





Preview text:
TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
-Mở đầu: Đề tài Những luận điểm sáng tạo của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc. Ý nghĩa thực tiễn
của những quan điểm đó đối với cách mạng VN nói riêng và những thuộc địa trên thế giới nói chung -Lý do chọn đề tài:
+Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã cống hiến trọn
cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân
Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng phong phú, sôi động của Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta nhiều “Di
sản” quý báu, trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu
ấn nổi bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị thời đại sâu sắc. +
-Mục đích nghiên cứu đề tài
Nội dung chính: gồm 2 phần ( chia thành các mục I,II,..) -Lý thuyết :
I. Những luận điểm sáng tạo của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng Việt Nam bao gồm 5 luận điểm:
1) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản
2) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
3) Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông
4) Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động , sáng tạo và có khả nắng giành được
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
5) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng
chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
Trong đó, có thể thấy luận điểm 3 và luận điểm 4 là hai luận điểm sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
so với quan niệm của Mác và Quốc tế cộng sản thời bấy giờ.
Luận điểm 3: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông.
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, là “việc chung của cả dân chúng chứ không
phải không phải việc một hai người”, phải đoàn kết toàn dân “dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp,
nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong lực lượng đó “công – nông
là người chủ của cách mạng ... công – nông là gốc của cách mạng”, “còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách
mệnh của công nông thôi”.Cách mạng phải lấy liên minh công nông làm nòng cốt ( đảm bảo tính giai cấp).
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ Đế quốc Pháp và đại địa chủ phong kiến,
giành độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt
Nam đang bị mất nước, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết
toàn dân. Công nông là gốc, liên minh với các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp công –
nông và của dân tộc. Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh nên rõ: “Đảng phải tập hợp đại bộ giai cấp
công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo , lãnh đạo nông dân làm
cách mạng ruộng đất; lôi kiểu tiểu tư sản, tri thức, trung nông, ... đi về phe vô sản giai giai cấp; đối với bọ
phú nông , trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít
là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến) thì phải đánh đổ”.
Chủ trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người.
Đại đoàn kết là đại đoàn kết toàn dân. “Dân” ở đây được hiểu là tất cả những người có chung nguồn gốc
“con Rồng cháu Tiên”, là tất cả những người Việt Nam yêu nước..., ai ai cũng đều có thể đứng chung
trong hàng ngũ của cách mạng. Năm 1942, Người chủ trương: già, trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham gia
đánh giặc. Năm 1944, Người viết: “cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, vũ trang toàn
dân”... “Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của mọi người Việt Nam yêu nước”.
“31 triệu đồng bào ta ... là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối
cùng”. Đây là tư tưởng có ý nghĩa chiến lược về việc tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
của Hồ Chí Minh. “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước”.
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh chủ trương phát
động chiến tranh nhân dân. “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể
nào thắng được”. Quân sự là chính, kết hợp đấu tranh ngoại giao, thêm bạn bớt thù, phân hóa, cô lập kẻ
thù. Đấu tranh kinh tế chống lại sự phá hoại của địch. Đấu tranh văn hóa, tư tưởng cũng quan trọng.
Song Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh: “Trong khi liên lạc giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một
chút lợi ích gì của công – nông mà đi vào thỏa hiệp”.
Mục đích của cách mạng là chiến tranh chính nghĩa, vì độc lập tự do, làm cho khả năng tiến hành
chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng
chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến &
kháng chiến thắng lợi, đánh bại hai đế quốc to là Pháp & Mĩ trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt
Nam, làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
Luận điểm 4: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Cốt lõi của vấn đề dân tộc là độc lập dân tộc, còn CNXH là cốt lõi của vấn đề giai cấp. Muốn giải
quyết được vấn đề dân tộc cần thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, còn vấn đề giai cấp thì được giải
quyết thông qua cách mạng vô sản. Theo quan điểm của Mác, dân tộc phụ thuộc vào giai cấp, độc lập
dân tộc phụ thuộc vào CNXH nên cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng vô sản. Do đó,
trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Luận cương về phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa nêu ở Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928): “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn
công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Ý kiến này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của cách mạng thuộc địa. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng
thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc có mối liên hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc. Ngay từ Đại hội V quốc tế cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn
chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa ...”. Luận điểm về con đỉa 2 vòi cho thấy cần
thiết phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng thuộc địa. Hồ
Chí Minh cho rằng: nhân dân các dân tộc thuộc địa phải chủ động đứng lên đấu tranh chứ không thể
đứng yên chờ đợi cách mạng ở chính quốc giành thắng lợi. Nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng đều
xuất phát từ chính trong lòng xã hội của cuộc cách mạng đó...Những mâu thuẫn này khi không thể điều
hòa được, tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh, cách mạng sẽ bùng nổ. Phân tích hoàn cảnh xã hội Việt Nam
thời bấy giờ, có thể thấy với địa vị là một nước thuộc địa, Việt Nam đang là nguồn cung cấp các nguồn
lợi chủ yếu cho chủ nghĩa thực dân ( tài nguyên khoáng sản, thị trường, lực lượng cho các cuộc xâm lược
thuộc địa...), tạo nên sự giàu có của các nước thực dân, đồng thời cũng là nơi tập trung tất cả các mâu
thuẫn của thời đại: nông dân >< phong kiến địa chủ, công nhân >< tư bản, mâu thuẫn giữa các nước tư
bản với nhau trong việc tranh giành các nước thuộc địa... Với những mâu thuẫn không thể điều hòa đó,
xã hội Việt Nam được ví như là một chiếc lò xo đang bị nén chặt..., chỉ chờ một cơ hội là có thể bùng phát cực kì dữ dội.
