



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61716437
1. Đối tượng điều chỉnh của LHS là những quan hệ xã hội được luật hình sựbảo vệ.
Nhận định sai. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là các mối quan hệ xã hội
phát sinh giữa nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Luật
Hình Sự không điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định mà luật Hình Sự chỉ
điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa nhà nước và người phạm tội khi người
đó thực hiện một tội phạm. Và từ sự điều chỉnh đó, luật hình sự tạo điều kiện cho
những quan hệ xã hội khác được nhà nước bảo vệ phát triển, tránh được sự phương hại của tội phạm.
2. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là tất cả cácquan hệ xã hội phát
sinh khi có một tội phạm được thực hiện.
Nhận định sai. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là các mối quan hệ xã hội
phát sinh giữa nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Khi
có một tội phạm được thực hiện sẽ có nhiều mối quan hệ xã hội phát sinh xung
quanh tội phạm đó, Luật Hình sự chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội.
3. Việc thực hiện hành vi phạm tội là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan
hệpháp luật hình sự.
Nhận định đúng. Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ pháp luật giữa Nhà nước
và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Và quan hệ đó chỉ phát sinh
khi có hành vi phạm tội xảy ra. Như vậy, có thể khẳng định rằng việc thực hiện
hành vi phạm tội là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự.
4. Người phạm tội và người bị hại có quyền thoả thuận với nhau về mức độ
trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Nhận định sai. QHPLHS là quan hệ pháp luật giữa Nhà nước và người
phạm tội, và phương pháp điều chỉnh của pháp luật hình sự là phương pháp
quyền uy. Do đó, người phạm tội và người bị hại không có quyền tỏa thuận với
nhau về mức độ trách nhiệm hình sự.
5. Bãi nại của người bị hại là căn cứ pháp lý có giá trị bắt buộc làm chấm
dứt quan hệ pháp luật hình sự.
Nhận định sai. QHPLHS là quan hệ pháp luật giữa Nhà nước và người phạm tội,
chấm dứt khi khi người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành
xong các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Người bị hại không phải là chủ thể của quan
hệ pháp luật hình sự, cho nên việc người hại có bãi nại hay không bãi nại thì cũng lOMoAR cPSD| 61716437
không phải là căn cứ pháp lý có giá trị bắt buộc để làm chấm dứt quan hệ pháp
luật hình sự mà chỉ là căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
6. Trong Phần thứ hai (Các tội phạm) của Bộ luật hình sự năm 2015, mỗi
điều luật chỉ quy định một quy phạm pháp luật hình sự.
Nhận định sai. Mỗi điều luật trong phần các tội phạm cụ thể thường quy định
một tội phạm cụ thể. Tuy nhiên cũng có trường hợp một điều luật quy định hai
hoặc nhiều tội phạm cụ thể.
Ví dụ: Điều 304 BLHS (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuậ quân sự) quy định
sáu tội phạm cụ thể. Do đó có thể có nhiều quy phạm pháp luật hình sự trong cùng một điều luật.
7. Phần quy định trong quy phạm pháp luật tại khoản 1 Điều 259 BLHS
năm 2015 là loại quy định viện dẫn.
Nhận định đúng. Quy định này chỉ nêu ra tội phạm nhưng muốn xác định dấu
hiệu của nó thì thì phải xem xét thêm các quy định khác của pháp luật. Cụ thể ở
đây là quy định về quản lý, sử dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần.
8. Phần qui định trong quy phạm pháp luật hình sự tại khoản 1 Điều 108
năm 2015 BLHS là loại qui định mô tả.
Nhận định đúng. Vì quy định này nêu ra tội phạm và mô tả các dấu hiệu đặc
trưng của tội phạm đó. Theo đó, dấu hiệu đặc trưng của tội phạm quy định tại
khoản 1 Điều 108 BLHS là “Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài
nhằm gây nguy hại cho chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm
lực quốc phòng, an ninh….”
9. Chế tài được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS năm 2015 là loại chế
tài tương đối dứt khoát.
Nhận định đúng. Chế tài tương đối dứt khoát là chế tài mà luật quy định mức tối
đa và mức tối thiểu hoặc chỉ quy định mức tối đa của hình phạt. Chế tài được quy
định tại khoản 1 Điều 171 BLHS năm 2015 nêu mức tối thiểu và mức tối đa của
hình phạt (phạt tù từ 1 đến 5 năm). Cho nên, Chế tài được quy định tại khoản 1
Điều 171 BLHS năm 2015 là loại chế tài tương đối dứt khoát.
10. Chế tài được quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS năm 2015 là loại chế tài lựa chọn. lOMoAR cPSD| 61716437
Nhận định sai. Chế tài tương đối dứt khoát là chế tài mà luật quy định mức tối
đa và mức tối thiểu hoặc chỉ quy định mức tối đa của hình phạt. Chế tài được quy
định tại khoản 1 Điều 68 BLHS năm 2015 nêu mức tối thiểu và mức tối đa của
hình phạt (phạt tù từ 3 đến105 năm). Cho nên, Chế tài được quy định tại khoản 1
Điều 168 BLHS năm 2015 là loại chế tài tương đối dứt khoát.
11. BLHS Việt Nam chỉ có hiệu lực áp dụng đối với hành vi phạm tội thực
hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
Nhận định sai. Theo quy định tại Điều 6 BLHS, (1) công dân Việt Nam hoặc
pháp nhân thương mại Việt Nam phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy
cứu TNHS, (2) và người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội
ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam có thể bị truy cứu TNHS theo BLHS Việt Nam
trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Việt
Nam ký kết hoặc tham gia. Như vậy, BLHS Việt Nam còn có thể có hiệu lực áp
dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam.
