quy lớn nhưng đều thất bại.
Nguyên nhân là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh
đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực
lượng kinh tế phụ thuộc khuynh hướng chính trị cải lương, không khả
năng lãnh đạo. Giai cấp nông dân tiểu sản khao khát độc lập, tdo, hăng
hái chống đế quốc phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải
phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Vận mệnh của đất nước đòi hỏi một lực lượng lãnh đạo mới, đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu
tranh chống đế quốc thực dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh
thì mới giành được thắng lợi. Hồ Chí Minh thấy tinh thần nhiệt huyết, tấm
lòng yêu nước của các bậc tiền bối nhưng cũng sẵn sàng chỉ ra những khuyết
điểm trước đó các tchức chưa sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết
lại để tạo thành một khối vững mạnh. Nhận thức rõ vấn đề đã không ngừng thúc
đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước đồng thời lấy đó làm nền tảng xây
dựng nên tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân Việt Nam.
2.2. Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc
khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn công phu đã giúp Người nhận thức một s
thực: “Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh đại, song cuộc đấu tranh
của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại,
chưa có sự liên kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết
tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh
đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Người đã nghiên cứu đhiểu một cách thấu
đáo con đường Cách mạng Tháng Mười nhng bài học kinh nghiệm quý báu
cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc
biệt bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công
nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.
3. Nhân tố chủ quan Phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
Xuất thân từ gia đình nhà Nho yêu nước thuộc vùng đất Nghệ Tĩnh
truyền thống đấu tranh bất khuất lâu đời, Hồ Chí Minh đã sớm được nuôi dưỡng,
tiếp thu những giá trị truyền thống ấy, góp phần hình thành nên tưởng tâm
hồn cách mạng của Người. Hồ Chí Minh vị lãnh tụ yêu nước, thương dân,
mang đầy tinh thần đạo đức cách mạng, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi
xiềng xích áp bức thống trị của đế quốc. Chính tinh thần ấy đã hình thành nên
tưởng Hồ Chí Minh trong việc đại đoàn kết dân tộc.
II. Nội dung luận đim
1. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc vấn đề ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng
Hồ Chí Minh đã nói:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công"
Người cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại một nguyên nhân sâu xa cả nước đã không
đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách
mạng đến thành công phải lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ
thừ và xây dựng thành công xã hội mới, muốn có lực lượng cách mạng đủ mạnh
phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Bác nói rõ: "Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn." Do đó, đại đoàn kết dân tộc không phải
sách lược hay thủ đoạn chính trị chiến lược lâu dài, nhất quán của cách
mạng Việt Nam. Đây là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên
chiến lược này được duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng. Người
đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng sản
vào thực tiễn Việt Nam, xây dng luận cách mạng thuộc địa, trong đó Người
quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng phương pháp cách mạng.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu nhiệm vụ khác nhau,
chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể cần thiết phải điều chỉnh
cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ thay đổi ch
trương đại đoàn kết dân tộc, đó nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng.
Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã
khái quát thành nhiều luận điểm mang tính chân về vai trò sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc: "Đoàn kết sức mạnh của chúng ta", "Đoàn kết
một lực lượng địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng
lợi", "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết thắng lợi", "Đoàn kết sức mạnh,
then chốt của thành công", "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng điểm
mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết".
1.2. Đại đoàn kết dân tộc một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của ch mạng
Việt Nam
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thực hiện thành thương dân, không
thương dân thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân đây là số đông, phải làm
cho số đông đó ai cũng cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do,
hạnh phúc.
Trong tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ
thấy việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân còn coi đại đoàn
kết dân tộc mục tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí
Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc mục đích của Đảng lao
động Việt Nam thể gồm trong tám chữ: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG
SỰ TỔ QUỐC.
Cách mạng s nghiệp của quần chúng, do quần chúng quần
chúng. Đại đoàn kết yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi
khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh lợi ích của chính
mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng Cộng sản phải có sự mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự
phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực tổ chức
trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh
độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
2.1. Chủ thể khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Chủ thcủa khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh, bao gồm
toàn thể nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước các giai cấp, các
tầng lớp trong hội, các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào
các tôn giáo, các đảng phái, …
“Nhân dân” vừa con người Việt Nam cụ thể, vừa một tập hợp đông
đảo quần chúng nhân dân cả hai đều chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải tập hợp, đoàn kết được tất cả mọi người
dân vào một khối thống nhất, không phân biệt bất cứ điều chỉ cần cùng
hướng vào mục tiêu chung, “ai có tài, có đức, có sức, lòng phụng sự Tổ quốc
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. HChí Minh còn chỉ rõ, trong quá
trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đứng vững trên lập trường
giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc để tập
hợp lực lượng, không bỏ sót một lực lượng nào miễn họ lòng trung thành
và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi của nhân dân.
2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải xác định đâu
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc những lực lượng nào tạo nên nền
tảng đó. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa
số nhân dân, đại đa số nhân dân công nhân, nông dân tầng lớp nhân dân
lao động khác. Đó nền, gốc của đại đoàn kết. cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp
nhân dân khác.". Như vậy. lực lượng làm nền tảng được củng cố vững chắc thì
khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng có thể mở rộng, khi ấy không có thế lực nào
có thể làm suy yếu khối đoàn kết toàn dân tộc.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt
nhân” sự đoàn kết thống nhất trong Đảng đó điều kiện cho sự đoàn
kết ngoài hội. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sđoàn kết toàn
dân tộc càng được tăng cường, Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết sự gắn
máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng
Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới
thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai
cấp, tầng lớp cần phải đảm bảo các điều kiện:
3.1. Phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác
biệt chính đáng
Phải chú trọng xử lý các mối quan hệ lợi ích rất đa dạng, phong phú trong
hội Việt Nam. Chỉ xử tốt quan hệ lợi ích, trong đó tìm ra điểm tương
đồng, lợi ích chung thì mới đoàn kết được lực lượng. Đoàn kết phải lấy lợi ích
tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn
đấu; đây nguyên tắc bất di bất dịch, ngọn cờ đoàn kết và mẫu số chung
để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc tôn giáo vào trong Mặt
trận.
3.2. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc
Truyền thống này được hình thành, củng cố phát triển trong suốt quá
trình dựng nước giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc đã trở thành giá trị
bền vững, thấm sâu vào tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt
Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh
địch để cả dân tộc chiến đấu chiến thắng thiên tai địch họa, làm cho đất
nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
3.3. Phải lòng khoan dung, độ lượng với con nời
Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi nhân cũng như mỗi cộng đồng đều
những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, lợi ích của cách
mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất
ở mỗi người, có vậy mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
3.4. Phải niềm tin vào nhân n
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, phấn đấu vì hạnh
phúc của nhân dân nguyên tắc tối cao trong cuộc sống. Dân chỗ dựa vững
chắc đồng thời cũng nguồn sức mạnh địch của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, quyết định thắng lợi của cách mạng. vậy, muốn thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, phải có niềm tin vào nhân dân.
4. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Mặt trận dân tộc thống
nht
4.1. Mặt trận dân tộc thống nhất
Khối đại đoàn kết chỉ trở thành lực lượng to lớn, sức mạnh khi được
tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, đó Mặt trận dân tộc thống
nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất nơi quy tụ mọi tổ chức nhân yêu nước,
tập hợp mọi người dân nước Việt, cả trong nước và kiều bào sinh sống nước
ngoài.
4.2. Nguyên tắc xây dựng hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Một , phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân
- trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây nguyên tắc cốt lõi trong
chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở rộng
Mặt trận, làm cho Mặt trận thực squy tụ được cả dân tộc, kết thành một khối
vững chắc trong Mặt trận. Người viết: "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết
dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân
tộc thống nhất." Phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì họ người trực
tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho hội sống. họ đông hơn hết,
cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của hchắc chắn,
bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác” Người căn dặn: "Không nên chỉ nhấn mạnh
vai tcủa công nông, còn phải thấy vai trò scần thiết phải liên minh
với các giai cấp khác, nhất là với đội ngũ trí thức."
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa thành viên, vừa lực lượng lãnh đạo, Đảng
không lợi ích riêng, gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng
lãnh đạo đối với mặt trận thể hiện khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy
luật khách quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối phương pháp cách
mạng phù hợp. Lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của mình là đấu tranh
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội.
Hai , phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thươngn chủ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - hội rộng lớn của cả dân tộc,
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với
nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên
tắc hiệp thương dân chủ. Mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất
cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi
sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Những lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với
lợi ích chung của đất nước, của dân tộc cần được tôn trọng, những riêng biệt,
không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự
nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Ba , phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận phải lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong Mặt trận, các thành
viên những điểm tương đồng nhưng cũng những điểm khác biệt, nên cần
sự bàn bạc để đi đến nhất trí. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu
đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Đoàn kết thực sự
nghĩa vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân.
5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tc
Một , làm tốt công tác vận động quần chúng (Dân vận)
Hồ Chí Minh coi đoàn kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng. Để thực hiện được mục tiêu đó thì phải làm tốt ng tác vận động
quần chúng. Để thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần
chúng để đoàn kết mọi người, tạo ra động lực phát triển kinh tế - hội văn
hoá. Đphát huy đầy đủ vai trò, trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân
dân, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải biết làm tốt công
tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động quần chúng nhân
dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm
nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc, từ đó h
tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Người căn dặn: "cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho h hiểu rằng:
những việc đó lợi ích của họ phải làm." vậy, phương pháp tiếp cận
và vận động quần chúng phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng;
phải xuất phát từ thực tế trình độ dân trí và văn hoá, theo cả nghĩa rộng và nghĩa
hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán cụ thể đối với từng địa phương, từng đối
tượng của nhân dân.
Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối
tượng để tập hợp quần chúng.
Những tổ chức để tập hợp, giáo dục, rèn luyện quần chúng phải phù hợp từng
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, vùng miền... như các tổ chức:
Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ… Các đoàn thể, t
chức quần chúng nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực của
các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong từng
giai đoạn.
Ba là, các đoàn thể, tchức quần chúng được tập hợp đoàn kết trong
Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bản chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng tổ chức của dân, do
đó vai trò của Mặt trận các đoàn thể nhân dân phải vận động quần chúng
bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong hội tham gia vào các tổ chức của
mình. Công tác vận động quần chúng phải dựa trên chiến lược: "Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công." Đối với các đoàn
thể, tổ chức quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng được tập hợp đoàn kết trong
Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều schỉ đạo trong công tác vận động,
thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ chức của mình.
III. Ý nghĩa luận điểm
1. Về mặtluận
Đoàn kết dân tộc không chỉ một khẩu hiệu chính trị còn một
chiến lược cách mạng xuyên suốt trong tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng
định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công.” Câu nói này thể hiện quan niệm xuyên suốt của Hồ Chí Minh về tầm
quan trọng của đoàn kết dân tộc trong mọi giai đoạn cách mạng. Theo đó, đại
đoàn kết dân tộc một nguyên tắc chiến lược, một tưởng chỉ đạo giúp cách
mạng Việt Nam phát triển vững chắc và đi đến thành công.
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ thực tiễn Việt Nam còn
nền tảng từ chủ nghĩa Mác- Lênin. Chủ nghĩa Mác- Lênin nhấn mạnh vai trò của
quần chúng nhân dân trong cách mạng, và Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý
luận này vào hoàn cảnh Việt Nam, khẳng định:
- Đoàn kết dân tộc scủa sức mạnh cách mạng. Khi các tầng lớp
trong hội hợp nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp, họ sẽ cùng nhau vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, hướng tới mục tiêu chung. Đoàn kết dân tộc không chỉ
giải quyết mâu thuẫn, xây dựng sự đồng thuận trong xã hội, còn nâng cao
tinh thần chiến đấu, giúp mỗi nhân kiên trì, bền bỉ tưởng chung. Đồng
thời, đoàn kết tạo nền tảng chính trị vững chắc, thu hút sủng hộ quốc tế, củng
cố vị thế đất nước. Chính vậy, đoàn kết dân tộc sở vững bền của sức
mạnh cách mạng, dẫn đến thành công trong mọi cuộc đấu tranh giành độc lập
tự do.
- Đoàn kết điều kiện để xây dựng bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh
hội đa dạng vtầng lớp, dân tộc, tôn giáo, sự đoàn kết yếu tố tạo nên
sức mạnh tổng hợp, phát huy tiềm năng của mọi bộ phận trong hội, từ đó thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa. Đoàn kết không chỉ là sự hòa
hợp trong nội bộ còn sở vững chắc để xây dựng một hệ thống chính trị
ổn định, tạo ra sự đồng thuận trong thực hiện các mục tiêu chiến lược quốc gia.
Đồng thời, đoàn kết là sức mạnh to lớn trong bảo vệ độc lập, chủ quyền, và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, khi nhân dân cùng chung sức, đồng lòng đối mặt với
mọi thách thức từ bên ngoài. vậy, đoàn kết dân tộc không chỉ một yếu tố
tinh thần một điều kiện chính trị, hội thiết yếu để xây dựng bảo vệ
nền tảng vững mạnh của quốc gia.
- Đại đoàn kết dân tộc stập hợp mọi tầng lớp trong xã hội. Đoàn kết
cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau
- Đoàn kết phải nguyên tắc, mục tiêu lợi ích chung. Không đoàn
kết một chiều, hình thức, nhất thời
- Đoàn kết phải luôn gắn liền với bao dung tính nhân đạo, bởi lẽ trong
một xã hội đa dạng về tầng lớp, dân tộc và quan điểm, sự bao dung là yếu tố cốt
lõi để xây dựng một nền tảng chính trị ổn định và phát triển bền vững. Bao dung
không chỉ sự khoan dung đối với sự khác biệt còn sự thể hiện chính
sách công bằng, bảo vệ quyền lợi của mọi công dân. Khi đoàn kết được thực
hiện trong tinh thần nhân đạo, hướng tới lợi ích chung, stạo ra một xã hội
vững mạnh, thúc đẩy hòa bình, ổn định sự tiến bộ toàn diện. vậy, đoàn kết,
bao dung và nhân đạo không chỉ những giá trị tinh thần mà là yếu tố chính trị
chiến lược để xây dựng một tương lai thịnh vượng,a hợp phát triển lâu dài.
- Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng - Đoàn kết toàn dân - Đoàn kết
quốc tế
- Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước trên
sở bảo vệ tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân
tộc, quốc tế
Luận điểm này đã làm phong phú phát triển luận chủ nghĩa Mác
Lênin, đặc biệt trong lĩnh vực vận động tổ chức quần chúng. khẳng
định đại đoàn kết dân tộc không chỉ mục tiêu chiến lược của cách mạng
còn điều kiện cần thiết để tạo nên sức mạnh tổng hợp, lôi kéo được nhiều lực
lượng khác nhau vào mặt trận dân tộc thống nhất.
2. Về mặt thực tiễn
- tưởng đại đoàn kết đã khơi dậy tinh thần đoàn kết của nhân dân. Điều này
giúp dân ta ttin đi theo con đường của cách mạng, đồng thời tạo động lực
mạnh mẽ để vượt qua các khó khăn, thử thách trong quá trình đấu tranh, từ đó
giành lại độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
- Luận điểm này không chỉ giá trị trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân
tộc còn ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước
sau cách mạng. Nó khơi dậy tinh thần đổi mới, phát triển khoa học công nghệ,
giúp Việt Nam bước vào hội nhập quốc tế, đa dạng hoá phát triển kinh tế
hội, hướng tới một đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đoàn kết được xem
như yếu tố động lực để tạo nên Nhà nước của dân, do dân dân, đồng thời
đảm bảo công bằng xã hội và tiến tới mục tiêu “đẳng minh, đẳng sức, đẳng lòng,
đẳng minh”.
- Trong khuôn khổ pháp luật, tưởng đại đoàn kết yêu cầu Nhà nước tiếp cận,
đổi mới hoàn thiện các chính sách đối với các tầng lớp khác nhau trong
hội. Từ đó giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích giữa các đối tượng, đảm bảo
quyền lợi của nhân dân, từ đó củng cố duy trì khối đại đoàn kết dân tộc một
cách bền vững.
- Đoàn kết phải nội dung thích hợp với từng địa phương, tổ chức, thời kỳ.
Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết nhiệm vụ của Đảng, biện pháp phát
huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc
IV. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay (Ngọc Linh, Mỹ Anh)
1. Quán triệt tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc đoàn kết
quốc tế trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng
1.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Phải khơi dậy phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức
mạnh quốc tế, trong đó đặt lợi ích dân tộc của đất nước lên hàng đầu, lấy đó làm
sở để xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế - hội. Trước đây, sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc sức mạnh để chiến thắng nghèo nàn lạc
hậu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, vào
ngày 2/11/1993, Bộ Chính trị khóa VII đã ra Nghị quyết 07 về đại đoàn kết dân
tộc tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Đến Đại hội VIII, đại đoàn kết
dân tộc được đặt tầm cao mới được các Đại hội sau đó bổ sung, nhấn mạnh.
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộcđường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, động lực nguồn lực to lớn trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá cao nhận định này, cán bộ, Đảng viên và
nhân dân cho rằng: những bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đn
kết toàn dân tộc cho thấy cần được Đảng kế thừa và phát huy sức mạnh đại đoàn
kết để xây dng và bảo vệ tổ quốc; đồng thời Đảng cần thể hiện vai trò hạt nhân
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Tại Đại hội XIII của Đảng, thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban
Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn đã nhấn mạnh: “Đại đoàn kết
toàn dân tộc truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua hàng
ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa,
đùm bọc lẫn nhau đã thấm sâu vào tình cảm hành động của mỗi người dân
đất Việt trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc đã
tạo nguồn sức mạnh, lập nên những kỳ ch vẻ vang, điều kiện bản cho sự
thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng như công
cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước ngày nay”.
Từ lời khẳng định trên thực tiễn hoạt động, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn đã
đúc kết lại những bài học kinh nghiệm quý báu vphát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc.
Thứ nhất, giữ vững tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nhân tố quyết
định để Mặt trận tập hợp được mọi lực lượng, xây dựng, củng cố, phát huy khối
đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, trong mọi hoạt động, hệ thống chính trị phải quán triệt sâu sắc
quan điểm “dân gốc”, khơi dậy sức sáng tạo, sự ủng hộ của nhân dân, tôn
trọng, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các quan Đảng,
Nhà nước, MTTQ Việt Nam và hiệp thương phối hợp thống nhất hành động của
các tổ chức thành viên.
Thứ tư, quán triệt phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việc lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh, Mặt trận
phải thường xuyên đổi mới phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
đoàn kết gắn với đấu tranh, có lý, có tình với các hành vi sai trái, làm ảnh hưởng
đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, các cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp, cả hệ thống chính trị cần quán triệt sâu sắc tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam; thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân vì nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát triển tài
năng, sức sáng tạo, mang lại lợi ích cho đất nước.
1.2. Vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong đường
lối đối ngoại hiện nay
Cùng với việc phát huy tối đa sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc,
quan hơn 30 năm đổi mới, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong việc hoạch định chủ trương,
đường lối. Từ tuyên bố “muốn bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VII), “sẵn sàng
bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần
thứ IX) đến Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Quan hệ đối ngoại,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta tiếp tục được nâng cao”
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên
scác nguyên tắc bản của Hiến chương Liên hợp quốc luật pháp quốc
tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn,
là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế. Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng năm 2021, Tổng thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Hơn 90
năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên sở vận
dụng sáng tạo những nguyên bản của chủ nghĩa Mác - -nin, kế thừa
phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu
chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta
đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc độc đáo
của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững,
thân chắc, cành uyển chuyển”,... thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của
dân tộc Việt Nam”.
Chính vậy, để vận dụng tưởng đoàn kết, hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều
thời thuận lợi kkhăn, thách thức đan xen, Đảng đã đề ra những nội
dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển sáng tạo tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối
ngoại hiện nay.
Hai là, quán triệt sâu sắc thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại, chủ động tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia,
dân tộc.