Hơn nữa, cần phải nhận thức được tiềm năng cách mạng ở nhân dân các nước thuộc địa. Là những
người nô lệ bị áp bức bóc lột đến tận xương tủy trên chính đất nước mình, họ là những con người có
tinh thần, ý chí cách mạng kiên cường & không còn gì để mất, sẵn sàng nổi dậy đấu tranh giành lại độc
lập tự do cho Tổ Quốc. Nếu được tổ chức, lãnh đạo, họ sẽ trở thành một lực lượng cách mạng khổng lồ.
Không những thế, là những người dân mất nước được tiếp nhận những giá trị về niềm tự hào dân tộc,
về lòng yêu nước, cũng như những truyền thống lâu đời của dân tộc..., họ sẽ có thêm động lực để đứng
lên đấu tranh, hình thành nên một số lượng lớn các phong trào yêu nước. Dựa vào quan điểm của Mác,
“sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”,
Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: “công cuộc giải phóng anh, em (nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh, em” ... “Khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong
những cái cánh của cách mạng vô sản”. Người đã khẳng định vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng
thuộc địa tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (T6-1924) : “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là
vận mệnh của giai cấp đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa...”.
Nguyễn Ái Quốc nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và nhờ đánh giá
đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã nói : “Cách
mạng thuộc địa khônh những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước”... “Họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải
phóng hoàn toàn”. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã phân biệt về nhiệm vụ của cách
mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và Người cho rằng: hai thứ cách mạng đó tuy có khác
nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
II. Ý nghĩa thực tiễn đối với cách mạng VN nói riêng và các nước thuộc địa nói chung
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản ánh nguyện vọng
được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn là ý chí,
nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu cầu nào khác. Nó
là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con người.
Điều đặc biệt cần lưu ý, sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ là người xây dựng cơ sở lý luận cho sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc với tinh thần “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có nội dung rất phong phú, đa dạng: từ lý luận khởi nghĩa
vũ trang, chiến tranh cách mạng, phương thức tiến hành và nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh xâm lược đến tư tưởng chiến lược tiến công, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị và đấu tranh ngoại giao; đánh địch bằng ba mũi giáp công, trên ba vùng chiến lược, v.v. Trong
đó, nội dung nổi bật của Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc là ở chỗ Người đã phát hiện thấy:
“Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn”. Đúng như vậy! Bởi, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để chp dân tộc,
mới đảm bảo một cách thực chất độc lập, tự do cho đất nước, dân tộc; độc lập dân tộc được giữ vững là
tiền đề xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở nắm vững và vận dụng triệt để tư tưởng của Người cùng với sự lãnh đạo sáng suốt, đúng
đắn của Đảng, quân và dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác , hoàn thành vẻ vang sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc đầy hy sinh, gian khổ qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối.
