Đề cương ôn tập cuối kì 1 chủ nghĩa khoa học xã hội | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Đề cương ôn tập cuối kì 1 chủ nghĩa khoa học xã hội | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

Trường:

Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu

Thông tin:
36 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương ôn tập cuối kì 1 chủ nghĩa khoa học xã hội | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Đề cương ôn tập cuối kì 1 chủ nghĩa khoa học xã hội | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

203 102 lượt tải Tải xuống
ÔN TẬP CUỐI KÌ
Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử ra đời của CNXHKH và vai trò của Mác – Ăngghen
với sự ra đời của CNXHKH. Tại sao nói Mác, Ăngghen đã b iến CNXH không
tưởng trở thành khoa học?
1 .Khái niệm CNXHKH
Theo nghĩa rộng, CNXHKH chủ nghĩa Mác – Lênin, với sự luận giải từ các
giác độ (triết học, kinh tế chính trị và hội chính trị) về sự chuyển biến tất yếu
của XH loài người từ CNTB lên CNXH và CNCS
Theo nghĩa hẹp, CNXHKH 1 trong 3 bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác
Lênin: Triết học, KTCT CNXHKH. CNXHKH bộ phận thể hiện tập trung
nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Hoàn cảnh lịch sử ra đời CNXHKH
• Điều kiện kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, CNTB ở châu Âu đã đạt được những bước phát
triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ 1 đã
thúc đẩy phương thức sản xuất TBCN phát triển vượt bậc. Cùng với đó là sự ra đời
2 giai cấp bản, đối lập về lợi ích nhưng nương tựa với nhau: giai cấp sản &
giai cấp công nhân.
Cũng tđây cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự áp bức của
giai cấp bản ngày càng quyết liệt. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có
một lý luận khoa học hướng dẫn.
Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: phong trào công nhân dệt
thành phố Liông (Pháp); phong trào công nhân dệt Xêlidi (Đức); phong trào Hiến
chương (Anh). Những phong trào đó tính quần chúng mang hình thức chính
trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng
một hệ thống luận soi đườngcương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành
động
=> Điều kiện KT-XH ấy k chỉ đặt yêu cầu đối với các nhà tưởng của giai cấp
công nhân còn mảnh đất hiện thực cho sự ra đời 1 luận mới, tiến bộ -
CNXHKH
Những tiền đề KHTN– tư tưởng lý luận
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa và tư tưởng.
Về KHTN có: thuyết tế bào, thuyết tiến hoá, thuyết bảo toàn chuyển hóa năng
lượng.
Về KHXH có: triết học cổ điển Đức, KTCT học Anh, CNXH không tưởng phê
phán
=> Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tưởng đã tạo ra những tiền đề
tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và CNXHKH nói riêng.
3. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của CNXHKH
- C.Mác (1818 – 1883):
C. Mác người sáng lập ra CNXHKH, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử KTCT khoa học. Ông lãnh tụ người thầy của giai cấp
sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):
Ph. Ăngghen nhà bác học, lãnh tụ người thầy của giai cấp công nhân hiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực TBCN trên quan điểm chủ nghĩa duy vật
biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra 2 phát kiến vĩ đại đó
là: chủ nghĩa duy vật lịch sử học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát kiến ấy,
CNXH đã trở thành khoa học”. CNXHKH ra đời không phải do tưởng tượng, ước
mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của CNTB, của tư duy lý luận có cơ sở
khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của ĐCS” do C. Mác Ph. Ăngghen soạn thảo đánh
dấu sự ra đời lí luận chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên, là
kim chỉ nam của phong trào cộng sản công nhân quốc tế. “Tuyên ngôn của
ĐCS”, theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận Tuyên ngôn của CNXH thế
giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
* Tại sao nói Mác Anghen đã biến CNXH từ không tưởng trở thành khoa học?
