/33
lOMoARcPSD| 61622044
Chương 1: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ
CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ NIN
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin các quan hệ xã hội của sản xuất
trao đổi các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ biện chứng với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất
nhất định.
Phân tích:
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương thức sản xuất,
có tác động biện chứng với nhau một cách khách quan:
+ Lực lượng sản xuất:
. Khái niệm: tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh cải biến
giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người.
. Kết cấu: Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận bản liệu sản xuất (tư liệu
lao động, đối tượng lao động) và người lao động.
- Quan hệ sản xuất:
+ Khái niệm: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất +
Quan hệ sản xuất bao gồm:
. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
. Quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất
. Quan hệ phân phố sản phẩm lao động
- Kinh tế chính trị Mác – Lênin nghiên cứu quan hệ sản xuất:
+ Quan hệ xã hội của sản xuất trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan hệ sở
hữu; quan hệ quản lý; quan hệ phân phối, phân bổ nguồn lực; quan hệ xã hội trong lưu
thông; quan hệ xã hội trong tiêu dùng; quan hệ hội trong quản trị phát triển quốc gia;
quản trị phát triển địa phương; quan hệ giữa sản xuất và lưu thông; giữa sản xuất và thị
trường...
+ Khi nhấn mạnh việc đặt các quan hsản xuất trao đổi trong mối liên hệ với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng, kinh tế chính
trị Mác - Lênin không xem nhẹ các quan hệ kinh tế khách quan giữa các quá trình kinh
tế trong một khâu và giữa các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư cách là một
chỉnh thể biện chứng của sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng.
Câu hỏi minh họa
- Mức độ 1: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lê nin là gì?
- Mức độ 3: Phân tích đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác – Lê nin.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN
Để nhận thức được các hiện thực kinh tế khách quan và khái quát thành các khái niệm, phạm
trù khoa học kinh tế chính trị, cùng với việc vận dụng phép biện chứng duy vật, kinh tế
chính trị Mác - Lênin còn yêu cầu sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu thích hợp như:
trừu tượng hóa khoa học, lôgíc kết hợp với lịch sử, thống kê, so sánh, phân tích tổng
hợp, quy nạp diễn dịch, hệ thống hóa, mô hình hóa, khảo sát, tổng kết thực tiễn... Đây
là những phương pháp phổ biến được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học:
+ Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp được tiến hành bằng cách nhận ra và gạt bỏ
khỏi quá trình nghiên cứu những yếu tố ngẫu nhiên, những hiện tượng tạm thời, gián
lOMoARcPSD| 61622044
tiếp, trên cơ sở đó tách ra được những dấu hiệu điển hình, bền vững, ổn định, trực tiếp
của đối tượng nghiên cứu. Từ đó nắm được bản chất, khái quát thành các phạm trù, khái
niệm phát hiện được tính quy luật quy luật chi phối sự vận động của đối tượng
nghiên cứu.
+ Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng như một phương pháp chủ yếu
của kinh tế chính trị Mác - Lênin, bởi các nghiên cứu của khoa học này không thể
được tiến hành trong các phòng thí nghiệm, không thể sử dụng các thiết bị kỹ thuật như
trong nghiên cứu khoa học tự nhiên. Mặt khác, các quan hệ xã hội của sản xuất và trao
đổi, các qtrình kinh tế luôn phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau,
nên việc sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học giúp cho việc nghiên cứu trở
nên đơn giản hơn, nhanh chóng tiếp cận được bản chất đối tượng nghiên cứu. (Giải thích
vì sao phương pháp trừu tượng hóa khoa học lại là phương pháp điển hình của KTCT)
+ Để sử dụng tốt phương pháp trừu tượng hóa khoa học, cần có kỹ năng khoa học xác
định đúng giới hạn của sự trừu tượng hóa. Việc loại bỏ những hiện tượng tạm thời, ngẫu
nhiên phải đảm bảo yêu cầu không làm sai lệch bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Không được tùy tiện loại bỏ yếu tố phản ánh trực tiếp bản chất của đối tượng nghiên
cứu; càng không được giữ lại những hiện tượng, yếu tố tạm thời cần phải được gạt ra
khỏi quá trình nghiên cứu. Giới hạn của sự trừu tượng hóa phụ thuộc vào đối tượng
nghiên cứu. Ví dụ, để nghiên cứu tìm ra bản chất của quan hệ lợi ích kinh tế giữa người
lao động với người sdụng sức lao động trong một điều kiện tổ chức sản xuất nhất định,
có thể gạt bỏ đi yếu tố mang tính tình cảm cá nhân giữa hai chủ thể này, song không th
gạt bỏ lợi ích kinh tế mỗi chủ thể sẽ nhận được trong mối quan hệ đó. Việc gạt bỏ
yếu tố lợi ích ra khỏi quá trình nghiên cứu sẽ làm thay đổi bản chất, quan hệ đó không
còn là quan hệ lợi ích kinh tế.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân chia các hiện tựng nghiên cứu thành những
bộ phận cấu thành. Từ đó, bằng cách tổng hợp, tái hiện thành một bức tranh thống nhất,
toàn diện.
- Phương pháp logic – lịch sử:
+ Logic là nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong quá trình mà sự vật, hiện tượng đó xuất
hiện, trình tự ra đời của nó.
+ Lịch sử: xem xét các quan điểm, tư tưởng trong bối cảnh, hoàn cảnh mà nó xuất hiện
để thấy được ý nghĩa của quan điểm dó
dụ: Galile đưa ra một quan điểm đại “trái đất tự quay quanh trục của nó” =>
Nhân loại cho nhảm nhí mọi người chưa biết đến thiên văn học => Galile bị đưa
lên giàn hỏa thiêu. Nhưng đến hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì đã
chứng minh được quan điểm đó đúng và phổ biến.