Ba là, mở rộng nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất
trong các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với
các nước trên thế giới.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng Nhà nước ta luôn kiên trì phương châm “vừa
hợp tác, vừa đấu tranh” trên nguyên tắc bình đẳng, cùng lợi. Trong đó, hai
mặt hợp tác đấu tranh luôn gắn tác động qua lại với nhau, một mặt,
thúc đẩy hợp tác; mặt khác, vẫn phải đấu tranh dưới mọi hình thức, mức độ thích
hợp đối với từng đối tượng, trên từng vấn đề, để vừa thể ưu tiên bảo vlợi
ích quốc gia - dân tộc, vừa thiết lập quan hệ với các nước trên sở bình đẳng,
cùng lợi, cùng tồn tại hòa bình. Chính sự kết hợp đúng đắn, linh hoạt giữa
vừa hợp tác, vừa đấu tranh đã tạo điều kiện đViệt Nam tranh thủ được sự ủng
hộ ngày càng nhiều của các lực lượng tiến bộ trên thế giới trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông -
trí dưới sự lãnh đạo của Đảng
Liên minh công - nông - trí thức hạt nhân, sở của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ vào một mặt trận
chung thống nhất mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng liên minh công - nông - trí
thức là đòi hỏi khách quan, có tính chiến lược của cách mạng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo, liên minh
công - nông - trí ngày càng được tăng cường củng cố, làm nòng cốt cho khối
đại đoàn kết dân tộc, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế - hội của đất nước. Sau hơn 35 năm đổi mới, dưới slãnh đạo của
Đảng, liên minh công - nông - trí đã thực sự những chuyển biến cả về nội
dung lẫn hình thức, đạt được những thành tựu quan trọng:
Thứ nhất, liên minh trên lĩnh vực kinh tế ngày càng được củng cố và hoàn
thiện. Nội dung kinh tế của liên minh là mối quan hệ về mặt kinh tế giữa giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Mối quan hệ này được
thực hiện thông qua sự tác động qua lại giữa khu vực kinh tế công nghiệp
nông nghiệp, qua chính sách của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân,
nông dân đội ngũ trí thức đtạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất, nâng
cao năng suất lao động.Kinh tế Việt Nam từ chỗ khủng hoảng nghiêm trọng, đã
từng bước ổn định đi vào tăng trưởng mức khá cao. Với quan điểm phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên nhiều hình thức sở hữu, từ đó đã
hình thành nên một cấu hội mới, đa dạng. Giai cấp công nhân giai cấp
nông dân, thông qua liên minh, cộng tác với đội ngũ trí thức mục tiêu kinh tế -
hội chung, đã tiếp cận được với những tri thức mới, tiến bộ vận dụng
nhanh chóng những thành tựu của khoa học - ng nghệ, đã dần “trí thức hóa”.
Dần dần trong cấu hội xuất hiện một đội ngũ “công nhân - trí thức”
“nông dân - trí thức”.Sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng đã lãnh đạo phát huy hiệu
quả vai trò liên minh công - nông - tthức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mọi thành tựu của đất nước đều vai tto lớn của giai cấp công nhân, nông
dân đội ngũ trí thức. Trong đó,nền tảng liên minh công - nông - trí thức đan
xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển.
Thứ hai, liên minh chính trị giữa công nhân, nông dân trí thức ngày
càng được tăng cường, củng cố. Nội dung chính trị của liên minh công - nông -
trí thức trong thời kỳ đổi mới sự đoàn kết, gắn bó chặt chẽ giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nhằm mục tiêu giữ vững ổn định
chính trị, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam, xây dựng và bảo
vệ Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của dân, do dân dân, thực hiện
thắng lợi đường lối của Đảng lợi ích chung của toàn dân tộc. Nói cách khác,
xây dựng liên minh chính trị công - nông -tríthứclà xây dựng sự nhất trí về chính
trị của các giai tầng hội để phấn đấu cho mục tiêu chính trị chung của đất
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó độc lập dân tộc
chủ nghĩa hội; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Một
yếu tố quan trọng tạo nên sự thống nhất về chính trị đó việcphát huy mở
rộng dân chủ trong đời sống xã hội. Các hoạt động văn hóa, thông tin báo chí,
xuất bản ngày càng phát triển cả về nội dung phương pháp thông tin; về
nghiên cứu sáng tạo; vthảo luận dân chủ các quan điểm khác nhau; tự p
bình phê bình, đấu tranh phê phán các hiện tượng tiêu cực… Những dự thảo
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được đưa ra thảo
luận, xin ý kiến đóng góp xây dựng của đông đảo quần chúng nhân dân trước
khi quyết định ban hành. Quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi công dân,
bất kể là công nhân, nông dân hoặc trí thức... đều bình đẳng như nhau. Ngoài ra,
vai trò tập hợp, đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc các tổ chức chính trị - hội
ngày càng được củng cố, góp phần tăng cường sự tham gia của công nhân -
nông dân - trí thức toàn hội vào quá trình hoạch định chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, thành tựu trong lãnh đạo xây dựng củng cố liên minh về mặt
hội. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, các vấn đề hội được giải
quyết hài hòa ngay trong từng bước phát triển. Đó sự nhất quán trong quá
trình lãnh đạo phát triển của Đảng Nhà nước. Thực hiện mục tiêu đó,
trongviệc ban hành các chính sách phát triển kinh tế, Đảng Nhà nước luôn
quan tâm lợi ích của người lao động, đời sống vật chất tinh thần của nhân
dân. Đặc biệt, chủ trương “xóa đói giảm nghèo” được coi một quốc
sách.Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng sự đóng góp của toàn
hội, sự tương trợ lẫn nhau về kinh tế, phát huy truyền thống tương thân tương ái,
số hộ đói nghèo trong công nhân, nông dân, trí thức các vùng miền, cả thành
thị nông thôn ngày càng giảm. Tính đến hết năm 2022, số hnghèo trên cả
nước 1.057.374hộ, chiếm tỷ lệ 4,03%; trong đó, số hộ nghèo khu vực miền
núi phíaBắc 455.271hộ (14,23%); khu vựcđồng bằng sông Hồng 69.239hộ
(1%); khu vực Bắc Trung Bộvà duyên hải miền Trunglà 284.137hộ (4,99%);
khu vực Tây Nguyên 129.160 hộ (8,39%);khu vực Đông Nam Bộ 9.710h
(0,21%); khu vực đồng bằng sông Cửu Long 109.767hộ (2,26%). Các chính
sách an sinh hội, chăm sóc, hỗ trợ các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình
có công được bảo đảm.
Thứ tư, liên minh công - nông - trí thức nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy
đặc điểm cấu xã hội - giai cấp được phản ánh trong tồn tại của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Đằng sau mỗi thành phần kinh tế là các giai cấp,
tầng lớp hội. Tương ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một cấu giai
cấp đa dạng, phức tạp, bao gồm các giai cấp, tầng lớp hội vừa liên minh, vừa
đấu tranh với nhau, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò nòng cốt, lãnh đạo.
Với shình thành chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa quá trình
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu xã
hội - giai cấp ngày càng mạnh mẽ. Hiện nay, cơ cấu giai cấp ở nước ta bao gồm:
giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp
doanh nhân. Trong đó, liên minh công - nông - trí thức sở của toàn hội,
làm sở chính trị - hội vững chắc của thời kỳ quá độ lênchủ nghĩa hội,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế. Trong liên minh,
giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của
hội. Nông dân các tầng lớp nhân dân lao động vai trò ngày càng quan

Preview text:

Đại đoàn kết dân tộc là là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì
quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân
sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai,
địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững.
Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy
nhất Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn
phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp tục
được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ như: “đại đoàn kết toàn
dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy
cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm trên đều thống
nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Như vậy, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn
kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay
định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thốn nó g nhất về
mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
I. Cơ sở hình thành 1. Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu
tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận
dụng và phát triển, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ
thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1.1. Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc ta
Lòng yêu nước là sức mạnh đoàn kết vĩ đại không “vũ khí” nào có thể
thay thế, trở thành điểm cốt lõi của bản sắc văn hóa Việt Nam, là sợi dây bền
chặt gắn bó, cố kết con người Việt Nam tạo thành sức mạnh chống giặc ngoại
xâm, giữ gìn bảo vệ non sông bờ cõi, đó chính là nét đặc trưng của truyền thống dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái
niệm thành tư duy chính trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước.
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn hoá, văn
học mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đúc kết nâng lên thành
phép đánh giặc giữ nước, “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ
một lòng phụ tử”,…Truyền thống ấy được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực
lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội
Châu và cụ Phan Chu trinh ở một phần từ đầu thế kỷ XX.
Sớm tiếp thu được truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của
dân tộc. Người đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước”. Có thể thấy, chính chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của
nhân dân ta là cơ sở mạnh mẽ thúc đẩy nên việc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc.
1.2. Tinh hoa văn hoá của nhân loại
Văn hoá phương Đông, trong đó có Nho giáo, Phật giáo, bên cạnh nhiều
điều không hợp lý, có nhiều điểm tích cực. Chẳng hạn như thuyết Đại đồng và
tư tưởng bình đẳng về tài sản của Nho giáo. Theo Khổng Tử, “Thiên hạ sẽ thái
bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Quan
điểm "nước lấy dân làm gốc" (quốc dĩ dân vi bản) là của Nho giáo. Trong Phật
giáo cũng có những điểm hay. Ví dụ tư tưởng “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”,
“cầu đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức mạnh đoàn kết.
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học
trên ghế Trường Quốc học. Sau này trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài.
Người đã chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong Tuyên ngôn độc lập của cách
mạng tư sản Mỹ. trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từ cách mạng, tư
sản Pháp. Người đã học được tư tưởng, phong cách dân chủ phương Tây, khai
thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa nhân văn từ các triết gia tư sản
trong Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa phương Tây đã góp phần làm giàu trí tuệ Hồ Chí Minh.
Chính những nhận thức sâu sắc, am hiểu tường tận, tiếp thu có chọn lọc
những giá trị văn hoá của nhân loại đã góp phần giúp Người hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.3. Những quan điểm trong học thuyết Mác-LêNin
Học thuyết Mác-Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá hình
xây dựng và hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nói
riêng và cả tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, nhân dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò
là lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công - nông là cơ sở để
xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Đoàn kết trong học thuyết Mác -
Lênin lấy giai cấp công - nông làm nền tảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh quốc tế : Quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất cho xã hội; Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của các cuộc cách
mạng xã hội; Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo, bảo tồn các giá trị văn hoá trong xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng
hùng hồn cho tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác- Lênin.
Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đi từ chiến lược “giai cấp vô sản tất cả
các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
xem đây là ánh sáng mới cho đường cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc ta vì Mác-Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng,
đã chỉ ra sự cần thiết trong việc tập hợp lại, đoàn kết các lực lượng cách mạng
trong phạm vi từng nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc
đấu tranh chống nghĩa đế quốc thực dân.
Sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhờ đó Người đã nắm
rõ các vấn đề cơ bản và cốt lõi để lấy đó làm cơ sở khoa học trong việc hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân - khiến cho tư tưởng này
trở thành truyền thống, bài học sâu sắc đối với mỗi người con đất Việt. 2. Cơ sở thực tiễn
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận, tư tưởng này còn được xuất
phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba ở nước ngoài của Hồ Chí Minh
2.1. Thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Xã hội Việt Nam
bắt đầu có những biến chuyển và phân hoá, làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam
hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Dưới ách thống trị tàn bạo
của thực dân Pháp, nhân dân ta đã kiên trì đứng lên đấu tranh, liên tục duy trì
ngọn lửa cứu nước, các cuộc khởi nghĩa diễn ra mạnh mẽ nhưng đều lần lượt
thất bại: Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần
Vương, phong trào nông dân Yên Thế kéo dài 30 năm; Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào Vương; Cuộc khởi nghĩa Yên Bái,…
Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Mặc dù các phong trào đã diễn ra với quy mô lớn nhưng đều thất bại.
Nguyên nhân là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh
đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực
lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả
năng lãnh đạo. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng
hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải
phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Vận mệnh của đất nước đòi hỏi có một lực lượng lãnh đạo mới, đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu
tranh chống đế quốc thực dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh
thì mới giành được thắng lợi. Hồ Chí Minh thấy rõ tinh thần nhiệt huyết, tấm
lòng yêu nước của các bậc tiền bối nhưng cũng sẵn sàng chỉ ra những khuyết
điểm trước đó là các tổ chức chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết
lại để tạo thành một khối vững mạnh. Nhận thức rõ vấn đề đã không ngừng thúc
đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước đồng thời lấy đó làm nền tảng xây
dựng nên tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân Việt Nam.
2.2. Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc
khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự
thực: ̣“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh
của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại,
chưa có sự liên kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh
đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu
đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu
mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc
biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công
nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.
3. Nhân tố chủ quan – Phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
Xuất thân từ gia đình nhà Nho yêu nước thuộc vùng đất Nghệ Tĩnh có
truyền thống đấu tranh bất khuất lâu đời, Hồ Chí Minh đã sớm được nuôi dưỡng,
tiếp thu những giá trị truyền thống ấy, góp phần hình thành nên tư tưởng tâm
hồn cách mạng của Người. Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ yêu nước, thương dân,
mang đầy tinh thần đạo đức cách mạng, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi
xiềng xích áp bức thống trị của đế quốc. Chính tinh thần ấy đã hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh trong việc đại đoàn kết dân tộc.
II. Nội dung luận điểm
1. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng Hồ Chí Minh đã nói:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công"
Người cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không
đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách
mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ
thừ và xây dựng thành công xã hội mới, muốn có lực lượng cách mạng đủ mạnh
phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Bác nói rõ: "Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn." Do đó, đại đoàn kết dân tộc không phải
sách lược hay thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách
mạng Việt Nam. Đây là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên
chiến lược này được duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng. Người
đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản
vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó Người
quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau,
chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể cần thiết phải điều chỉnh
cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ thay đổi chủ
trương đại đoàn kết dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã
khái quát thành nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta", "Đoàn kết
là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng
lợi", "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi", "Đoàn kết là sức mạnh, là
then chốt của thành công", "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm
mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết".