-Khái niệm chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tưởng về giải
phóng xã hội, giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp không có áp
bức, bóc lột, đảm bảo cho mọi người thực sự cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc,
nhưng lại đưa ra con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo duc, thuyết phục và
tuyên truyền hòa bình...cho lý tưởng của họ.
Chính sự xuất hiện chế độ hữu, xuất hiện giai cấp thống trị bóc lột xuất
hiện các phong trào và tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
-Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Giai đoạn thứ nhất: Những mầm mống khuynh hướng tưởng hội chủ
nghĩa thời cổ đại
Mâu thuẫn giai cấp cuộc đấu tranh giai cấp miếng đất làm nảy sinh những
mầm mống tưởng hội chủ nghĩa. tưởng hội chủ nghĩa thời cổ đại thể
hiện trong dòng “văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian
như: các chuyện thần thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội không tưởng một mặt,
phản ánh những sự bất bình của đông đảo quần chúng lao động đối với các hành vi
áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của
công chúng bị bóc lột, bị áp bức về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng
rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí muốn trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thuỷ”.
Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ
XVIII
Chủ nghĩa bản ra đời sau đó phát triển một số nước, trước hết châu
Âu. Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó những xung đột giai
cấp cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của
mình đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động.
Trong bối cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà hội chủ nghĩa không tưởng.
Thông qua các tác phẩm “văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận
đại đã lên án, phê phán chế độ hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế
chế độ xã hội đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.
Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản
hoàn thành nước Anh sau đó tiếp diễn một số nước Tây Âu. Đây giai
đoạn chủ nghĩa bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp sản đã bắt đầu
bộc lộ bản chất cố hữu của nó: phản động bóc lột áp bức nhân dân lao động
quyền lợi của giai cấp mình; Đây cũng giai đoạn giai cấp sản hiện đại hình
thành và bắt đầu thức tỉnh về chính trị.
Trong điều kiện lịch sử ấy, đã xuất hiện những đại biểu mới của chủ nghĩa xã hội
không tưởng. Đó là các nhàhội chủ nghĩa không tưởng - phê phánđại: C.H.
Xanh Ximông, Ph.S. Phuriê, R Ôoen. Trong thời kỳ này, các tưởng hội chủ
nghĩa được thể hiện như một học thuyết. Chủ nghĩa hội không tưởng - phê
phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc hội bản chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời
đề xuất con đường, biện pháp và những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai.
Những giá trị những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng Những
giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chủ nghĩa xã hội không tưởng có một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ là những
ước mơ, khát vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền thuyết tôn
giáo đến những học thuyết hội - chính trị. Cống hiến lớn lao của chủ nghĩa
hội không tưởng:
Một là, chủ nghĩa hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên án, phê phán kịch
liệt ngày càng gay gắt, các hội dựa trên chế độ hữu, chế độ quân chủ
chuyên chế chế độ bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của những
người lao động trước tình trạng bị áp bức, bị bóc lột ngày càng nặng nề.
Hai là, chủ nghĩa hội không tưởng đã phản ánh được những ước mơ, khát vọng
của những giai cấp lao động về một hội công bằng, bình đẳng, bác ái. chứa
đựng giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện lòng yêu thương con người, thông
cảm, bênh vực những người lao khổ, mong muốn giúp đỡ họ, giải phóng họ khỏi
nỗi bất hạnh.
Ba là, chủ nghĩa hội không tưởng bằng việc phác họa ra hìnhhội tương
lai tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau này
Các nhà sáng lập chủ nghĩa hội khoa học đã kế thừa một cách chọn lọc
chứng minh chúng trên cơ sở khoa học. Ví dụ như những luận điểm: về tổ chức sản
xuất và phân phối sản phẩm; về xóa bỏ sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động
chân tay; về vai trò của công nghiệp; về giáo dục; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ;
về vai trò lịch sử của nhà nước,...
Với những giá trị lịch sử trên chủ nghĩa hội không tưởng, chủ yếu của
chủ nghĩa hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX, được các nhà sáng lập
chủ nghĩa hội khoa học thừa nhận một trong ba nguồn gốc luận của chủ
nghĩa Mác.