12. Một tội phạm chỉ được coi là thực hiện tại Việt Nam nếu tội phạm đó bắt
đầu và kết thúc trên lãnh thổ Việt Nam.
Nhận định sai. tội phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi tội
phạm ấy có một giai đoạn được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam (một phần hành
vi, hoặc toàn bộ hành vi, hoặc hậu quả của hành vi xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam).
13. Một số điều luật của BLHS năm 2015 được áp dụng đối với hành vi phạm
tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
Nhận định đúng, về nguyên tắc luật hình sự không có hiệu lực hồi tố. Tuy nhiên
biệt lệ đối với trường hợp (khoản 3 Điều 7 BLHS) thì một số điều luật của BLHS
năm 2015 được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật
đó có hiệu lực thi hành. Đó là các trường hợp: (1) Vì lý do nhân đạo và/hoặc (2)
Vì sự cần thiết bảo vệ lợi ích của Nhà nước và công dân.
14. BLHS năm 2015 không được áp dụng đối với hành vi phạm tội do
ngườinước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Nhận định sai. Theo quy định tại Điều 6 BLHS, người nước ngoài, pháp nhân
thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam có thể bị truy
cứu TNHS theo BLHS Việt Nam trong những trường hợp hành vi phạm tội xâm
hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định trong các điều ước quốc
tế mà nước Việt Nam là thành viên. lOMoAR cPSD| 61716437
15. BLHS năm 2015 có thể được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra
trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả
hoặc giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Nhận định đúng. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 BLHS, hành vi phạm tội xảy
ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc
giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam, thì người phạm tội có thể bị truy
cứu TNHS theo quy định của BLHS Việt Nam trong trường hợp điều ước quốc tế
mà nước Việt Nam là thành viên có quy định.
16. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS năm 2015 là mức hình
phạt do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội.
Nhận định sai. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS là tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (không phải dựa vào hình phạt do Tòa án tuyên).
17. Những tội phạm bị Toà án tuyên phạt từ 3 năm tù trở xuống đều là
tội phạm ít nghiêm trọng.
Nhận định sai. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù. Như
vậy để xác định một tội là ít nghiêm trọng không phải căn cứ vào bản án của tòa
mà căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy. Một tội phạm bị
tuyên phạt 3 năm tù có thể là tội ít nghiêm trọng hoặc có thể không. CSPL: Khoản 1 Điều 9 BLHS
18. Mọi tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự
quy định là phạt tiền thì đều là tội phạm ít nghiêm trọng.
Nhận định đúng. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS thì mọi tội phạm mà
mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định là phạt tiền thì đều
là tội phạm ít nghiêm trọng. CSPL: điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS
19. Trong một tội danh luôn có cả ba loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ
bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.
Nhận định sai. Chỉ có cấu thành cơ bản là cấu thành bắt buộc luôn có trong một
tội danh. Vì cấu thành cơ bản quy định dấu hiệu định tội (cho phép phân biệt tội
phạm này với tội phạm khác), cho nên bắt buộc có trong tất cả các tội danh. Còn
cấu thành tăng nặng và giảm nhẹ có thể có hoặc không.
20. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội. lOMoAR cPSD| 61716437
Nhận định sai. Trong bất cứ cấu thành nào cũng có dấu hiệu định tội. Riêng cấu
thành tội phạm giảm nhẹ vừa có dấu hiệu định tội vừa có dấu hiệu định khung giảm nhẹ.
21. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội
làtội phạm có cấu thành hình thức.
Nhận định sai. Nguyên tắc để xác định một tội phạm có cấu thành hình thức hay
không đó là mặt khách quan của CTTP đó có dấu hiệu hành vi là dấu hiệu bắt
buộc. Còn trên thực tế tội phạm đó có thể đã gây ra hậu quả hoặc chưa gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội, và dấu hiệu hậu quả không phải là bắt buộc trong tội
phạm có cấu thành hình thức.
22. Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội mà luật hình sự có
nhiệmvụ điều chỉnh.
Nhận định sai. Khách thể quả tội phạm là quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại. Có sự khác biệt giữa quan hệ xã hội được luật hình sự
điều chỉnh với quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ: + Quan hệ xã hội được
Luật Hình sự điều chỉnh là quan hệ xã hội giữa nhà nước và n gười phạm tội khi
người này thực hiện tội phạm. Đây chính là quan hệ pháp luật hình sự, đồng thời
là đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự.
+ Quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ là các quan hệ xã hội được Luật Hình
sự của một quốc gia tuyên bố bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. Các quan hệ
xã hội này khi bị xâm hại sẽ trở thành khách thể của tội phạm
23. Mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp.
Nhận định sai. Thông thường mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp. Tuy
nhiên trong BLHS một số tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp – đó là trường
hợp hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại đến nhiều qua hệ xã hội khác nhau được
luật hình sự bảo vệ mà mỗi quan hệ xã hội chỉ thể hiện được một phần bản chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phải kết hợp tất cả cả các quan hệ xã hội bị tội
phạm trực tiếp xâm hại mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó.
Ví dụ: Hành vi cướp tài sản trực tiếp xâm hại hai quan hệ xã hội là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân.
24. Mọi tội phạm, suy cho cùng, đều xâm hại đến khách thể chung.
Nhận định đúng. Khách thể chung của tội phạm là tổng thể các quan hệ xã hội
được Luật Hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. Khách thể chung của tội lOMoAR cPSD| 61716437
phạm hợp nhất các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị các tội phạm
xâm hại thành một hệ thống. Khách thể chung của tội phạm là thống nhất đối với
tất cả các tội phạm. Mỗi hành vi phạm tội, khi xâm hại bất kì quan hệ xã hội cụ
thể nào trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến khách thể chung.