Ngày nay, với sự phát triển hết sức phức tạp của các quan hkinh tế, ngoài các phương
pháp nghiên cứu đặc thù, kinh tế chính trị Mác - Lênin còn yêu cầu sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu liên ngành, các phương pháp nghiên cứu hiện đại, nghiên cứu dựa trên bằng
chứng, tổng kết thực tiễn để làm cho các kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
gắn bó mật thiết với thực tiễn.
Câu hỏi minh họa
- Mức độ 1: Nêu các phương pháp nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin
- Mức độ 2: Giải thích vì sao phương pháp trừu tượng hóa khoa học lại là phương pháp
điển hình của KTCT
lOMoARcPSD| 61622044
- Mức độ 3: Phân tích các phương pháp nghiên cứu của KTCT
Chương 2: LÝ LUẬN CỦA MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA.
MỘT SỐ QUY LUẬT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
1. Sản xuất hàng hóa
Khái niệm: Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tếđó, những người sản
xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
Điều kiện ra đời:
- Một là, phân công lao động xã hội.
+ Khái niệm: Phân công lao động hội sự phân chia lao động trong hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người
sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
VD: trong xí nghiệp dệt may, mỗi người đảm nhận một khâu sản xuất, đây là phân công
thuật. Còn phân công lao động xh sự phân chia xh thành các ngành các nghề
khác nhau: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
+ Phân công lao động là sở của sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa. Bởi mỗi
người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của
họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu
những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
+ Có 3 loại phân công lao động: Phân công lao động chung (nông nghiệp, công nghiệp,
thương nghiệp, giao thông vận tải,...), phân công lao động đặc thù (công nghiệp nặng, công
nghiệp nhẹ...), phân công lao động cá biệt (thợ hàn, thợ tiện, thợ sơn, thợ lắp ráp...) - Hai
là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
+ Khái niệm: Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người
sản xuất độc lập với nhau sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức phải trao
đổi dưới hình thức hàng hóa. C. Mác viết: “Chỉ sản phẩm của những lao động
nhân độc lập không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng
hóa”
1
. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản
xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
+ Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thề sản xuất hiện khách quan
dựa trên sự tách biệt về sở hữu. hội loài người ng phát triển, sự tách biệt về sở hữu
càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
Khi còn sự tồn tại của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí chủ quan
xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa sẽ làm cho
hội đi tới chỗ khan hiếm khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, nền sản
xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
Liên hệ nền kinh tế Việt Nam
- Ưu điểm của sản xuất hàng hóa Việt Nam:
Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật
của từng người, từng địa phương, từng vùng Việt Nam. dụ như vùng đồng đồng
bằng sông Cửu Long, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa nước nên đây là nơi
cung cấp lương thực chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản
xuất có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ
lOMoARcPSD| 61622044
kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật
mới được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao
động được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu
quả kinh tế được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần
kinh tế. Quy mô sản xuất được mở rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh
tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, nâng cao
năng suất lao động, chất lượng hiệu quả kinh tế. Sản xuất hàng hóa phát triển làm
cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa
dạng. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất
hàng hoá vận dụng có hiệu quả hơn tđó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà
các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.
Bình quân GDP của Việt Nam khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa sau thời kỳ
đổi mới tăng qua các năm. Từ năm 1986 1990, GDP của KV1 là 2,7%, KV2 là 4,7%
KV3 5,7%. Từ năm 1991 1995, GDP của KV1 4,1%, KV2 12%, KV3
8,6%. Từ năm 1996 – 2000, GDP của KV1 là 4,4%, KV2 là 10,6%, KV3 là 5,7%.
Sản xuất hàng hóa làm cho Việt Nam từ một đất nước kém phát triển trở thành
một đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống vật
chất càng ngày càng đầy đủ cũng như đời sống tinh thần được cải thiện ngày càng
phong phú.
- Khuyết điểm sản xuất hàng hóa:
Làm Phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh
tế, thất nghiệp, lạm phát. hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn hội gắn liền với hiện
trạng kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội
chạy theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sử dụng bừa bãi, tàn ptài nguyên hủy
diệt môi trường ,sinh thái( điển hình là các công ty xả thải bừa bãi ra ngoài môi trường
làm ô nhiễm môi trường). Năm 2004, 5 doanh nghiệp nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế
liệu không đúng với thực tế khai báo về cảng sài gòn đã vi phạm về quy định bảo vệ môi
trường. Đặc biệt phải kể đến đó vụ Formosa Tĩnh năm 2016 đã dội lên một n
sóng phẫn nộ của người dân trên cả nước. Nước thải công nghiệp của công ty TNHH
gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường
biển đã làm cho hải sản chết hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng
nề về tài sản môi trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh,
du lịch và đời sống cũng như sức khỏe của người dân. Ở Việt Nam, các “làng ung thư”
xuất hiện ngày càng nhiều.
Để tối thiểu hóa đầu tư, tối đa hóa lợi nhuân, các doanh nghiệp bất chấp sức
khỏe người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vụ việc làm
sữa lậu, trà sữa làm từ nguyên liệu kém chất lượng, ngộ độc trà sữa,… ngày càng nhiều.
- Giải pháp nâng cao hoạt động sản xuất hàng hóa:
Để khắc phục những khuyết tật, hạn chế của nền sản xuất hàng hóa thì vai trò
của nhà nước rất quan trọng. Chính từ nh ưu việt rất riêng, rất lợi (tuy bên cạnh
đó vẫn còn những khuyết tật) của sản xất hàng hoá mà tại Đại hội VII Đảng ta đã
xác định phương hướng : Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
lOMoARcPSD| 61622044
Nhà nước cần phải tăng cường điều chỉnh và quản lý vĩ mô một cách kiên quyết
khôn khéo để mọi hoạt dộng vào khuôn khổ đều tuân theo pháp luật. Nhà nước
cần thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế kết hợp với các luật về bảo vệ môi trường
sinh thái đxác định hành vi kinh doanh là hợp pháp hay không và có biện pháp xử lý
khi có cá nhân hoặc tổ chức vi phạm. Thêm vào đó, Nhà nước phải sử dụng ý thức
các quy luật kinh tế khách quan vào quản lý nền kinh tế sản xuất hàng hóa để phát huy
những ưu thế vốn có và ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái khuyết tật của nó. Chính vì
vậy, sử dụng "Bàn tay hữu hình" của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra
hành lang và bước đi cho nền kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN.