1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thực hiện thành thương dân, không
thương dân thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm
cho số đông đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ
thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân mà còn coi đại đoàn
kết dân tộc là mục tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí
Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc mục đích của Đảng lao
động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần
chúng. Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi
khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính
mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng Cộng sản phải có sự mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự
phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức
trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì
độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
2.1. Chủ thể khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh, bao gồm
toàn thể nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp, các
tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào
các tôn giáo, các đảng phái, …
“Nhân dân” vừa là con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông
đảo quần chúng nhân dân và cả hai đều là chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là phải tập hợp, đoàn kết được tất cả mọi người
dân vào một khối thống nhất, không phân biệt bất cứ điều gì mà chỉ cần cùng
hướng vào mục tiêu chung, “ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, trong quá
trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đứng vững trên lập trường
giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc để tập
hợp lực lượng, không bỏ sót một lực lượng nào miễn là họ có lòng trung thành
và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi của nhân dân.
2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải xác định rõ đâu là
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền
tảng đó. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa
số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và tầng lớp nhân dân
lao động khác. Đó là nền, gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp
nhân dân khác.". Như vậy. lực lượng làm nền tảng được củng cố vững chắc thì
khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng có thể mở rộng, khi ấy không có thế lực nào
có thể làm suy yếu khối đoàn kết toàn dân tộc.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt
nhân” là sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn
kết ngoài xã hội. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết toàn
dân tộc càng được tăng cường, Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó
máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng
Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới
thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai
cấp, tầng lớp cần phải đảm bảo các điều kiện:
3.1. Phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác biệt chính đáng
Phải chú trọng xử lý các mối quan hệ lợi ích rất đa dạng, phong phú trong
xã hội Việt Nam. Chỉ có xử lý tốt quan hệ lợi ích, trong đó tìm ra điểm tương
đồng, lợi ích chung thì mới đoàn kết được lực lượng. Đoàn kết phải lấy lợi ích
tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn
đấu; đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung
để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong Mặt trận.
3.2. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc
Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị
bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt
Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh
vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng thiên tai địch họa, làm cho đất
nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
3.3. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người
Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có
những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của cách
mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất
ở mỗi người, có vậy mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
3.4. Phải có niềm tin vào nhân dân
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, phấn đấu vì hạnh
phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao trong cuộc sống. Dân là chỗ dựa vững
chắc đồng thời cũng là nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, quyết định thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, muốn thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, phải có niềm tin vào nhân dân.
4. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc – Mặt trận dân tộc thống nhất
4.1. Mặt trận dân tộc thống nhất
Khối đại đoàn kết chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh khi được
tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, đó là Mặt trận dân tộc thống
nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước,
tập hợp mọi người dân nước Việt, cả trong nước và kiều bào sinh sống ở nước ngoài.
4.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân
- trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong
chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở rộng
Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, kết thành một khối
vững chắc trong Mặt trận. Người viết: "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết
dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân
tộc thống nhất." Phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì họ là người trực
tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà
cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn,
bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác” Người căn dặn: "Không nên chỉ nhấn mạnh
vai trò của công nông, mà còn phải thấy vai trò và sự cần thiết phải liên minh
với các giai cấp khác, nhất là với đội ngũ trí thức."
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng
không có lợi ích riêng, mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng
lãnh đạo đối với mặt trận thể hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy
luật khách quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối và phương pháp cách
mạng phù hợp. Lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của mình là đấu tranh
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với
nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên
tắc hiệp thương dân chủ. Mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất
cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi
sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Những lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với
lợi ích chung của đất nước, của dân tộc cần được tôn trọng, những gì riêng biệt,
không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự
nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Ba là, phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong Mặt trận, các thành
viên có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt, nên cần
có sự bàn bạc để đi đến nhất trí. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu
đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Đoàn kết thực sự
nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân.
5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Một là, làm tốt công tác vận động quần chúng (Dân vận)
Hồ Chí Minh coi đoàn kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng. Để thực hiện được mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động
quần chúng. Để thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần
chúng để đoàn kết mọi người, tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội và văn
hoá. Để phát huy đầy đủ vai trò, trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân
dân, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải biết làm tốt công
tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động quần chúng nhân
dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và
nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc, từ đó họ
tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Người căn dặn: "cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng:
những việc đó là vì lợi ích của họ mà phải làm." Vì vậy, phương pháp tiếp cận
và vận động quần chúng phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng;
phải xuất phát từ thực tế trình độ dân trí và văn hoá, theo cả nghĩa rộng và nghĩa
hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán và cụ thể đối với từng địa phương, từng đối tượng của nhân dân.
Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối
tượng để tập hợp quần chúng.
Những tổ chức để tập hợp, giáo dục, rèn luyện quần chúng phải phù hợp từng
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, vùng miền... như các tổ chức:
Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ… Các đoàn thể, tổ
chức quần chúng có nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực của
các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn.
Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong
Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bản chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của dân, do
đó vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là phải vận động quần chúng
bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức của
mình. Công tác vận động quần chúng phải dựa trên chiến lược: "Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công." Đối với các đoàn
thể, tổ chức quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng được tập hợp và đoàn kết trong
Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều có sự chỉ đạo trong công tác vận động,
thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ chức của mình.
III. Ý nghĩa luận điểm 1. Về mặt lý luận
Đoàn kết dân tộc không chỉ là một khẩu hiệu chính trị mà còn là một
chiến lược cách mạng xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng
định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công.” Câu nói này thể hiện quan niệm xuyên suốt của Hồ Chí Minh về tầm
quan trọng của đoàn kết dân tộc trong mọi giai đoạn cách mạng. Theo đó, đại
đoàn kết dân tộc là một nguyên tắc chiến lược, một tư tưởng chỉ đạo giúp cách
mạng Việt Nam phát triển vững chắc và đi đến thành công.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ thực tiễn Việt Nam mà còn có
nền tảng từ chủ nghĩa Mác- Lênin. Chủ nghĩa Mác- Lênin nhấn mạnh vai trò của
quần chúng nhân dân trong cách mạng, và Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý
luận này vào hoàn cảnh Việt Nam, khẳng định:
- Đoàn kết dân tộc là cơ sở của sức mạnh cách mạng. Khi các tầng lớp
trong xã hội hợp nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp, họ sẽ cùng nhau vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, hướng tới mục tiêu chung. Đoàn kết dân tộc không chỉ
giải quyết mâu thuẫn, xây dựng sự đồng thuận trong xã hội, mà còn nâng cao
tinh thần chiến đấu, giúp mỗi cá nhân kiên trì, bền bỉ vì lý tưởng chung. Đồng
thời, đoàn kết tạo nền tảng chính trị vững chắc, thu hút sự ủng hộ quốc tế, củng
cố vị thế đất nước. Chính vì vậy, đoàn kết dân tộc là cơ sở vững bền của sức
mạnh cách mạng, dẫn đến thành công trong mọi cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do.