25. Một tội phạm nếu trên thực tế đã làm cho đối tượng tác động của tội
phạm tốt hơn so với tình trạng ban đầu thì không bị coi là gây thiệt hại cho xã hội.
Nhận định sai. Mọi hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng tác động đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội
phạm (tức là bị coi là gây thiệt hại cho xã hội). (Nhưng không phải mọi hành vi
phạm tội đều gây thiệt hại cho đối tượng tác động của tội phạm. Trong nhiều
trường hợp, hành vi phạm tội gây thiệt hại cho khách thể nhưng không làm xấu đi
tình trạng của đối tượng tác động).
26. Mọi hành vi phạm tội đều gây thiệt hại cho đối tượng tác động của tội phạm.
Nhận định sai. Không phải mọi hành vi phạm tội đều gây thiệt hại cho đối tượng
tác động của tội phạm. Trong nhiều trường hợp, hành vi phạm tội gây thiệt hại
cho khách thể nhưng không làm xấu đi tình trạng của đối tượng tác động.
27. Đối tượng tác động của tội phạm là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự.
Nhận định sai. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là quan hệ xã hội giữa nhà
nước và người phạm tội, pháp nhân thương mai phạm tội khi người, pháp nhân
này thực hiện tội phạm (đây chính là quan hệ pháp luật hình sự). Đối tượng tác
động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm, khi hành vi phạm
tội tác động đến sẽ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội
được Luật Hình sự bảo vệ. Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn là đối tượng
tác động thuộc quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ chứ không thuộc quan
hệ xã hội được Luật Hình sự điều chỉnh.
28. Đối tượng tác động của tội phạm luôn là đối tượng vật chất cụ thể.
Nhận định sai. Đối tượng tác động của tội phạm có thể là con người, các đối
tượng vật chất hay hoạt động bình thường của chủ thể quan hệ xã hội.
29. Mọi hành vi phạm tội được thực hiện đều gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. lOMoAR cPSD| 61716437
Nhận định sai. Có những trường hợp hành vi phạm tội chỉ đe dọa gây thiệt hại
cho khách thể (chưa gây thiệt hại), ví dụ: Hành vi đe dọa giết người được quy
định trong tội đe dọa giết người Điều 133 BLHS.
30. Mọi xử sự của con người gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã
hội đều được coi là hành vi khách quan của tội phạm.
Nhận định sai. Ngoài tính nguy hiểm cho xã hội thì một xử sự để được coi là
hành vi khách quan của tội phạm phải là hoạt động có ý thức và có ý chí của con
người và phải là hành vi trái pháp luật hình sự.
31. Tội liên tục là trường hợp phạm tội nhiều lần.
Nhận định sai. Tội liên tục là trường hợp 1 hành vi phạm tội của người phạm tội
là sự tổng hợp của nhiều hành vi cụ thể, và hậu quả của tội phạm cũng chính là sự
tổng hợp hậu quả của các hành vi phạm tội cụ thể đó. Họ không bị coi là phạm
tội nhiều lần. Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện một tội phạm mà trước
đó chủ thể đã phạm tội đó ít nhất một lần và chưa bị xét xử.
32. Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu luôn được quy định trong cấu thành
tội phạm cơ bản.
Nhận định sai. Nếu loại tội phạm có cấu thành hình thức thì trong cấu thành cơ
bản không quy định dấu hiệu hậu quả. Còn nếu loại tội phạm có cấu thành vật
chất thì cấu thành cơ bản luôn có dấu hiệu hậu quả. Và ở các cấu thành định khung
tăng nặng và giảm nhẹ của hai loại tội phạm đều có thể có dấu hiệu hậu quả.
33. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu định tội đối với tội phạm có cấu thành hình thức.
Nhận định sai. Trong tội phạm có cấu thành hình thức, mặt khách quan chỉ có
hành vi là dấu hiệu bắt buộc, không quy định hậu quả cũng như mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả, cho nên dấu hiệu mối quan hệ nhân quả không phải
là dấu hiệu định tội đối với tội phạm có cấu thành hình thức.
34. Người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhận định sai. Nếu người bị mắc bệnh tâm thần nhưng vẫn có khả năng nhận
thức và hả năng điều khiển hành vi của mình (ở mức độ hạn chế) thì họ vẫn có
năng lực TNHS nên họ là chủ thể của tội phạm và phải chịu TNHS về hành vi của
mình, nhưng ở mức độ hạn chế hơn so với những người người bình thường khác. lOMoAR cPSD| 61716437
35. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Nhận định sai. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng về các tôi
danh được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 12 BLHS. Nghĩa là, đối với các tội
phạm không quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. CSPL: khoản 2 Điều 12 BLHS
36. Người 15 tuổi thực hiện hành vi được quy định tại khoản 2 Điều 128
BLHS thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhận định đúng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS, người từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội được liệt kê trong
khoản này, trong đó không có khoản 2 Điều 128 cho nên không phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi này.
37. Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với người bị hại.
Nhận định sai. Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của mình
và hậu quả hành vi đó gây ra, biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý, thể hiện
sự phủ định các yêu cầu của xã hội.
38. Người bị cưỡng bức thân thể thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về
xử sự gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong BLHS.
Nhận định đúng. Hành vi khách quan của tội phạm phải là hoạt động có ý thức
và ý chí. Người bị cưỡng bức thân thể là người bị người khác dùng bạo lực vật
chất tác động lên thân thể khiến người này không thể hoạt hành động theo ý muốn
của họ được cho nên trách nhiệm hình sự được loại trừ.
39. Nhận thức được hậu quả cho xã hội tất yếu xảy ra là nội dung của lỗi cố ý gián tiếp.
Nhận định sai. Trong lỗi cố ý gián tiếp, đối với hậu quả, người phạm tội thấy
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội, tức là khả năng thực tế hậu quả có thể xảy
ra. Còn nhận thức được hậu quả cho xã hội tất yếu xảy ra là nội dung của lỗi cố ý trực tiếp.