-Những hạn chế của chủ nghĩa hội không tưởng nguyên nhân của
+Những hạn chế:
Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản chất của các chế
độ nô lệ làm thuê. Đặc biệt không thấy được bản chất của chế độ bản chủ
nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát triển diệt vong của các chế
độ đó, đặc biệt chủ nghĩa bản nên cũng không chỉ ra được con đường, biện
pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, chủ nghĩahội không tưởng đã không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên
phong thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa bản lên chủ
nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản-lực lượng hội đã được sinh ra, lớn lên
phát triển cùng với nền đại công nghiệp bản chủ nghĩa, đó giai cấp công
nhân.
Ba là, chủ nghĩa hội không tưởng muốn cải tạo hội bằng con đường cải
lương chứ không phải bằng con đường cách mạng.
+Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân bản của những hạn chế trên của chủ nghĩa hội khôngởng
một phần là do bản thân các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, nhưng cơ bản là do
điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định. Đó là, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa chưa phát triển đến độ chín muồi, công nghiệp lớn chỉ mới xuất hiện
nước Anh, nên chưa bộc lộ mâu thuẫn kinh tế bản trong phương thức sản xuất
bản chủ nghĩa; giai cấp công nhân hiện đại chưa trưởng thành, cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp công nhân còn trình độ thấp, nên mâu thuẫn hội còn ẩn
dấu chưa bộc lộ hẳn, quan hệ giai cấp và sự đối lập giữa giai cấp công nhân và giai
cấp sản còn ít phát triển. Chính vậy, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: ”Hoàn cảnh lịch
sử ấy cũng đã quyết định quan điểm của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội.
Tương ứng với một trình độ chưa trưởng thành của nền sản xuấtbản chủ nghĩa,
với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi, là một lý luận chưa chín muồi”.
Ngày nay, người ta không thể đòi hỏi gì hơn ở những nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng khi mà những hạn chế của họ hoàn toàn do những điều kiện lịch sử khách
quan quy định.
Và trên cơ sở kết quả thực tiễn và luận giải khoa học, cụ thể, với chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho
giai cấp công nhân “vũ khí” luận, chỉ vị thế vai trò của họ trong sự phát
triển của lịch sử. Trong toàn bộ luận của mình, đặc biệt trong bộ “Tư bản”,
các ông đã phân tích, chứng minh rất rằng, hình thái kinh tế - hội tư bản chủ
nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn cố hữu, nội tại, gắn liền với nó
và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, các ông cũng chỉ
ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh giải phóng thoát khỏi sự nô dịch
bóc lột bản chủ nghĩa tiến tới xây dựng chủ nghĩa hội chủ nghĩa
cộng sản. Như vậy, Mác Anghen đã công kiến tạo biến CNXH từ không tưởng
trở thành khoa học
Câu 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Những điều kiện quy định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ với sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân VN
1. Khái niệm giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân một tập đoàn hội ổn định, hình thành phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, giai cấp đại
diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử
quá độ từ CNTB lên CNXH
các nước TBCN, giai cấp công nhân những người không liệu sản xuất
phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư
các nước XHCN, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động làm chủ những
liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn XH
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khi phân tích XHTBCN, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến đại, đó quan
niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh 1 cách khoa
học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của CNTB là tất yếu và cũng khẳng định
giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội
duy nhất có sứ mệnh lịch sử:
1) xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, xoá bỏ XH TBCN
2) giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu
3) xây dựng xã hội mới – XH XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
giai cấp bản bị áp bức dưới CNTB, giai cấp công nhân chỉ thể thoát
khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng con
đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức
người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, còn giải phóng cả các
tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
3. Những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
a) Điều kiện khách quan
• Do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định
- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan
hệ sản xuất TBCN, người duy nhất khả năng lãnh đạo hội xây dựng một
phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất TBCN
- Mặc giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không liệu sản xuất
nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thặnghọ đã tạo ra trong thời gian lao động. Họ bị giai cấp
sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp sản mâu
thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội TBCN.