- Đoàn kết là điều kiện để xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh
xã hội đa dạng về tầng lớp, dân tộc, và tôn giáo, sự đoàn kết là yếu tố tạo nên
sức mạnh tổng hợp, phát huy tiềm năng của mọi bộ phận trong xã hội, từ đó thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa. Đoàn kết không chỉ là sự hòa
hợp trong nội bộ mà còn là cơ sở vững chắc để xây dựng một hệ thống chính trị
ổn định, tạo ra sự đồng thuận trong thực hiện các mục tiêu chiến lược quốc gia.
Đồng thời, đoàn kết là sức mạnh to lớn trong bảo vệ độc lập, chủ quyền, và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, khi nhân dân cùng chung sức, đồng lòng đối mặt với
mọi thách thức từ bên ngoài. Vì vậy, đoàn kết dân tộc không chỉ là một yếu tố
tinh thần mà là một điều kiện chính trị, xã hội thiết yếu để xây dựng và bảo vệ
nền tảng vững mạnh của quốc gia.
- Đại đoàn kết dân tộc là sự tập hợp mọi tầng lớp trong xã hội. Đoàn kết
cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau
- Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn
kết một chiều, hình thức, nhất thời
- Đoàn kết phải luôn gắn liền với bao dung và tính nhân đạo, bởi lẽ trong
một xã hội đa dạng về tầng lớp, dân tộc và quan điểm, sự bao dung là yếu tố cốt
lõi để xây dựng một nền tảng chính trị ổn định và phát triển bền vững. Bao dung
không chỉ là sự khoan dung đối với sự khác biệt mà còn là sự thể hiện chính
sách công bằng, bảo vệ quyền lợi của mọi công dân. Khi đoàn kết được thực
hiện trong tinh thần nhân đạo, hướng tới lợi ích chung, nó sẽ tạo ra một xã hội
vững mạnh, thúc đẩy hòa bình, ổn định và sự tiến bộ toàn diện. Vì vậy, đoàn kết,
bao dung và nhân đạo không chỉ là những giá trị tinh thần mà là yếu tố chính trị
chiến lược để xây dựng một tương lai thịnh vượng, hòa hợp và phát triển lâu dài.
- Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng - Đoàn kết toàn dân - Đoàn kết quốc tế
- Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên
cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế
Luận điểm này đã làm phong phú và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, đặc biệt là trong lĩnh vực vận động và tổ chức quần chúng. Nó khẳng
định đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu chiến lược của cách mạng mà
còn là điều kiện cần thiết để tạo nên sức mạnh tổng hợp, lôi kéo được nhiều lực
lượng khác nhau vào mặt trận dân tộc thống nhất. 2. Về mặt thực tiễn
- Tư tưởng đại đoàn kết đã khơi dậy tinh thần đoàn kết của nhân dân. Điều này
giúp dân ta tự tin đi theo con đường của cách mạng, đồng thời tạo động lực
mạnh mẽ để vượt qua các khó khăn, thử thách trong quá trình đấu tranh, từ đó
giành lại độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
- Luận điểm này không chỉ có giá trị trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân
tộc mà còn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
sau cách mạng. Nó khơi dậy tinh thần đổi mới, phát triển khoa học – công nghệ,
giúp Việt Nam bước vào hội nhập quốc tế, đa dạng hoá phát triển kinh tế – xã
hội, hướng tới một đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đoàn kết được xem
như yếu tố động lực để tạo nên Nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời
đảm bảo công bằng xã hội và tiến tới mục tiêu “đẳng minh, đẳng sức, đẳng lòng, đẳng minh”.
- Trong khuôn khổ pháp luật, tư tưởng đại đoàn kết yêu cầu Nhà nước tiếp cận,
đổi mới và hoàn thiện các chính sách đối với các tầng lớp khác nhau trong xã
hội. Từ đó giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích giữa các đối tượng, đảm bảo
quyền lợi của nhân dân, từ đó củng cố và duy trì khối đại đoàn kết dân tộc một cách bền vững.
- Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, tổ chức, thời kỳ.
Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát
huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc
IV. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay (Ngọc Linh, Mỹ Anh)
1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết
quốc tế trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng
1.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, và sức
mạnh quốc tế, trong đó đặt lợi ích dân tộc của đất nước lên hàng đầu, lấy đó làm
cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội. Trước đây, sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh để chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, vào
ngày 2/11/1993, Bộ Chính trị khóa VII đã ra Nghị quyết 07 về đại đoàn kết dân
tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Đến Đại hội VIII, đại đoàn kết
dân tộc được đặt ở tầm cao mới và được các Đại hội sau đó bổ sung, nhấn mạnh.
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá cao nhận định này, cán bộ, Đảng viên và
nhân dân cho rằng: những bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc cho thấy cần được Đảng kế thừa và phát huy sức mạnh đại đoàn
kết để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đồng thời Đảng cần thể hiện vai trò hạt nhân
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Tại Đại hội XIII của Đảng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban
Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn đã nhấn mạnh: “Đại đoàn kết
toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua hàng
ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa,
đùm bọc lẫn nhau đã thấm sâu vào tình cảm và hành động của mỗi người dân
đất Việt trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc đã
tạo nguồn sức mạnh, lập nên những kỳ tích vẻ vang, là điều kiện cơ bản cho sự
thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng như công
cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước ngày nay”.
Từ lời khẳng định ở trên và thực tiễn hoạt động, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn đã
đúc kết lại những bài học kinh nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định để Mặt trận tập hợp được mọi lực lượng, xây dựng, củng cố, phát huy khối
đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, trong mọi hoạt động, hệ thống chính trị phải quán triệt sâu sắc
quan điểm “dân là gốc”, khơi dậy sức sáng tạo, sự ủng hộ của nhân dân, tôn
trọng, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan Đảng,
Nhà nước, MTTQ Việt Nam và hiệp thương phối hợp thống nhất hành động của
các tổ chức thành viên.
Thứ tư, quán triệt phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh, Mặt trận
phải thường xuyên đổi mới phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
đoàn kết gắn với đấu tranh, có lý, có tình với các hành vi sai trái, làm ảnh hưởng
đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, các cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp, cả hệ thống chính trị cần quán triệt sâu sắc tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam; thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát triển tài
năng, sức sáng tạo, mang lại lợi ích cho đất nước.
1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong đường
lối đối ngoại hiện nay

Cùng với việc phát huy tối đa sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc,
quan hơn 30 năm đổi mới, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong việc hoạch định chủ trương,
đường lối. Từ tuyên bố “muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VII), “sẵn sàng là
bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần
thứ IX) đến Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Quan hệ đối ngoại,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta tiếp tục được nâng cao”
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc
tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn,
là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế. Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Hơn 90
năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận
dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa và
phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta
đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo
của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững,
thân chắc, cành uyển chuyển”,... thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”.