Câu hỏi minh họa:
- Mức độ 1: Thế nào là sản xuất hàng hóa? Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa là gì?
- Mức độ 2: Tại sao hàng hóa ra đời phải có đồng thời 2 điều kiện?
Chúng ta thấy rằng, trong thời kỳ chiếm hữu lệ. Rõ rang, người chủ sở hữu
nhiều lệ, mỗi người làm một công việc khác nhau, tạo ra sản phẩm khác nhau. Nhưng,
họ lại không sự tách biệt về kinh tế, sản phẩm của họ làm ra lại thuộc sở hữu của
người chủ nô. Người nô lệ không thể tự do đem sản phẩm đó đi trao đổi mua bán được.
nên sản phẩm lao động của họ không được coi hàng hóa. Chỉ khi, người chủ mang
sản phẩm lao động đó ra chợ buôn bán thì đó mới được coi là hàng hóa. Người chủ nô
khác với người nô lệ ở chỗ họ được quyền sở hữu và có sự tách biệt kinh tế.
Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất làm cho những người sản
xuất trở thành chủ thể sản xuất độc lập nhất định với nhau. Do đó, người này muốn tiêu
dùng sản phẩm của người kia thì phải trao đổi mua bán.
Trong lịch sử , sự tách biệt này do chế độ hữu về liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ hữu về liệu sản xuất thì liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi
nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.
- Mức độ 3: Phân tích các điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
2. Hàng hóa:
Khái niệm:
- Hàng hóa sản phẩm của lao động, thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán.
- Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi được đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán
trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Hai thuộc tính: Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
+ Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa công dụng của sản phẩm, thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người.
+ dụ: GTSD của cơm để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu là để sản xuất... Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên
khác nhau, do đó nhiều GTSD hay công dụng khác nhau: gạo thể dùng nấu
cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến
cồn y tế..
+ Đặc trưng của giá trị sử dụng hàng hóa:
. Bất cứ hàng hóa nào cũng một hay nhiều công dụng. vậy, một vật phẩm đã
hàng hóa thì nhất định phải giá trị sử dụng. dụ: Quần áo công dụng giữ ấm,
bán, tặng, trang trí...
lOMoARcPSD| 61622044
. Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định. Vì vậy
nó là phạm trù vĩnh viễn.
. Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền sản xuất ng
phát triển, khoa học - công nghệ càng hiện đại, càng giúp con người phát hiện thêm các
giá trị sử dụng của sản phẩm.
. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua.
Vì vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình sản
xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
- Giá trị của hàng hóa
+ Khái niệm: giá trị lao động hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa.
+ Ví dụ: 10 kg thóc đổi lấy 1 m vải. Vải và thóc là hai hh có GTSD khác nhau về chất,
nhưng chúng có thể trao đổi với nhau theo tỉ lệ nào đó, bởi chúng đều là sản phẩm của
lao động. Vì vậy, người ta trao đổi hh cho nhau thực chất là trao đổi lao động của mình
ẩn dấu trong những hh đấy.
+ Biểu hiện: Trước hết biểu hiện ra một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ trao đổi
lẫn nhau giữa những giá trị sử dụng thuộc loại khác nhau.
+ Đặc trưng:
. Gtrị của hàng hóa phạm trù lịch sử chỉ tồn tại khi nào sản xuất trao
đổi hàng hóa.
. Giá trị hàng a biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao đổi
hàng hóa
. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ
sở của trao đổi. Khi trao đổi người ta ngầm so sánh lao động đã hao phí ẩn giấu trong
hàng hóa với nhau.
- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa: ( ngầm giải thích vì sao hàng hoá hai
thuộc tính) + Sự thống nhất:
. 2 thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một hàng
hóa . Do 1 người lao động sản xuất ra hàng hóa
quyết định + Sự mâu thuẫn:
. Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất nhưng ngược lại, với
tư cách là giá trị thì hàng hóa đồng nhất về chất
. Quá trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị sự tách rời về không gian, khoảng cách
càng ngắn thì càng thuận lợi
. Trong nền sản xuất hàng hóa, một hàng hóa sản xuất ra thể bán được hoặc không
bán được. Nếu hàng hóa bán được thì mâu thuẫn giữa 2 thuộc tính được giải quyết.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
- Lao động cụ thể
+ Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
+ VD: lao động cụ thể của người thợ may, mục đích là sản xuất quần, áo, giày dép, đối
tượng lao động là vải, da,..., phương pháp của người đó là các thao tác về cắt, khâu,
may, dệt,...phương tiện được sử dụng kéo, máy khâu, kim, chỉ; kết quả lao động
tạo ra nhưng bộ quàn áo, đôi giày, đôi dép.
+ Đặc trưng:
lOMoARcPSD| 61622044
. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương pháp lao động
riêng và kết quả riêng.
. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
. Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm giá trị sử dụng khác
nhau. Phân công lao động hội càng phát triển, hội càng nhiều ngành, nghề khác
nhau, các hình thức lao động cthể càng phong phú, đa dạng, càng nhiều giá trị sử
dụng khác nhau.
. Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn
. Lao động cụ thể là nguồn gốc tạo ra của cải vật chất
- Lao động trừu tượng
+ Khái niệm: Lao động trừu tượng lao động hội của người sản xuất hàng hóa không
kể đến hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản
xuất hàng hoá về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Ví dụ: Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao
động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả sự khác nhau ấy sang một
bên thì chúng chỉ còn một cái chung đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần
kinh của con người.
+ Đặc trưng:
. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.
. Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sửu
. Lao động trừu tượng biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng
hóa
. Lao động trừu tượng là lao động nhất và giống nhau về chất.
- Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa:
+ Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa bởi việc
sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất. Lao động trừu tượng
phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động của mỗi người
là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội.
+ Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do
những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu cầu hội,
hoặc khi mức hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận
được. Khi đó, sẽ có một số hàng hóa không bán được. Nghĩa một số hao phí lao
động cá biệt không được xã hội thừa nhận. Mâu thuẫn này tạo ra nguy cơ khủng hoảng
tiềm ẩn.
- Ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta hiện nay
+ Đẩy mạnh phân công lao động để phát triển kinh tế hàng hoá, đáp ứng nhu cầu đa
dạng và phong phú của hội.
+ Phải coi trọng cả hai thuộc tính của hàng hoá để không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng
cao chất lượng, hạ giá thành.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị: Lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa được đo
lường bởi thời gian lao động hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, cho nên, về nguyên
tắc, những nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí hội cần thiết để sản xuất
ra một đơn vị hàng hóa tất sẽ ảnh hưởng tới lượng giá trị của đơn vị hàng hóa. những
nhân tố chủ yếu sau:
Một là, năng suất lao động.
lOMoARcPSD| 61622044
- Khái niệm: Năng suất lao động năng lực sản xuất của người lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
- Năng suất lao động tăng lên sẽ làm giảm lượng thời gian hao phí lao động cần thiết
trong một đơn vị hàng hóa. Do vậy, năng suất lao động ng lên slàm cho lượng giá
trị trong một đơn vị hàng hóa giảm xuống. “Như vậy là đại lượng giá trị của một hàng
hóa thay đổi theo tỷ lệ thuận với lượng lao động thể hiện trong hàng hóa đó tỷ lệ
nghịch với sức
sản xuất của lao động đó”
2
. Vì vậy, trong thực hành sản xuất, kinh doanh cần chú ý, để
thể giảm hao phí lao động biệt, cần phải thực hiện các biện pháp p phần tăng
năng suất lao động.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm: i) trình độ khéo léo trung bình của
người lao động; ii) mức độ phát triển của khoa học trình độ áp dụng khoa học vào
quy trình công nghệ; iii) sự kết hợp hội của quá trình sản xuất; iv) quy hiệu
suất của tư liệu sản xuất; v) các điều kiện tự nhiên.
- Khi xem xét về mối quan hệ giữa tăng năng suất với lượng giá trị của một đơn vị hàng
hóa, cằn chú ý thêm về mối quan hệ giữa tăng cường độ lao động với lượng giá trị của
một đơn vị hàng hóa.
+ Khái niệm: Cường độ lao động mức đkhẩn trương, tích cực của hoạt động lao
động trong sản xuất.
+ Tăng cường độ lao động tăng mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động.
Trong chừng mực xét riêng vai trò của cường độ lao động, việc tăng cường độ lao động
làm cho tổng số sản phẩm tăng lên. Tổng lượng giá trị của tất cả hàng hóa gộp lại tăng
lên. Song, lượng thời gian lao động hội cần thiết hao phí đsản xuất ra một đơn vị
hàng hóa không thay đổi; vì tăng cường độ lao động chỉ nhấn mạnh tăng mức độ khẩn
trương, tích cực của hoạt động lao động thay vì lười biếng sản xuất ra số lượng hàng
hóa ít hơn.
+ Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý, trình độ
tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tchức, kỷ luật lao động... Nếu giải
quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, thuần thục n,
tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều hàng hóa hơn.
Hai là, tính chất phức tạp của lao động.
- Căn cứo mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao động giản đơn lao động
phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ thống,
chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được. + Lao động
phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một quá trình đào tạo về k
năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
- Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá
trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp lao động giản đơn được nhân bội
lên. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để cả nhà quản trị và người lao động xác định mức
thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động lao động trong quá trình tham gia vào
các hoạt động kinh tế - xã hội.
Câu hỏi minh họa:
- Mức độ 2: Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính?
lOMoARcPSD| 61622044
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do
hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, do lao động của người sản xuất
hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C.Mác là người đầu
tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
+ Lao động cụ thể
+ Lao động trừu tượng
+ Ý nghĩa thực tiễn
- Mức dộ 2: So sánh NSLĐ với CĐLĐ? Nên tăng NSLD hay CDLD? Vì sao?
+ Giống nhau: Số lượng sản phẩm được sản xuất ra đều tăng
+ Khác nhau:
Tiêu chí so sánh
Tăng năng suất lao động
Tăng cường độ lao động
Giá trị 1 đơn vi sản phẩm
Giảm
Không đổi
Tổng giá trị sản phẩm
Không đổi
Tăng
Nhân tố ảnh hưởng
Máy móc, khoa học kĩ thuật
=> Có thể tăng vô hạn
Thể chất, tinh thần của
người lao động => Không
thể tăng vô hạn
=> Nên tăng năng suất lao động vì: Tăng năng suất lao động do thay đổi cách thức lao
động, làm giảm nhẹ hao phí lao động, tăng cường độ lao động thì cách thức lao động
không đổi, hao phí sức lao động không thay đổi.Tăng năng suất lao động là vô hạn còn
tăng cường độ lao động giới hạn, bị giới hạn bởi sức khoẻ của con người. Tăng
năng suất lao động tác dụng tích cực không ảnh hưởng đên sức khoẻ của con
người còn tằng cường độ lao động nếu tăng qmức sẽ gây tai nạn lao động và ảnh
hưởng đến sức khoẻ của con người.
Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản
kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng
thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Về mặt kinh
tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá
giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
II. MỘT SỐ QUY LUẬT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
Có rất nhiều quy luật kinh tế điều tiết nền kinh tế thị trường. Là nền kinh tế hàng hóa phát
triển trình độ cao, các quy luật của nền kinh tế hàng hóa cũng phát huy tác dụng trong
nền kinh tế thị trường. Một số quy luật điển hình trong nền kinh tế thị trường là:
Quy luật giá trị (trọng tâm): vị trí, vai trò, tác động
- Vị trí: Quy luật giá trị quy luật kinh tế bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu sản
xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
- Nội dung: Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến
hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá trị,
người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn được hội thừa nhận
sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động
hội cần thiết. vậy, họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động biệt
xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động hội cần thiết. Trong lĩnh vực trao đổi,
phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy gtrị hội làm cơ sở, không dựa trên
giá trị cá biệt.
- Tác động của quy luật giá trị: Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua
sự vận động của giá cả xung quanh giá trị, dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. G
cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy
lOMoARcPSD| 61622044
luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của
quy luật giá trị. Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh
của giá cả thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ
bản sau:
+ Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Điều tiết sản xuất là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế. Tác dụng này thông qua sự biến động của giả cả hàng hóa trên thị
trường dưới tác động của quy luật cung cầu.
VD: Nếu ngành nào đó cung nhỏ hơn cầu => Giá cả cao hơn giá trị => Hàng
hóa bán chạy, lãi cao => Người sản xuất đổ vào nghành đó => TLSX sức lao động
được chuyển dịch vào ngành đó tăng
Ngược lại nếu ngành đó cung vượt quá cầu => Giá cả giảm => Hàng hóa bán
ko chạy, có thể lỗ vốn => Người sản xuất phải thu hẹp quy sản xuất hoặc chuyển
sang đầu tư vào ngành khác.
Khi giá phê nước ta tăng cao, người dân các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam
Bộ trồng rất nhiều pđể cung cấp cho thị trường thu lợi nhuận. Nhưng sau đó,
giá cà phê giảm; giá hạt tiêu và điều tăng, rất nhiều chủ vườn đã chặt bỏ bớt cây cà p
để trồng điều, hồ tiêu đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
→ Tạo nên sự cân bằng hh trên thị trường.
+ Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm:
dụ một công ty sản xuất bánh, thay vì làm phần bột bên trong của bánh bằng phương
pháp thủ công thì công ty áp dụng khoa học thuật vào sản xuất bánh, nhờ thế số
lượng tăng nhanh, đáp ứng đủ nhu cầu của người mua
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể độc lập,
tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất
khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau. Người có hplđcb < hplđxh sẽ có lợi,
thu được lãi cao và ngược lại.
Để giành lợi thế tránh vỡ nợ, họ phải hạ thấp hplđcb của mình, sao cho bằng
hplđxhct
→ Tìm cách cải tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất, tăng năng suất.
→ LLSX phát triển
+ Thứ ba, phân hoá những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một
cách tự nhiên:
Quá trình cạnh tranh tất yếu dẫn đến kết quả là: những người điều kiện sản
xuất thuận lợi, kiến thức cao, trang bị thuật tốt, hplđcb < hplđxhct sẽ phát tài, giàu
lên nhanh chóng. Ngược lại, những người ko đksx thuận lợi, làm ăn kém cỏi hoặc
gặp rủi ro nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
lOMoARcPSD| 61622044
→Làm xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN, cơ sở ra đời của CNTB.
dụ về sự phát triển lớn mạnh của tổng công ty dịch vụ viễnthông viettel và tập
đoàn VNPT là một ví dụ rõ ràng về tác động này.
Trước hết, đây hai thương hiệu lớn của Việt Nam trong lĩnh vực cungcấp các
dịch vụ viễn thông. So về tuổi, Viettel đến nay được thành lập đứng 22 năm, chỉ bằng
một phần ba quãng đường mà VNPT đã trải qua. Còn nếu xét về những doanh nghiệp
sức mạnh đem tới doanh thu và lợi nhuận quan trọng nhất của hai phía, thì mạng di động
Viettel cũng vừa 7 tuổi, chưa bằng một nửa quãng đường MobiFone (17 năm)
VinaPhone (14 năm) đi qua. Thế mà, về sự phát triển đặc biệt doanh thu, đã
chiều hướng tỷ lệ nghịch, Viettel đã đạt mức tăng trưởng doanh số và phát triển ngành
nghề đa dạng và nhanh chóng.
một số lĩnh vực, cụ thể thông tin di động, Viettel còn đi xa hơn VNPT khi
đầu ra nước ngoài như Lào, Campuchia, đã bắt đầu nguồn thu. Trong khi đó
VNPT chỉ chú trọng vào thị trường trong nước thì Viettel đã cómột bước đi đầy táo bạo
khi tìm kiếm cho mình một thị trường mới. Các chuyên gia giới truyền thông dự báo,
với tốcđphát triển và những tiềm năng tăng trưởng từ những ngành nghề mới của
Viettel, thế tương quan kèn cựa nhau, thậm chí vượt mặt VNPT, sẽ không còn xa.
Với chiến lược hướng vào đối tượng bình dân, Viettel đã không ngừngtriển khai
các dịch với gthành hấp dẫn, luôn những trương trình khuyến mại, với các gói
cước giá rẻ để tạo ra lợi thế trong cạnh tranh, trong khi đó, hai mạng Mobi Fone Vina
Fone của VNPT có giá cước cao hơn khá nhiều.
Qua ví dụ trên, chúng ta có thể thấy rõ trong sản xuất, nếu biết đầu tư và điều tiết
sản xuất hợp lí, sẽ khẳng định được thương hiệu của minh. Ngược lại,nếu không biết
tận dụng nguồn lực của mình của mình một cách hợp lí, đúngcách có thể dẫn đến việc
mất dàn thương hiệu thua lỗ. Đó chính quy luật phân hóa giàu nghèo hết sức tự
nhiên trong kinh doanh, dưới tác động của quy luật giá trị.