• Do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định
- Giai cấp công nhân những phẩm chất của 1 giai cấp tiên tiến, giai cấp cách
mạng: tính tổ chức kỉ luật, tự giác đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng
mình và toàn XH
- Những phẩm chất đó được hình thành từ những điều kiện khách quan, được quy
định từ địa vị KT CT-XH giai cấp sản CNTB đã tạo ra 1 cách khách
quan, ngoài ý muốn
- Địa vị chính trị - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh
lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động khác chống CNTB.
b) Điều kiện chủ quan
• Sự phá triển của giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng
- Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với chất lượng. Chất lượng phải thể hiện ở
trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của 1 giai cấp CM, tức tự nhận thức
được vai trò và trọng trách của giai cấp mình. Do đó công nhân phải được giác ngộ
lí luận của CN Mác-Lênin
• ĐCS là nhân tố quan trọng
- ĐCS- đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân đảm nhận vai trò lãnh đạo
cuộc cách mạng, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, dân tộc
và xã hội.
- Sức mạnh của Đảng cònmlh mật thiết giữa Đảng và nhân dân, quần chúng lao
động, thực hiện cách mạng lo Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và toàn xã hội
4. Liên hệ với Việt Nam
a) Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, biến nước ta thành thuộc địa nửa
phong kiến, nơi tiêu thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên bóc lột nhân công rẻ
mạc của chúng.
Sau khi đặt ách thống trị lên toàn bộ nước ta, vào đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp
cấu kết với bọn phong kiến tay sai tiến hành khai thác các hầm mỏ, xây dựng các
nhà máy, nghiệp, mở các tuyến đường, mở các đồn điền trồng cây công nghiệp,
… Từ đó, nước ta một lớp người lao động mới ra đời đó những công nhân
làm thuê, phần lớn tập trung các thành phố, các khu công nghiệp. Năm 1906
nước ta có khoảng 5 vạn công nhân. Đến năm 1924, công nhân đã có 22 vạn người.
nước ta, với hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến thì sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân VN trước hết là phải lãnh đạo cuộc CM dân tộc dân chủ
nhân dân để giành độc lập dân tộc. Tiếp đến, trong giai đoạn CM XHCN, lãnh đạo
nhân dân xây dựng thành công CNXH mục tiêu của CM VN độc lập dân tộc
và CNXH.
b) Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân VN lãnh đạo CM VN:
Giai cấp công nhân VN một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên
những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế; ngoài ra, giai cấp công
nhân VN ra đời phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc VN nên còn
những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân VN:
- Giai cấp công nhân VN ra đời trước cả giai cấpsản VN, giai cấp đối kháng
trực tiếp với bản thực dân Pháp. Sinh ra lớn lên một ớc thuộc địa nửa
phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, mọi thứ CNTB thực lợi không
quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp, nên giai cấp công nhân VN phát triển
chậm.
Mặc dù ra đợi muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai cấp
công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn của tâm lý và tập quán nông dân, song
giai cấp công nhân VN đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo của
CM VN, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giải phóng dân tộc để giành độc
lập dân tộc và xây dựng CNXH.
- Giai cấp công nhân VN tiếp thu kế thừa truyền thống yêu nước, đấu tranh bất
khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Họ tinh thần CM kiên cường, triệt để, sớm
nhận thức được
- Giai cấp công nhân VN ra đời trong điều kiện các giai cấp khác đã bế tắc về con
đường cứu nước thì chỉ giai cấp công nhân mới khả năng tìm thấy lối thoát
cho CM.
- Giai cấp công nhân VN ra đời khi CM XHCN tháng Mười Nga thành công, mở ra
một chế độ XH mới trong lịch sử nhân loại, đó chế độ XHCN cùng lúc đó
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc con đường
CMVS dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đó yêu tố hết sức quan trọng
khích lệ, thúc đẩy giai cấp công nhân VN đứng lên làm CM để giải phóng dân tộc.
- Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân các tầng
lớp nhân dân lao động khác, nên quan hệ mật thiết, tự nhiên với nông dân
đông đảo nhân dân lao động. Chính vậy, giai cấp công nhân VN sớm liên minh
với nông dân, tạo thành khối liên minh công nông và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình CM. Đây
cũng là điều kiện cần thiết đảm bảo cho CM VN giành thắng lợi.
- Giai cấp công nhân VN ra đời sau một thời gian ngắn thì ĐCS VN ra đời. ĐCS đã
đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân
một bước phát triển nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trở thành lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu
tranh CM của nhân dân VN.
Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp công nhân
VN, cho đến nay giai cấp công nhân VN còn những hạn chế cần phải khắc
phục: số lượng còn ít, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ cũng như khoa
học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan
Câu 3: Phân tích thực chất đặc điểm của thời kỳ quá độ? Liên hệ với Việt
Nam?
1..Thực chất của thời kỳ quá độ
Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
tiền TBCN và TBCN sang xã hội XHCN. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự
đan xen của nhiều tàn về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của
CNTB và những yếu tố mới mang tính chất XHCN của CNXH mới phát sinh chưa
phải là CNXH đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
Về nội dung, thời kỳ quá độ lên CNXH thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc,
triệt để xã hội TBCN trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây
dựng từng bước sở vật chất kỹ thuật đời sống tinh thần của CNXH. Đó
thời kỳ lâu dài,gian khổ bắt đầu từ khi giải cấp công nhân nhân dân lao động
giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công CNXH
2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Tồn tại kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập
Tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế
bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế XHCN
- Trên lĩnh vực chính trị
Thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chấtviệc giai cấp công nhân
nắm sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp sản, tiến hành xây dựng
một xã hội không giai cấp
| 1/36

Preview text:

ÔN TẬP CUỐI KÌ
Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử ra đời của CNXHKH và vai trò của Mác – Ăngghen với
sự ra đời của CNXHKH. Tại sao nói Mác, Ăngghen đã b iến CNXH không tưởng
trở thành khoa học? 1 .Khái niệm CNXHKH
Theo nghĩa rộng, CNXHKH là chủ nghĩa Mác – Lênin, với sự luận giải từ các
giác độ (triết học, kinh tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự chuyển biến tất yếu
của XH loài người từ CNTB lên CNXH và CNCS
Theo nghĩa hẹp, CNXHKH là 1 trong 3 bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác –
Lênin: Triết học, KTCT và CNXHKH. CNXHKH là bộ phận thể hiện tập trung
nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Hoàn cảnh lịch sử ra đời CNXHKH
• Điều kiện kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, CNTB ở châu Âu đã đạt được những bước phát
triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ 1 đã
thúc đẩy phương thức sản xuất TBCN phát triển vượt bậc. Cùng với đó là sự ra đời
2 giai cấp cơ bản, đối lập về lợi ích nhưng nương tựa với nhau: giai cấp tư sản & giai cấp công nhân.
Cũng từ đây cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự áp bức của
giai cấp tư bản ngày càng quyết liệt. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có
một lý luận khoa học hướng dẫn.
Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: phong trào công nhân dệt
thành phố Liông (Pháp); phong trào công nhân dệt Xêlidi (Đức); phong trào Hiến
chương (Anh). Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính
trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng
một hệ thống lý luận soi đường và cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động
=> Điều kiện KT-XH ấy k chỉ đặt yêu cầu đối với các nhà tư tưởng của giai cấp
công nhân mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự ra đời 1 lí luận mới, tiến bộ - CNXHKH
Những tiền đề KHTN– tư tưởng lý luận
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa và tư tưởng.
Về KHTN có: thuyết tế bào, thuyết tiến hoá, thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
Về KHXH có: triết học cổ điển Đức, KTCT học Anh, CNXH không tưởng – phê phán
=> Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư
tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và CNXHKH nói riêng.
3. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của CNXHKH - C.Mác (1818 – 1883):
C. Mác là người sáng lập ra CNXHKH, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và KTCT khoa học. Ông là lãnh tụ và người thầy của giai cấp vô sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công nhân hiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực TBCN trên quan điểm chủ nghĩa duy vật
biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra 2 phát kiến vĩ đại đó
là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát kiến ấy,
CNXH đã trở thành khoa học”. CNXHKH ra đời không phải do tưởng tượng, ước
mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của CNTB, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của ĐCS” do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo đánh
dấu sự ra đời lí luận chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên, là
kim chỉ nam của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. “Tuyên ngôn của
ĐCS”, theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của CNXH thế
giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
* Tại sao nói Mác Anghen đã biến CNXH từ không tưởng trở thành khoa học?
-Khái niệm chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng về giải
phóng xã hội, giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp không có áp
bức, bóc lột, đảm bảo cho mọi người thực sự có cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc,
nhưng lại đưa ra con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo duc, thuyết phục và
tuyên truyền hòa bình...cho lý tưởng của họ.
Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện giai cấp thống trị và bóc lột mà xuất
hiện các phong trào và tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
-Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Giai đoạn thứ nhất: Những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại
Mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp là miếng đất làm nảy sinh những
mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại thể
hiện trong dòng “văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian
như: các chuyện thần thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội không tưởng một mặt,
phản ánh những sự bất bình của đông đảo quần chúng lao động đối với các hành vi
áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của
công chúng bị bóc lột, bị áp bức về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng
rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí muốn trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thuỷ”.
Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu
Âu. Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là những xung đột giai
cấp cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của
mình và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động.
Trong bối cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Thông qua các tác phẩm “văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận
đại đã lên án, phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế
chế độ xã hội đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.
Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản
hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là giai
đoạn chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu
bộc lộ bản chất cố hữu của nó: phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao động vì
quyền lợi của giai cấp mình; Đây cũng là giai đoạn giai cấp vô sản hiện đại hình
thành và bắt đầu thức tỉnh về chính trị.
Trong điều kiện lịch sử ấy, đã xuất hiện những đại biểu mới của chủ nghĩa xã hội
không tưởng. Đó là các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán vĩ đại: C.H.
Xanh Ximông, Ph.S. Phuriê, R Ôoen. Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ
nghĩa được thể hiện như là một học thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê
phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời
đề xuất con đường, biện pháp và những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai.
Những giá trị và những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng Những
giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chủ nghĩa xã hội không tưởng có một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ là những
ước mơ, khát vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền thuyết tôn
giáo đến những học thuyết xã hội - chính trị. Cống hiến lớn lao của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên án, phê phán kịch
liệt và ngày càng gay gắt, các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, chế độ quân chủ
chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của những
người lao động trước tình trạng bị áp bức, bị bóc lột ngày càng nặng nề.
Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phản ánh được những ước mơ, khát vọng
của những giai cấp lao động về một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Nó chứa
đựng giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện lòng yêu thương con người, thông
cảm, bênh vực những người lao khổ, mong muốn giúp đỡ họ, giải phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng bằng việc phác họa ra mô hình xã hội tương
lai tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau này
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và
chứng minh chúng trên cơ sở khoa học. Ví dụ như những luận điểm: về tổ chức sản
xuất và phân phối sản phẩm; về xóa bỏ sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động
chân tay; về vai trò của công nghiệp; về giáo dục; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ;
về vai trò lịch sử của nhà nước,...
Với những giá trị lịch sử trên mà chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ yếu là của
chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX, được các nhà sáng lập
chủ nghĩa xã hội khoa học thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
-Những hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng và nguyên nhân của nó +Những hạn chế:
Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản chất của các chế
độ nô lệ làm thuê. Đặc biệt là nó không thấy được bản chất của chế độ tư bản chủ
nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát triển và diệt vong của các chế
độ đó, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nên cũng không chỉ ra được con đường, biện
pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên
phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản-lực lượng xã hội đã được sinh ra, lớn lên và
phát triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đó là giai cấp công nhân.
Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng muốn cải tạo xã hội bằng con đường cải
lương chứ không phải bằng con đường cách mạng.
+Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên của chủ nghĩa xã hội không tưởng
một phần là do bản thân các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, nhưng cơ bản là do
điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định. Đó là, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa chưa phát triển đến độ chín muồi, công nghiệp lớn chỉ mới xuất hiện ở
nước Anh, nên chưa bộc lộ mâu thuẫn kinh tế cơ bản trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa; giai cấp công nhân hiện đại chưa trưởng thành, cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp công nhân còn ở trình độ thấp, nên mâu thuẫn xã hội còn ẩn
dấu chưa bộc lộ hẳn, quan hệ giai cấp và sự đối lập giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản còn ít phát triển. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: ”Hoàn cảnh lịch
sử ấy cũng đã quyết định quan điểm của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội.
Tương ứng với một trình độ chưa trưởng thành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi, là một lý luận chưa chín muồi”.
Ngày nay, người ta không thể đòi hỏi gì hơn ở những nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng khi mà những hạn chế của họ hoàn toàn do những điều kiện lịch sử khách quan quy định.
Và trên cơ sở kết quả thực tiễn và luận giải khoa học, cụ thể, với chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho
giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế và vai trò của họ trong sự phát
triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý luận của mình, đặc biệt là trong bộ “Tư bản”,
các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn cố hữu, nội tại, gắn liền với nó
và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, các ông cũng chỉ
ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh giải phóng thoát khỏi sự nô dịch
và bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Như vậy, Mác Anghen đã có công kiến tạo biến CNXH từ không tưởng trở thành khoa học
Câu 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Những điều kiện quy định sứ
mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN
1. Khái niệm giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, là giai cấp đại
diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử
quá độ từ CNTB lên CNXH

Ở các nước TBCN, giai cấp công nhân là những người không có tư liệu sản xuất
phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư
Ở các nước XHCN, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động làm chủ những tư
liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn XH
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khi phân tích XHTBCN, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại, đó là quan
niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh 1 cách khoa
học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của CNTB là tất yếu và cũng khẳng định
giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội
duy nhất có sứ mệnh lịch sử:
1) xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, xoá bỏ XH TBCN
2) giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu
3) xây dựng xã hội mới – XH XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới CNTB, giai cấp công nhân chỉ có thể thoát
khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng con
đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức
người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các
tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
3. Những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
a) Điều kiện khách quan
• Do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định
- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan
hệ sản xuất TBCN, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một
phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất TBCN
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất
nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Họ bị giai cấp tư
sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu
thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội TBCN.
• Do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định
- Giai cấp công nhân có những phẩm chất của 1 giai cấp tiên tiến, giai cấp cách
mạng: tính tổ chức và kỉ luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng mình và toàn XH
- Những phẩm chất đó được hình thành từ những điều kiện khách quan, được quy
định từ địa vị KT và CT-XH mà giai cấp tư sản và CNTB đã tạo ra 1 cách khách quan, ngoài ý muốn
- Địa vị chính trị - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh
lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động khác chống CNTB. b) Điều kiện chủ quan
• Sự phá triển của giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng
- Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với chất lượng. Chất lượng phải thể hiện ở
trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của 1 giai cấp CM, tức là tự nhận thức
được vai trò và trọng trách của giai cấp mình. Do đó công nhân phải được giác ngộ
lí luận của CN Mác-Lênin
• ĐCS là nhân tố quan trọng
- ĐCS- đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và đảm nhận vai trò lãnh đạo
cuộc cách mạng, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, dân tộc và xã hội.
- Sức mạnh của Đảng còn ở mlh mật thiết giữa Đảng và nhân dân, quần chúng lao
động, thực hiện cách mạng lo Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và toàn xã hội
4. Liên hệ với Việt Nam
a) Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, biến nước ta thành thuộc địa nửa
phong kiến, nơi tiêu thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạc của chúng.