Chính vì vậy, để vận dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều
thời cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, Đảng đã đề ra những nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là
trong các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với
các nước trên thế giới.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì phương châm “vừa
hợp tác, vừa đấu tranh” trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Trong đó, hai
mặt hợp tác và đấu tranh luôn gắn bó và có tác động qua lại với nhau, một mặt,
thúc đẩy hợp tác; mặt khác, vẫn phải đấu tranh dưới mọi hình thức, mức độ thích
hợp đối với từng đối tượng, trên từng vấn đề, để vừa có thể ưu tiên bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc, vừa thiết lập quan hệ với các nước trên cơ sở bình đẳng,
cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình. Chính sự kết hợp đúng đắn, linh hoạt giữa
vừa hợp tác, vừa đấu tranh đã tạo điều kiện để Việt Nam tranh thủ được sự ủng
hộ ngày càng nhiều của các lực lượng tiến bộ trên thế giới trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông -
trí dưới sự lãnh đạo của Đảng
Liên minh công - nông - trí thức là hạt nhân, cơ sở của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ vào một mặt trận
chung thống nhất vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng liên minh công - nông - trí
thức là đòi hỏi khách quan, có tính chiến lược của cách mạng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, liên minh
công - nông - trí ngày càng được tăng cường và củng cố, làm nòng cốt cho khối
đại đoàn kết dân tộc, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế - xã hội của đất nước. Sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, liên minh công - nông - trí đã thực sự có những chuyển biến cả về nội
dung lẫn hình thức, đạt được những thành tựu quan trọng:
Thứ nhất, liên minh trên lĩnh vực kinh tế ngày càng được củng cố và hoàn
thiện. Nội dung kinh tế của liên minh là mối quan hệ về mặt kinh tế giữa giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Mối quan hệ này được
thực hiện thông qua sự tác động qua lại giữa khu vực kinh tế công nghiệp và
nông nghiệp, qua chính sách của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân,
nông dân và đội ngũ trí thức để tạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất, nâng
cao năng suất lao động.Kinh tế Việt Nam từ chỗ khủng hoảng nghiêm trọng, đã
từng bước ổn định và đi vào tăng trưởng ở mức khá cao. Với quan điểm phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên nhiều hình thức sở hữu, từ đó đã
hình thành nên một cơ cấu xã hội mới, đa dạng. Giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân, thông qua liên minh, cộng tác với đội ngũ trí thức vì mục tiêu kinh tế -
xã hội chung, đã tiếp cận được với những tri thức mới, tiến bộ và vận dụng
nhanh chóng những thành tựu của khoa học - công nghệ, đã dần “trí thức hóa”.
Dần dần trong cơ cấu xã hội xuất hiện một đội ngũ “công nhân - trí thức” và
“nông dân - trí thức”.Sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng đã lãnh đạo phát huy hiệu
quả vai trò liên minh công - nông - trí thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mọi thành tựu của đất nước đều có vai trò to lớn của giai cấp công nhân, nông
dân và đội ngũ trí thức. Trong đó,nền tảng liên minh công - nông - trí thức đan
xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Thứ hai, liên minh chính trị giữa công nhân, nông dân và trí thức ngày
càng được tăng cường, củng cố. Nội dung chính trị của liên minh công - nông -
trí thức trong thời kỳ đổi mới là sự đoàn kết, gắn bó chặt chẽ giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nhằm mục tiêu giữ vững ổn định
chính trị, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam, xây dựng và bảo
vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, thực hiện
thắng lợi đường lối của Đảng vì lợi ích chung của toàn dân tộc. Nói cách khác,
xây dựng liên minh chính trị công - nông -tríthứclà xây dựng sự nhất trí về chính
trị của các giai tầng xã hội để phấn đấu cho mục tiêu chính trị chung của đất
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Một
yếu tố quan trọng tạo nên sự thống nhất về chính trị đó là việcphát huy và mở
rộng dân chủ trong đời sống xã hội. Các hoạt động văn hóa, thông tin báo chí,
xuất bản ngày càng phát triển cả về nội dung và phương pháp thông tin; về
nghiên cứu và sáng tạo; về thảo luận dân chủ các quan điểm khác nhau; tự phê
bình và phê bình, đấu tranh phê phán các hiện tượng tiêu cực… Những dự thảo
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được đưa ra thảo
luận, xin ý kiến đóng góp xây dựng của đông đảo quần chúng nhân dân trước
khi quyết định ban hành. Quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi công dân,
bất kể là công nhân, nông dân hoặc trí thức... đều bình đẳng như nhau. Ngoài ra,
vai trò tập hợp, đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
ngày càng được củng cố, góp phần tăng cường sự tham gia của công nhân -
nông dân - trí thức và toàn xã hội vào quá trình hoạch định chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, thành tựu trong lãnh đạo xây dựng và củng cố liên minh về mặt
xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội được giải
quyết hài hòa ngay trong từng bước phát triển. Đó là sự nhất quán trong quá
trình lãnh đạo phát triển của Đảng và Nhà nước. Thực hiện mục tiêu đó,
trongviệc ban hành các chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn
quan tâm lợi ích của người lao động, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Đặc biệt, chủ trương “xóa đói giảm nghèo” được coi là một quốc
sách.Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự đóng góp của toàn xã
hội, sự tương trợ lẫn nhau về kinh tế, phát huy truyền thống tương thân tương ái,
số hộ đói nghèo trong công nhân, nông dân, trí thức ở các vùng miền, cả thành
thị và nông thôn ngày càng giảm. Tính đến hết năm 2022, số hộ nghèo trên cả
nước là 1.057.374hộ, chiếm tỷ lệ 4,03%; trong đó, số hộ nghèo khu vực miền
núi phíaBắc là 455.271hộ (14,23%); khu vựcđồng bằng sông Hồng là 69.239hộ
(1%); khu vực Bắc Trung Bộvà duyên hải miền Trunglà 284.137hộ (4,99%);
khu vực Tây Nguyên là 129.160 hộ (8,39%);khu vực Đông Nam Bộ là 9.710hộ
(0,21%); khu vực đồng bằng sông Cửu Long là 109.767hộ (2,26%). Các chính
sách an sinh xã hội, chăm sóc, hỗ trợ các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình
có công được bảo đảm.
Thứ tư, liên minh công - nông - trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy
đặc điểm cơ cấu xã hội - giai cấp được phản ánh trong tồn tại của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Đằng sau mỗi thành phần kinh tế là các giai cấp,
tầng lớp xã hội. Tương ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu giai
cấp đa dạng, phức tạp, bao gồm các giai cấp, tầng lớp xã hội vừa liên minh, vừa
đấu tranh với nhau, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò nòng cốt, lãnh đạo.
Với sự hình thành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu xã
hội - giai cấp ngày càng mạnh mẽ. Hiện nay, cơ cấu giai cấp ở nước ta bao gồm:
giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp
doanh nhân. Trong đó, liên minh công - nông - trí thức là cơ sở của toàn xã hội,
làm cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của thời kỳ quá độ lênchủ nghĩa xã hội,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong liên minh,
giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã
hội. Nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động có vai trò ngày càng quan