40. Người bị cưỡng bức thân thể thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về
xử sự gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong BLHS.
Nhận định đúng. Bởi vì hành vi khách quan của tội phạm phải là hoạt động có ý
thức và ý chí. Người bị cưỡng bức thân thể là người bị người khác dùng bạo lực lOMoAR cPSD| 61716437
vật chất tác động lên thân thể khiến người này không thể hoạt hành động theo ý
muốn của họ được cho nên trách nhiệm hình sự được loại trừ.
41. Người bị cưỡng bức về tinh thần thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự về xử sự gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong BLHS.
Nhận định sai. Trách nhiệm hình sự của người bị cưỡng bức tinh thần: (1) Người
bị cưỡng bức tinh thần bị tê liệt về ý chí -> được loại trừ TNHS.
(2)Người bị cưỡng bức tinh thần không bị tê liệt về ý chí -> vẫn phải chịu TNHS về hành vi của mình.
42. Tuổi chịu TNHS là tiền đề để xác định lỗi của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội.
Nhận định đúng. Vì người chưa đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được xem là không có lỗi và không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Khi đó nhà làm luật mới quy định con người đủ tuổi chịu
TNHS. Do đó, người chưa đủ 14 tuổi thì không được coi là có lỗi. Người từ đủ 14
đến dưới 16 phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc đặc biệt
nghiêm trọng. Người từ đủ 16 trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. CSPL: Điều 12 BLHS.
43. Trong mọi trường hợp sai lầm về pháp luật, người thực hiện hành vi
không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhận định sai. Không phải mọi trường hợp sai lầm về pháp luật đều không phải
chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp, cho rằng hành vi của mình không
phải là tội phạm nhưng luật quy định hành vi đó là tội phạm thì vẫn phải chịu
TNHS về tội đã thực hiện. Hoặc trong trường hợp hiểu lầm về hậu quả pháp lý
của hành vi mình đã thực hiện (tội danh, loại và mức hình phạt) thì phải chịu
TNHS về tội phạm đã thực hiện.
44. Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo pháp luật hình sự.
Nhận định sai. Về nguyên tắc biểu lộ ý định phạm tội không phải là một giai
đoạn thực hiện tội phạm cho nên không chịu TNHS. Tuy nhiên người biểu lộ ý
định phạm tội sẽ bị xử lý theo pháp luật hình sự khi biểu lộ ý định phạm tội mang
tính nguy hiểm đáng kể như đe doạ xâm phạm nhưng khách thể rất quan trọng
được quy định trong luật: an ninh quốc gia, tính mạng con người...Ví dụ: Tội đe
dọa giết người (Điều 133 BLHS). lOMoAR cPSD| 61716437
45. Mức độ thực hiện tội phạm là một trong những căn cứ ảnh hưởng đến
mức độ trách nhiệm hình sự.
Nhận định đúng. Mức độ thực hiện tội phạm biểu hiện thông qua các giai đoạn
thực hiện tội phạm, phản ánh tính nguy hiểm của từng giai đoạn là khác nhau và
là căn cứ ảnh hưởng đến mức độ TNHS. Ví dụ: cùng một tội phạm, mức độ TNHS
ở giai đoạn chưa đạt thấp hơn TNHS ở giai đoạn hoàn thành. CSPL: Điều 57 BLHS.
46. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì không có giai đoạn
phạmtội chưa đạt.
Nhận định sai. Trong tội phạm có cấu thành hình thức, nếu mặt khách quan chỉ
có một hành vi thì không có giai đoạn phạm tội chưa đạt (lúc này người phạm tội
chỉ cần thực hiện hành vi đó thì tội phạm đã hoàn thành), nếu mặt khách quan có
nhiều hành vi thì có giai đoạn phạm tội chưa đạt.
47. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức được coi là hoàn thành khi
người phạm tội thực hiện hết các hành vi khách quan được mô tả trong
cấu thành tội phạm.
Nhận định đúng. Tội phạm có cấu thành hình thức chỉ quy định dấu hiệu hành vi
là dấu hiệu khách quan, cho nên khi người phạm tội thực hiện hết các hành vi
khách quan được mô tả đó thì được coi là hoàn thành.
48. Tội phạm có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi người phạm
tội đã thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm.
Nhận định sai. Tội phạm có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành khi có
hậu quả luật định xảy ra, như vậy nếu người phạm tội đã thực hết các hành vi
cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng hậu quả vẫn không xảy ra thì tội phạm
vẫn không được coi là hoàn thành. Bởi vì dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc
đối với loại cấu thành này.
49. Thời điểm tội phạm kết thúc có thể xảy ra trước khi tội phạm hoàn thành.
Nhận định đúng. Thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã
thực sự chấm dứt trên thực tế. Tội phạm hoành thành là trường hợp hành vi tội
phạm đã thỏa mãn các dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm. Như vậy
2 thời điểm này có thể trùng hoặc không trùng nhau. Ví dụ tội giết người. lOMoAR cPSD| 61716437
Một người có hành vi giết người, nhưng nạn nhân một thời gian sau mới chết.
Như vậy tội phạm kết thúc xảy ra rước khi tội phạm hoàn thành. Vì tội giết người
có cấu thành vật chất cho nên khi có dấu hiệu hậu quả chết người xảy ra thì tội
phạm mới được coi là hoàn thành.
50. Thời điểm tội phạm kết thúc có thể xảy ra sau khi tội phạm hoàn thành.
Nhận định đúng. Thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã
thực sự chấm dứt trên thực tế. Tội phạm hoành thành là trường hợp hành vi tội
phạm đã thỏa mãn các dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm. Như vậy
2 thời điểm này có thể trùng hoặc không trùng nhau.