Sau khi đặt ách thống trị lên toàn bộ nước ta, vào đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp
cấu kết với bọn phong kiến tay sai tiến hành khai thác các hầm mỏ, xây dựng các
nhà máy, xí nghiệp, mở các tuyến đường, mở các đồn điền trồng cây công nghiệp,
… Từ đó, nước ta có một lớp người lao động mới ra đời – đó là những công nhân
làm thuê, phần lớn tập trung ở các thành phố, các khu công nghiệp. Năm 1906
nước ta có khoảng 5 vạn công nhân. Đến năm 1924, công nhân đã có 22 vạn người.
Ở nước ta, với hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến thì sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân VN trước hết là phải lãnh đạo cuộc CM dân tộc dân chủ
nhân dân để giành độc lập dân tộc. Tiếp đến, trong giai đoạn CM XHCN, lãnh đạo
nhân dân xây dựng thành công CNXH vì mục tiêu của CM VN là độc lập dân tộc và CNXH.
b) Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân VN lãnh đạo CM VN:
Giai cấp công nhân VN là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên có
những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế; ngoài ra, giai cấp công
nhân VN ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc VN nên còn có
những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN:
- Giai cấp công nhân VN ra đời trước cả giai cấp tư sản VN, là giai cấp đối kháng
trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, mọi thứ CNTB thực lợi không
quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp, nên giai cấp công nhân VN phát triển chậm.
Mặc dù ra đợi muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai cấp
công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song
giai cấp công nhân VN đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo của
CM VN, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc để giành độc
lập dân tộc và xây dựng CNXH.
- Giai cấp công nhân VN tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nước, đấu tranh bất
khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Họ có tinh thần CM kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được
- Giai cấp công nhân VN ra đời trong điều kiện các giai cấp khác đã bế tắc về con
đường cứu nước thì chỉ có giai cấp công nhân mới có khả năng tìm thấy lối thoát cho CM.
- Giai cấp công nhân VN ra đời khi CM XHCN tháng Mười Nga thành công, mở ra
một chế độ XH mới trong lịch sử nhân loại, đó là chế độ XHCN và cùng lúc đó
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc là con đường
CMVS dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đó là yêu tố hết sức quan trọng
khích lệ, thúc đẩy giai cấp công nhân VN đứng lên làm CM để giải phóng dân tộc.
- Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự nhiên với nông dân và
đông đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp công nhân VN sớm liên minh
với nông dân, tạo thành khối liên minh công – nông và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình CM. Đây
cũng là điều kiện cần thiết đảm bảo cho CM VN giành thắng lợi.
- Giai cấp công nhân VN ra đời sau một thời gian ngắn thì ĐCS VN ra đời. ĐCS đã
đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân có
một bước phát triển nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trở thành lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh CM của nhân dân VN.
Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp công nhân
VN, cho đến nay giai cấp công nhân VN còn có những hạn chế cần phải khắc
phục: số lượng còn ít, trình độ văn hóa, chuyên môn và nghiệp vụ cũng như khoa
học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan
Câu 3: Phân tích thực chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ? Liên hệ với Việt Nam?
1..Thực chất của thời kỳ quá độ
Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
tiền TBCN và TBCN sang xã hội XHCN. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự
đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của
CNTB và những yếu tố mới mang tính chất XHCN của CNXH mới phát sinh chưa
phải là CNXH đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
Về nội dung, thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc,
triệt để xã hội TBCN trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây
dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần của CNXH. Đó là
thời kỳ lâu dài,gian khổ bắt đầu từ khi giải cấp công nhân và nhân dân lao động
giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công CNXH
2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Tồn tại kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập
Tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư
bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế XHCN
- Trên lĩnh vực chính trị
Thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất là việc giai cấp công nhân
nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng
một xã hội không giai cấp