- Ý nghĩa thực tiễn: quy luật giá trvừa tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích
sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ: vừa có tác dụng lựa chọn,
đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả những
tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị
trường nên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích
cực.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến
bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá
người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa cả những tác động
tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường.
Quy luật cung cầu:
- Quy luật cung - cầu quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) cầu
(bên mua) hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải sự thống
nhất.
- Trên thị trường, cung - cầu mối quan hệ hữu với nhau, thường xuyên tác động
lẫn nhau ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn
giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá ccao hơn giá trị; nếu cung bằng cầu
lOMoARcPSD| 61622044
thì giá cả bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức
độ khác nhau.
- Quy luật cung - cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá;
làm thay đổi cấu và quy mô thị trường, ảnh hưởng tới giá cả của hàng hóa. Căn cứ
vào quan hệ cung - cầu, thể dự đoán xu thế biến động của giá cả. đâu thị trường
thì ở đó quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Nếu nhận thức
được chúng thì thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh theo
hướng có lợi cho quá trình sản xuất.
- Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp
kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cấu tiêu
dùng... để tác động vào các hoạt động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu
một cách lành mạnh và hợp lý.
Quy luật lưu thông tiền tệ:
- Quy luật lưu thông tiền tệ yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải căn cứ trên yêu cầu của
lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Theo yêu cầu của quy luật, việc đưa số lượng tiền cần
thiết cho lưu thông trong mỗi thời kỳ nhất định phải thống nhất với lưu thông hàng
hóa. Việc không ăn khớp giữa lưu thông tiền tệ với lưu thông hàng hóa có thể dẫn tới
trì trệ hoặc lạm phát.
- Khi tiền thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì:
Trong đó:
M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định; P là mức giá
cả;
Q là khối lượng hàng hóa, dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số vòng lưu thông của đồng
tiền.
Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lthuận với tổng số giá cả hàng
hóa được đưa ra thị trường tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ. Quy luật
này có ý nghĩa chung cho các nền sản xuất hàng hóa.
- Khi tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán thì:
( )
Trong đó:
P.Q là tổng giá cả hàng hóa;
G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu;
G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau;
lOMoARcPSD| 61622044
G3 tổng giá cả hàng hóa đến kthanh toán; V số vòng quay trung bình của tiền
tệ.
- Nội dung nêu trên mang tính nguyên lý: trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày
nay việc xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông trở nên phức tạp hơn song không
vượt ra ngoài khuôn khổ nguyên lý nêu trên.
- Khi tiền giấy ra đời, nếu được phát hành quá nhiều sẽ làm cho đồng tiền bị mất giá trị,
giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát.
+ Lạm phát: là tình trạng mứuc giá chung của mọi hàng hóa tăng lên liên tục trong một
thời gian nhất định
+ 3 mức độ: Vừa phải, phi siêu lạm phát
+ Hậu quả:
. Phân phối lại các nguồn thu nhập
. Khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở SXKD
. Giảm mức sống của người lao động
+ Bởi vậy, nhà nước không thể in và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân
theo nguyên lý của quy luật lưu thông tiền tệ.
Quy luật cạnh tranh:
- Khái niệm: Quy luật cạnh tranh quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan
hệ ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hoá. Cạnh tranh là sự
ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm được những ưu thế về sản xuất cũng
như tiêu thụ và thông qua đó thu được lợi ích tối đa.
- Phân loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành
. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng một
ngành hàng hóa. Đây một trong những phương thức để thực hiện lợi ích của doanh
nghiệp trong cùng một ngành sản xuất.
. Biện pháp cạnh tranh các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị biệt của hàng hóa, làm cho
giá trị hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó.
. Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành gtrị thị trường của từng loại
hàng hoá. Cùng một loại hàng hóa được sản xuất ra trong các doanh nghiệp sản xuất khác
nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ
tay nghề của người lao động...) khác nhau, cho nên hàng hoá sản xuất ra giá trị cá biệt
khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá được trao đổi theo giá trị thị trường chấp
nhận.
+ Cạnh tranh giữa các ngành
. Cạnh tranh giữa các ngành cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh giữa các
ngành khác nhau. vậy, cạnh tranh giữa các ngành cũng trở thành phương thức để thực
hiện lợi ích của các chủ thể thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong điều kiện kinh tế thị
trường.
. Cạnh tranh giữa các ngành phương thức để các chủ thể sản xuất kinh doanh các ngành
sản xuất khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Mục đích của cạnh tranh giữa các ngành là
nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất.
lOMoARcPSD| 61622044
. Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các doanh nghiệp tự do di chuyển nguồn lực của
mình từ ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau.
- Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
+ Những tác động tích cực của cạnh tranh
Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các nguồn lực.
Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
+ Những tác động tiêu cực của cạnh tranh: Khi thực hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh, cạnh
tranh có thể dẫn tới các tác động tiêu cực như:
Một là, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến môi trường kinh doanh.
Hai là, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Ba là, cạnh tranh không lành mạnh sẽ làm tổn hại phúc lợi của xã hội.
u hỏi minh họa:
- Vì sao quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa?
Quy luật giá trị một quy luật kinh tế sở của sản xuất hàng hoá vì quyết
định tính chất của hàng hoá và là cơ sở của mọi quy luật khác của sản xuất hàng hoá.
Ở đâu có trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị có vai trò quan trọng trong sản xuất và lưu thông hàng hoá.
đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho hoạt động sản xuất luân chuyển hàng a
trong các công ty diễn ra suôn sẻ và hiệu quả phù hợp với yêu cầu và quy định của sản
xuất trong xã hội ngày nay.