Ví dụ tội tàng trữ ma túy, một người có hành vi tàng trư ma túy, một thời gian sau
mới bị phát hiện. Như vậy ngay từ khi người đó có hành vi tàng trữ thì tội phạm
đã hoàn thành, nhưng khi bị phát hiện thì tội phạm mới kết thúc trên thực tế
51. Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm hành vi phạm tội đã thực
sự chấm dứt trên thực tế.
Nhân định sai. Thời điểm tội phạm hoàn thành là khác nhau giữa tội phạm có cấu
thành vật chất và tội phạm có cấu thành hình thức. Ví dụ đối với tội phạm có cấu
thành vật chất thì thời điểm xảy ra hậu quả luật định mới là tời điểm tội phạm
hoàn thành mặc dù hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt trước đó trên thực tế.
52. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp không bị coi là tội phạm.
Nhận định sai. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vẫn bị coi là tội
phạm tuy nhiên vì chính sách khoan hồng của nhà nước nên được miễn TNHS.
Bên cạnh đó, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội
khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này CSPL: Điều 16 BLHS.
53. Nếu người phạm tội chấm dứt thực hiện tội phạm một cách tự nguyện
và dứt khoát thì được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Nhận định sai. Ngoài việc người phạm tội chấm dứt thực hiện tội phạm một cách
tự nguyện và dứt khoát thì điều kiện để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội là việc chấm dứt xảy ra khi đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc
phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Như vậy nếu một người chấm dứt thực hiện
tội phạm một cách tự nguyện và dứt khoát nhưng ở giai đoạn tội phạm chưa đạt
đã hoàn thành hoặc giai đoạn tội phạm hoàn thành thì không được coi là tự ý nửa chừng. lOMoAR cPSD| 61716437
54. Mọi trường hợp có từ hai người trở lên cố ý thực hiện một tội phạm là đồng phạm.
Nhận định sai. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện
một tội phạm. Dấu hiệu cùng thực hiện tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của đồng
phạm nên không thể coi là đồng phạm khi một số người đã thực hiện hành vi phạm
tội một cách cố ý tại một địa điểm và đồng thờivề mặt thời gian nhưng hành vi
của từng người được thực hiện một cách độc lập, không liên hệ, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Những trường hợp này chỉ là phạm tội riêng lẻ. Ví dụ: hai người dùng
hai lưới bắt cá trộm cùng một lúc trên một ao cá. Nếu không có sự liên kết nào
trong hành động bắt cá trộm của họ, thì giữa họ không phải là đồng phạm, mỗi
người chịu trách nhiệm về tội trộm cắp riêng của mình. Nhưng nếu có sự phối hợp
dưới một hình thức nào đó trong hành vi của họ, như là nếu hai người cùng nhau
xua cá về một góc để bắt trộm được nhiều hơn, thì có sự đồng phạm trong tội trộm
cắp của họ, vì đã có dấu hiệu cố ý cùng thực hiện tội phạm.
55. Hành vi của mỗi người đồng phạm đều là nguyên nhân trực tiếp đưa đến
hậu quả chung của tội phạm.
Nhận định sai. Khi các đồng phạm đều là người trực tiếp thực hiện hành vi được
mô tả trong CTTP (Đồng phạm giản đơn) thì hành vi của mỗi người đồng phạm
đều là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả chung của tội phạm. Trong khoa học
hình sự trường hợp này được gọi là mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp.Tuy nhiên
khi có sự phân công vai trò giữa những người cùng thực hiện tội phạm tức là có
người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức và người thực hành (đồng phạm
phức tạp), thì chỉ có hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm
phát sinh hậu quả chung vì người thực hành là người thực hiện hành vi khách
quan được mô tả trong CTTP vì thế mới có thể gây ra hậu quả được, còn những
hành vi của những người đồng phạm khác là nguyên nhân gián tiếp làm phát sinh
hậu quả chung, hành vi của họ phải thông qua hành vi
của người thực hành mới gây ra hậu quả chung.
56. “Cùng mục đích” là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm.
Nhận định sai. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người
phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện một tội phạm. Trong quá trình cố ý
cùng thực hiện một tội phạm, mục đích phạm tội của những người đồng phạm có
thể khác nhau. Đối với những đồng phạm không quy định dấu hiệu mục đích là
dấu hiệu bắt buộc để định tội thì các đồng phạm không buộc phải có chung dấu hiệu cùng mục đích. lOMoAR cPSD| 61716437
57. Bàn bạc thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm là dấu hiệu
bắt buộc của đồng phạm.
Nhận định sai. Trong trường hợp đồng phạm không có thông mưu trước - một
hình thức đồng phạm trong đó giữa những người đồng phạm không có sự thỏa
thuận, bàn bạc trước với nhau về việc cùng thực hiện tội phạm, hoặc là có sự thỏa
thuận nhưng không đáng kể.Trong hình thức đồng phạm này tuy giữa những người
không có sự bàn bạc, trao đổi trước với nhau về việc thực hiện tội phạm nhưng
mỗi người đều nhận thức được họ và những người đồng phạm khác đang thực
hiện một tội phạm nhất định, hoạt động phạm tội của mỗi người trong số họ tiến
hành trong sự liên kết với nhau.
58. Đối với những tội phạm có chủ thể đặc biệt, những người đồng phạm
buộc phải có dấu hiệu của chủ thể đặc biệt.