Thực hiện mục đích và nguyện vọng của nhân dân ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là
giành độc lập dân tộc và khi đã có độc lập dân tộc nhất thiết phải gắn liền với xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì thế, trong giai đoạn đất nước ta mới giành được độc lập ở miền Bắc, Đảng đã lãnh đạo thực hiện
đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta luôn
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước, nhân dân ta đã bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Từ đó
đến nay, Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường đã lựa chọn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Thưc tiễn đã khẳng định đó là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn. - Vận dụng
Kết luận: Tóm tắt , rút ra những ý tưởng cơ bản của việc nghiên cứu
Hiện nay, trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta cần tiếp tục quán triệt, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; trên cơ sở đó, tích cực vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong điều kiện
mới của đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay, việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội lại càng có ý nghĩa quan
trọng, mang tính xuyên suốt, quyết định sự tồn vong của chế độ, của quốc gia - dân tộc. Đổi mới toàn
diện đất nước, thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vấn đề mấu
chốt là không được chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển đất nước nhưng không phải bằng mọi giá,
phát triển phải trên cơ sở đảm bảo độc lập dân tộc - lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc và độc lập
dân tộc phải luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, đó phải là một nền độc lập thực sự mới có ý
nghĩa, nền độc lập không lệ thuộc hay phụ thuộc nước ngoài dưới bất cứ hình thức nào. Và, đó là chủ
nghĩa xã hội được xây dựng theo tư duy mới, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, coi đây là kim chỉ nam cho mọi hành động; luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của
giai cấp công nhân, thấm nhuần tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Hơn ai hết, chúng ta thấm thía sâu
sắc rằng, không có độc lập dân tộc sẽ không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội và nếu không có chủ nghĩa xã
hội cũng sẽ không có độc lập dân tộc bền vững. Mục tiêu “hai trong một” đó có nội dung biện chứng,
không tách rời nhau, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là sự đảm bảo chắc chắn nhất,
bền vững nhất cho sự trường tồn, phát triển của dân tộc, đất nước. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, trước những bước ngoặt trọng đại, ở những thời điểm càng khó khăn, chân
lý ấy càng tỏa sáng, sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội càng được nhân lên gấp bội, đưa
đất nước ta vượt qua những thách thức, tiếp tục giành được những thắng lợi mới.
Thời gian tới, dự báo tinh hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến động nhanh, phức tạp, khó
dự báo; nổi lên là sự cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn. Họ thực hiện điều chỉnh chiến
lược, lôi kéo, tập hợp lực lượng, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau và can dự, chi
phối nội bộ nước khác, tạo ra thách thức lớn đối với các nước đang phát triển. Trong bối cảnh đó, chúng
ta càng phải kiên định giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Phải thấu suốt và thực hiện
tốt quan điểm:“dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó “dĩ bất biến” là độc lập dân tộc, là lợi ích quốc gia -
dân tộc, nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, còn “ứng vạn biến” chính là sách lược mềm dẻo, linh hoạt để
giữ “trong ấm, ngoài êm”. Đồng thời, có kế sách bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước
chưa nguy; chủ động phòng ngừa, giữ vững ổn định bên trong là chính; ngăn ngừa bất hòa, bất đồng,
nguy cơ xảy ra xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta của các thế lực thù địch. Đặc biệt, khi tham gia hội nhập,
hợp tác quốc tế cần tận dụng lợi thế, cơ hội để thu hút các nguồn lực, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ
ngoại lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong đó, nguồn lực bên trong là cơ bản, quyết
định, nguồn lực bên ngoài là đột phá, quan trọng. Cùng với đó, cần tránh để bị phụ thuộc, lệ thuộc nước
ngoài dưới mọi hình thức và không được trông chờ, ỷ lại bên ngoài, mà phải tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình là chính theo đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là
quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”5. Trong điều kiện hội
nhập quốc tế sâu rộng, quan hệ quốc tế đan xen lợi ích rất phức tạp hiện nay, chúng ta cần hết sức tỉnh
táo, khôn khéo, đảm bảo cân bằng, hài hòa lợi ích trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn.
Đồng thời, phải kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh trên cơ sở vận dụng đúng đắn, linh hoạt
quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng. Việc đánh giá, nhìn nhận về đối tác, đối tượng vốn không dễ
nên cần có cách nhìn biện chứng theo tư duy mới để thấy sự chuyển hóa linh hoạt giữa đối tác và đối
tượng trong từng thời điểm cụ thể; từ đó, có sự hợp tác và đấu tranh phù hợp, hiệu quả, tránh phạm
phải sai lầm. Thực tiễn chỉ ra rằng: để thành công cần phải có nhiều yếu tố kết hợp lại, nhưng thất bại có
thể chỉ do một yếu tố mà thôi.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội không chỉ tỏa sáng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, mà còn nguyên
giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Vấn đề quan trọng là chúng ta cần nắm
vững, quán triệt sâu sắc, vận dụng phù hợp, hiệu quả trong thực tiễn. Tài liệu tham khảo: -Tên tác giả -Tên sách, tài liệu
Tạp chí Quốc Phòng toàn dân – Thủ tướng Nguyễn Mạnh Hùng