- Phân tích tác động của quy luật giá trị
lOMoARcPSD| 61622044
Chương 3: LÝ LUẬN CỦA MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
I. HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
Khái niệm sức lao động: Sức lao động hay năng lực lao động toàn bộ những năng lực
thể chất tinh thần tồn tại trong thể, trong một con người đang sống được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
- Người lao động được tự do về thân thể. VD: Thời chiếm hữu lệ, SLĐ của người
lệ ko là hàng hóa, vì bản thân người nô lệ thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta ko có quyền
bán SLĐ của mình
- Người lao động không đủ các liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao động
của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động. VD: Người thợ thủ
công tự do tùy ý sử dụng SLĐ của mình, nhưng đó kp hàng hóa anh ta TLSX để
làm ra sản phẩm nuôi sống mình chứ chưa buộc phải bán SLĐ để sống Hai thuộc tính
của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động hợp thành từ: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả
vật chất, tinh thần); phí tổn đào tạo người lao động; gtrị những tư liệu sinh hoạt cần
thiết (vật chất và tinh thần).
+ Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra năng lực
đó người lao động phải tiêu dùng một lượng liệu sinh hoạt nhất định. Do vậy, thời
gian lao động hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời
gian lao động hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy. Diễn đạt theo
cách khác, giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng
giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của
người mua.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện trong quá trình sử dụng sức
lao động.
+ Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, mang yếu tố tinh thần và lịch sử.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động tính năng đặc biệt không hàng hóa
thông thường nào có được, đó trong khi sử dụng nó, không những giá trị của được
bảo tồn mà còn tạo ra được lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa chỉ rõ nguồn
gốc của giá trị lớn hơn giá trị thặng dư nêu trên do hao phí sức lao động mà có. + dụ
ngày lao động 8h, trong 8h ấy được chia ra hai bộ phận: thời gian lao động tất yếu và
thời gian lao động thặng dư (giả định 4h lao động tất yếu và 4h lao động thặng dư, nếu
nhà bản trả cho công nhân 100$ tiền lương, thì trong ngày lao động ấy người công
nhân còn tạo ra 100$ cho nhà tư bản, Mác gọi đó là giá trị thặng dư.
u hỏi minh họa:
- Vì sao hàng hóa sức lao động lại là hàng hóa đặc biệt?
Hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt vì:
Thứ nhất, trong những đk lịch sử nhất định, sức lao động được coi như một hàng hóa.
Và theo Các Mác viết: “...”
- Người có sức lao động phải được tự do về thân thể, ...
- Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất...
lOMoARcPSD| 61622044
Thứ 2, hàng hóa sức lao động hàng hóa đặc biệt vì hai điểm khác biệt so với
hàng hóa thông thường, biểu hiện ở hai thuộc tính:
- Giá trị hàng hóa sức lao động....
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động...
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
- Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đốigiá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
- Con đường chủ yếu để sản xuất giá tri thặng dư tuyệt đối:
+ Kéo dài ngày lao động tăng cường độ lao động. Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới
hạn về mặt sinh lý (công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên không
thể kéo dài bằng ngày tự nhiên, còn cường độ lao động cũng không thể tăng vô hạn q
sức chịu đựng của con người.
+ Vấp phải các cuộc đấu tranh của công nhân: Công nhân kiên quyết đấu tranh đòi rút
ngắn ngày lao động.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng tuyệt đối: kéo dài thời gian lao động trong 1 ngày,
1 tuần, 1 tháng, 1 năm...
- Giới hạn của Người lao động: phụ thuộc vào thể chất và tinh thần của người lao động.
Tuy vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt
giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
- Giới hạn ngày lao động phụ thuộc vào: Trình độ lực lượng sản xuất; tính chất của quan
hệ sản xuất; so sánh lực lượng giữa công nhân và tư bản.
- Phương pháp này được áp dụng triệt để ở giai đoạn đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
- Giá trị thặng dư tương đối giá trị thặng thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động
tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng trong khi độ dài ngày lao động không
thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối: cải tiến kỹ thuật; tăng năng suất lao
động trong các ngành sản xuất ra liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra liệu sản
xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch.
+ m thu được của những doanh nghiệp giá trị biệt thấp hơn giá trị hội của
hàng hóa.
+ Cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động làm cho hàng hóa của các xí nghiệp đps có
giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư trộ hơn
so với các xí nghiệp khác, phần giá trị đó gá trị thặng dư siêu ngạch. + Biện pháp sản
xuất giá trị thặng dư siêu ngạch: áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác.
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi, nhưng
xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường
xuyên.
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải
tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lđó của từng nhà bản đã dẫn
đến kết quả làm tăng năng suất lao động hội, hình thành giá trị thặng tương đối,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch hình thái
biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
lOMoARcPSD| 61622044
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Nếu gạt bỏ mục đích và tính chất tư bản chủ nghĩa thì các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư, nhất sản xuất giá trị thặng tương đối siêu ngạch tác dụng mạnh
mẽ, kích thích người sản xuất ra sức cải tiến thuật, tăng năng suất lao động thúc
đẩy LLSX phát triển.
Để nâng cao năng suất lao động ở Việt Nam cần nhận thức rõ phương pháp đem
lại giá trị thặng dư và lợi nhuận cao. Đó là tìm kiếm giá trị thặng dư nhờ áp dụng khoa
học kỹ thuật, hiện đại hóa sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Muốn làm được điều đó,
phải đầu tư hơn nữa cho khoa công nghệ, thực hiện chính sách thu hút người lao động
có trình độ cao, tránh nguy cơ chảy máu chất xám,… Hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với Việt Nam hiện nay, bảo vệ lợi ích của nước mua công
nghệ, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo từ trong nước. Xuất phát điểm của Việt
Nam thấp hơn so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, do đó Việt Nam cần
thực hiện chiến dịch “đi tắt, đón đầu”, học tập những thành tựu khoa học công nghệ và
kinh nghiệm quản tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất - kinh doanh.