Nhận định sai. Đối với những tội phạm đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt thì chỉ
những người thực hành phải có đủ các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt đó bởi vì
người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP cho
nên khi đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt thì người thực hành trong trường hợp
đồng phạm phải có dấu hiệu chủ thể đặc biệt thì mới có thể thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong CTTP. Nếu không họ chỉ có thể là người giúp sức
hoặc có thể phạm tội khác, những người đồng phạm khác không phải là người
thực hành thì không cần dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Ví dụ: Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS)
59. Người thực hành chỉ là người tự mình thực hiện hành vi phạm tội.
Nhận định sai.Người thực hành được hiểu ở hai dạng sau: Người thực hành là
người trực tiếp thực hiện toàn bộ tội phạm hoặc một phần hành vi được mô tả
trong CTTP. Người thực hành là người không tự mình trực tiếp thực hiện hành
vi khách quan được mô tả trong CTTP mà có hành vi tác động đến người khác để
người này thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP tội phạm. Nhưng bản thân
người bị tác động đã thực hiện hành vi đó lại không phải chịu TNHS cùng với
người đã tác động, vì: họ là người không có năng lực TNHS hoặc chưa đủ tuổi
chịu TNHS; họ không có lỗi hoặc lỗi vô ý do sai lầm
60. Việc xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm phải căn cứ
vào hành vi của người thực hành.
Nhận định đúng. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi khách
quan, mà hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc trong mọi CTTP, do đó khi xác
định giai đoạn phạm tội thì phải căn cứ vào hành vi của người thực hành. Những lOMoAR cPSD| 61716437
hành vi của người tổ chức, giúp sức hay xúi giục chỉ có thể gây ra thiệt hại cụ thể,
thực tế cho xã hội thông qua hành vi của người thực hành.
61. Giúp sức để kết thúc tội phạm vào thời điểm sau khi tội phạm hoàn thành là đồng phạm.
Nhận định đúng. Điều kiện của hành vi giúp sức là trước khi tội phạm kết thúc,
chứ không phải trước khi tội phạm hoàn thành. Thời điểm tội phạm hoàn thành
khác với thời điểm tội phạm kết thúc. Do đó trong trường hợp nếu một người giúp
sức vào thời điểm sau khi tội phạm hoàn thành nhưng chưa kết thúc thì vẫn là đồng phạm giúp sức.
62. Hành vi giúp sức trong đồng phạm phải được thực hiện trước khi
ngườithực hành bắt tay vào việc thực hiện tội phạm.
Nhận định sai. Hành vi giúp sức có thể thực hiện trước khi người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội hoặc có thể thực hiện khi tội phạm đang tiến hành.
63. Đồng phạm phức tạp là phạm tội có tổ chức.
Nhận định sai. Đồng phạm phức tạp là một hình thức đồng phạm trong đó có
một hoặc một số người tham gia giữ vai trò người thực hành, còn người đồng
phạm khác giữ vai trò tổ chức, xúi giục hay giúp sức. Còn phạm tội có tổ chức,
Khoản 3 Điều 20 BLHS nêu rõ “phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có
sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.” Như vậy nếu
trong trường hợp một vụ đồng phạm phức tạp nhưng giữa những người thực hiện
tội phạm không có sự câu kết chặt chẽ thì không phải là phạm tội có tổ chức.
64. Những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi
tội phạm do người thực hành thực hiện trên thực tế.
Nhận định sai. Những người đồng phạm không phải chịu TNHS về hành vi vượt
quá của người đồng phạm khác. Hành vi vượt quá của người đồng phạm khác là
hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm. Hành vi đó có
thể cấu thành tội phạm độc lập hoặc cấu thành tình tiết định khung tăng nặng.
Hành vi vượt quá thông thường được biểu hiện ở hành vi của người thực hành
(Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện tội phạm).
65. Mọi hành vi cố ý chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đều
coi là hành vi giúp sức trong đồng phạm.
Nhận định sai. Dạng đặc biệt của hành vi giúp sức trong đồng phạm là hành vi
hứa hẹn trước sẽ che dấu người pham tội, che dấu vật chứng hoặc chứa chấp tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được sau khi thực hiện tội phạm. Lời lOMoAR cPSD| 61716437
hứa hẹn trước tuy không tạo ra những điều kiện thuận lợi cụ thể nhưng cũng có
tác động tích cực vào việc thực hiện tội phạm. Sự tác động này thể hiện ở chỗ đã
củng cố ý định phạm tội, củng cố quyết tâm phạm tội của người thực hành.
Như vậy, nếu hành vi cố ý chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có mà có
sự hứa hẹn trước thì coi là hành vi giúp sức. Nếu những hành vi giúp chứa chấp
tài sản khi người thực hành đã thực hiện xong tội phạm nhưng không có sự hứa
hẹn trước thì cũng không phải là hành vi giúp sức trong đồng phạm.
66. Tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là
tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự.
Nhân định đúng. Tính nguy hiểm là một trong những đặc điểm của tội phạm.
Khi có tình tiết loại trừ tính nguy hiểm thì hành vi đó không nguy hiểm vì vậy nó
không phải là tội phạm, chính vì vậy cũng loại trừ luôn trách nhiệm hình sự.
67. Tình tiết loại trừ tính có lỗi là tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự.
Nhận định đúng. Tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi bao gồm tình
tiết loại trừ tính nguy hiểm và tình tiết loại trừ tính có lỗi.
68. Tình trạng không có năng lực TNHS là tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự.
Nhận định đúng. Tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi bao gồm tình
tiết loại trừ tính nguy hiểm và tình tiết loại trừ tính có lỗi, trong đó tình trạng
không có năng lực TNHS là tình tiết loại trừ tính có lỗi.
69. Trong phòng vệ chính đáng, chỉ có người bị tấn công mới có quyền phòng vệ.
Nhận định sai. Hành vi xâm hại làm cơ sở phát sinh quyền phòng vệ không nhất
thiết chỉ xâm hại đến lợi ích của người phòng vệ mà còn xâm hại đến lợi ích của
Nhà nước, của tổ chức và cá nhân khác. CSPL: Khoản 1 Điều 22 BLHS.
70. Hành vi tấn công của người không có năng lực trách nhiệm hình sự dù
nguy hiểm đáng kể cho xã hội cũng không làm phát sinh quyền phòng vệ.
Nhận định sai. Quyền phòng vệ phát sinh khi có sự tấn công nguy hiểm và trái
pháp luật. Hành vi đó có thể do người không đủ điều kiện về chủ thể thực hiện.
Bởi vì trước một sự tấn công trái pháp luật đang xảy ra thì người công dân bình
thường không có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để phân tích đó có phải là
hành vi phạm tội hay không lOMoAR cPSD| 61716437
71. Phạm tội do phòng vệ quá muộn là phạm tội trong trường hợp vượt
quágiới hạn phòng vệ chính đáng.
Nhận định sai. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là…, Phòng vệ quá
muộn là trường hợp có hành vi chống trả khi sự tấn công đã thực sự chấm dứt
trên thực tế. Trường hợp này vì quyền phòng vệ không khởi phát nên hành vi
chống trả không được xem là phòng vệ chính đáng hay vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng và phải chịu TNHS như những trường hợp bình thường khác.
72. Hành vi của con người không thể là nguồn nguy hiểm trong tình thế cấpthiết.
Nhận định sai. Sự nguy hiểm trong tình thế cấp thiết có thể là do các nguồn nguy
hiểm khác nhau: con người, thiên nhiên hoặc súc vật gây ra.
73. Hành vi phòng vệ được coi là trong giới hạn cần thiết nếu thiệt hại gây
ra cho người tấn công nhỏ hơn thiệt hại mà người tấn công gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Nhận định sai. Thực tiễn vấn chấp nhận phòng vệ trong giới hạn cần thiết ngay
cả khi thiệt hại do hành vi phòng vệ gây ra lớn hơn thiệt hại do hành vi tấn công
gây ra, nếu có đủ căn cứ chứng minh rằng trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể biện
pháp và mức độ phòng vệ đó là cần thiết để ngăn chặn sự tấn công. (Tuy nhiên
việc lựa chọn biện pháp cũng như mức độ phòng vệ cung không được rõ ràng quá mức cần thiết.
74. Thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết phải là thiệt hại nhỏ nhất để
khắc phục tình trạng nguy hiểm.
Nhận định sai. Điều kiện về thiệt hại trong tình thế cấp thiết đó là lợi ích bị gây
thiệt hại nhỏ hơn lợi ích cần bảo vệ → thiệt hại gây ra không bắt buộc phải là thiệt
hại nhỏ nhất mà là thiệt hại nhỏ hơn.
75. Án tích là một trong những hình thức của trách nhiệm hình sự.
Nhận định đúng. Trách nhiệm hình sự là hậu quả bất lợi của việc thực hiện tội
phạm. Bao gồm hình phạt, án tích và các biện pháp tư pháp. Như vậy, án tích là
một trong những hình thức của trách nhiệm hình sự.
76. Ngăn ngừa người khác phạm tội là mục đích phòng ngừa riêng của hìnhphạt.
Nhận định sai. Mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt là kết quả mà Nhà nước
mong muốn đạt được khi dùng hình phạt tác động trực tiếp đến người phạm tội lOMoAR cPSD| 61716437
để trừng trị người phạm tội, giáo dục, cải tạo người phạm tội; ngăn ngừa họ phạm
tội mới. Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt là kết quả tác động đến cộng
đồng xã hội mà Nhà nước muốn đạt được khi áp dụng hình phạt đối người phạm
tội. Như vậy, ngăn ngừa người khác phạm tội là mục đích phòng ngừa chung của
hình phạt: ngăn ngừa, đấu tranh chống tội phạm. CSPL: Điều 31 BLHS
77. Người phạm một tội có thể phải chịu nhiều hình thức của TNHS.
Nhận định đúng. Trách nhiệm hình sự là hậu quả bất lợi của việc thực hiện tội
phạm. Bao gồm hình phạt, án tích và các biện pháp tư pháp. Và người phạm tội
chịu hình phạt luôn phải chịu án tích. Do đó, người phạm tội có thể phải chịu
nhiều hình thức của TNHS.
78. Người phạm tội làm tiền giả theo quy định tại Khoản 1 Điều 207 BLHS
thì có thể bị áp dụng hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Nhận định sai. Theo quy định tại Điều 50 BLHS, khi quyết định hình phạt, tòa
án căn cứ vào quy định của BLHS... khoản 1 Điều 207 không quy định hình phạt
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình phạt bổ sung → không được áp dụng.
79. Mọi trường hợp áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đều phải khấu
trừ thu nhập của người bị kết án.
Nhận định sai. Hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng với người chưa thành
niên không được khấu trừ thu nhập.
CSPL: khoản 2 Điều 100 BLHS
80. Thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định theo Điều 41 BLHS chỉ được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Nhận định sai. Thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định là kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo. Như vậy không
phải trong mọi trường hợp thời hạn đều được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật
81. Hình phạt quản chế được tuyên kèm với tất cả các loại hình phạt chính. lOMoAR cPSD| 61716437
Nhận định sai. Không thể tuyên kèm hình phạt quản chế với hình phạt tù chung
thân. (Đối với hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng khi người bị kết án đã
chấp hành xong hình phạt tù).
82. Biện pháp “tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” (Điều 47
BLHS) chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội.
Nhận định sai. Người có lỗi trong trong việc để cho người phạm tội sử dụng vật,
tiền tài sản của mình thì cũng có thể bị áp dụng biện pháp này. Bên cạnh đó biện
pháp này còn có thể được áp dụng đối với pháp nhân phạm tội. CSPL: Khoản 3 Điều 47 BLHS.
83. Biện pháp tư pháp có thể được áp dụng thay thế cho hình phạt.
Nhận định đúng. Khái niệm biện pháp tư pháp: là các biện pháp hình sự được
quy định trong BLHS, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có ành vi
nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt.
Ví dụ: Có thể áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thay thế
cho hình phạt đối với người thành niên phạm tội. Điều 96 BLHS.
84. Không áp dụng tình tiết “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”
(điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS) trong trường hợp phạm tội do lỗi vô ý.
Nhận định đúng. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội với trẻ em” đối với trường hợp
phạm tội do lỗi cố ý, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bị cáo có nhận
biết được hay không không nhận biết được người bị xâm hại là trẻ em
85. Phạm tội nhiều lần là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Nhận định sai. Phạm tội nhiều lần là thực hiện mà trước đó chủ thể đã phạm tội
đó ít nhất là một lần và chưa bị xét xử. Còn phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
là cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội phạm, không phân biệt đã truy
cứu TNHS hay chưa, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa hết án tích.
Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của
việc phạm tội làm nguồn sống chính.
86. Một trong những điều kiện để áp dụng tình tiết “phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS là phải
cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội phạm.
Nhận định sai. Điều kiện là nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa hết
án tích và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm ngề sinh sống và lấy kết
quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. lOMoAR cPSD| 61716437
87. Mọi trường hợp đã bị kết án đều có án tích.
Nhận định sai. Theo quy định tại khoản 2 Điều 69, người bị kết án do lỗi vô ý về
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt
thì không bị coi là có án tích. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 107, người
dưới 18 tuổi được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp: a)
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; b) người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị
kết án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý; c)
người bị áp dụng biện pháp tư pháp.
88. Mọi trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà phạm tội mới
đều bị coi là tái phạm.
Nhận định sai. Điều kiện tái phạm: đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà phạm
tội mới với lỗi cố ý đối với mọi loại tội phạm hoặc phạm tội với lỗi vô ý đối với
tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy nếu phạm tội ít nghiêm
trọng với lỗi vô ý thì không phải là tái phạm
89. Trong trường hợp có nhiều bản án, thời gian thực tế mà người bị kết án
phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn có thể trên 30 năm.
Nhận định đúng. Nếu một người đang chấp hành bản án mà lại phạm tội mới thì
thời gian thực tế chấp hành hình phạt của họ có thể trên 30 năm. Ví dụ: A đang
chấp hành bản án 20 năm tù với tội cướp tài sản được 3 năm thì A lại phạm tội
mới là tội giết người và bị tòa án kết án 15 năm tù về tội phạm này, thì thời gian
thực tế chấp hành của A là 33 năm
90. Có thể quyết định mức hình phạt 12 năm tù cho người phạm tội giết
người chưa đạt thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS.
Nhận định sai. Trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS có
mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù. Mà theo quy định tại khoản 3 Điều 57
BLHS thì đối với trường hợp phạm tội chưa đạtnếu là tù có thời hạn thì mức hình
phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Vậy, mức hình phạt
cao nhất có thể áp dụng cho người phạm tội giết người chưa đạt thuộc trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS là 15 năm tù x ¾ = 11 năm 3 tháng tù.
91. Thời hiệu thi hành bản án theo Điều 60 BLHS là thời hiệu thi hành đối
với quyết định về hình phạt và các quyết định khác của bản án hình sự.
Nhận định đúng. Theo quy định tại, bản án bao gồm hình phạt (hình phạt chính,
hình phạt bổ sung) và các quyết định khác của bản án, do đó, thời hiệu thi hành
bản án là thời hiệu thi hành đối với quyết định về hình phạt và các quyết định khác
của bản án hình sự. lOMoAR cPSD| 61716437
92. Người được miễn trách nhiệm hình sự thì không có án tích.
Nhận định đúng. Vì miễn trách nhiệm hình sự là người phạm tội không phải
chịu TNHS về tội phạm mình đã thực hiện. Mà án tích là một hình thức của TNHS.
92. Thẩm quyền miễn hình phạt chỉ thuộc về Tòa án.
Nhận định đúng. Ngoài tòa án ra không có cơ quan nào có thẩm quyền áp dụng
biện pháp này bởi hình phạt chỉ do tòa án quyết định nên về nguyên tắc miễn hình
phạt cũng chỉ được áp dụng bởi tòa án. (Phạm vi miễn hình phạt bao gồm miễn
hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
93. Chấp hành bản án là chấp hành hình phạt.
Nhận định sai. Bản án bao gồm hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung)
và các quyết định khác của bản án, do đó, chấp hành bản án không chỉ là chấp
hành hình phạt mà còn là chấp hành các quyết định khác.
94. Người bị kết án phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi đều được hoãn chấp hành hình phạt tù.
Nhận định sai. Theo quy định tại khoản 2 Điều 67 BLHS, trong thời gian hoãn
chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại phạm tội
mới, thì tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với
hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này cho dù người
đó là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
95. Án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
Nhận định sai. Án treo là một biện pháp khoan hồng, miễn chấp hành hình phạt
tù có thời hạn có điều kiện chứ không phải là hình phạt.
96. Điều kiện thử thách của án treo chỉ là người bị kết án không phạm tội
mới trong thời gian thử thách.
Nhận định sai. Theo quy định tại khoản 5 Điều 65 BLHS thì điều kiện thử thách
của án treo không chỉ là người bị kết án không phạm tội mới trong thời gian thử
thách. Bên cạnh đó nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy
định của Luật thi hành án hình sự 2 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc
người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Như vậy
có thể hiểu, một trong những điều kiện thử thách của án treo đó là chấp hành nghĩa
vụ theo Luật thi hành án hình sự.
97. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm
nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự hai lần trở lên thì