Câu hỏi minh họa:
- Thế nào là tương đối? Tuyệt đối?
- Phân tích: nêu khái niệm, vẽ sơ đồ, nêu biện pháp để áp dụng phương pháp
- So sánh: giá trị thặng dư tuyệt đối – giá trị thặng dư tương đối; giá trị thặng dư siêu
ngạch – giá trị thặng dư tương đối
Tiêu chí
Tuyệt đối
Tương đối
Độ dài ngày lao động
Kéo dài
Giữ nguyên
Thời gian lao động tất yếu
Giữ nguyên
Rút ngắn
Giá trị sức lao động
Giữ nguyên
Rút ngắn
Biện pháp
Tăng cường độ lao động,
tăng thời gian làm việc
Tăng năng suất lao động
hội
Tiêu chí
Tương đối
Siêu ngạch
Kết quả
Do tăng năng suất lao
động xã hội
Do tăng năng suất lao
động cá biệt
Giai cấp thu giá trị thặng
Toàn bộ các nhà tư bản thu
Từng nhà tư bản thu
Mối quan hệ
Mối quan hệ giữa công
nhân và tư bản
Mối quan hệ giữa công
nhân bản, bản với
tư bản
- Vì sao giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tạm thời?
+ Giá trị thặng siêu ngạch sẽ xuất hiện nhanh chóng cũng nhanh chóng mất bị
hay nói cụ thể hơn là thay thế. Bởi thị trường kinh tế hiện nay cạnh tranh, nếu như
doanh nghiệp của bản áp dụng dây chuyển sản xuất như vậy đem lại lợi nhuận cao thì
ngay sau đó các doanh nghiệp khác cũng sẽ áp dụng cho mình để tạo ra giá trị riêng
cho hàng hóa của mình.
+ Với thị trường luôn luôn thay đổi như vậy thì hàng hóa phải có sự khác biệt, sự khác
biệt đó sẽ đưa đến lợi nhuận khủng hơn những sản phẩm khác. Nên sớm muộn gì cũng
phải áp dụng giá phương pháp công nghệ khác để tạo ra giá trị thặng dư siêu ngạch.
lOMoARcPSD| 61622044
- Vì sao giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?
C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch hình thức biến tướng của giá trị thặng
tương đối, giá trị thặng siêu ngạch giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra
tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng
dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
- Vì sao trong giai đoạn sau của chủ nghĩa tư bản lại áp dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối?
lOMoARcPSD| 61622044
Chương 4: LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC
QUYỀN VÀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
BẢN CHỦ NGHĨA
I. LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC QUYỀN:
1. Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn ( phản ánh rõ nhất)
- Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay
phần lớn việc sản xuất tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận
độc quyền cao.
- Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên kết
ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau
theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng
ra nhiều ngành khác nhau.
Các hình thức tổ chức độc quyền:
- Cartel:
+ Là một liên minh độc quyền về giá cả, phân chia thị trường, số lượng hàng hóa sản xuất.
+ Các nhà tư bản tham gia Cartel vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông
+ Cartel là một liên minh độc quyền không vững chắc
+ Phát triển nhất ở Đức -
Syndicate:
+ Là tổ chức độc quyền về lưu thông: Mọi việc mua bán do ban quản trị đảm nhiệm. +
Mục đích: Thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hóa
với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
+ Phát triển nhất ở Pháp -
Trust:
+ Việc sản xuất, tiêu thụ ng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản =>
Đánh dấu bướ ngoặt về hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. +
Nước Mỹ là quê hương của Trust.
- Consortium:
+ Là hình thức độc quyền đa ngành, tồn tại dưới dạng một hiệp nghị lý kết giữa ngân hàng
công nghiệp để cùng nhau tiến hành các nghiệp vụ tài chính như: phát hành chứng khoán
có giá, phân phối công trái, đầu tư chứng khoán giá ở sở giao dịch, hợp tác để thực hiện
csac dự án lớn.
+ Thông thường, đứng đầu các Consortium là một ngân hàng độc quyền lớn.
2. Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối
- Song song với quá trình tích tụ tập trung sản xuất trong công nghiệp, trong ngân hàng
cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung dẫn đến hình thành c tổ chức độc quyền trong
ngân hàng. Ngân hàng cũng hình thành nhiều cai trò mới:
+ Nắm hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội.
+ Khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế.
+ Gắn kết, biến các doanh nghiệp tản mạn thành đơn vị thống nhất và ngân hàng là người
chi phối.
- Ngân hàng từ chỗ phụ thuộc vào công nghiệp trước đây thành mối quan hệ gắn chặt chẽ
và thâm nhập vào nhau giữa ngân hàng và công nghiệp.
- Sự phát triển của bản tài chính dẫn đến một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời
sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính (giới tài phiệt)
lOMoARcPSD| 61622044
+ Về kinh tế: bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham
dự”
+ Về chính trị: bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình bằng cách chi phối mọi
hoạt động của quan nhà nước, biến nhà nước sản thành công cụ phục vụ lợi ích của
chúng.
3. Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến ( chú ý)
- Khái niệm: Xuất khẩu bản xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích thu được giá trị thặng các nguồn lợi nhuận khác ở các nước
nhập khẩu tư bản.
- Nguyên nhân của xuất khẩu tư bản:
+ Do một số nước tư bản đã tích lũy được một khối lượng tư bản và có một số tư bản cần
tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư trong nước.
+ Do nhiều nước lạc hậu hơn về kinh tế bị lôi cuốn vào giao lưu kinh tế nhưng thiếu tư bản
trong khi đó, những nước này giá ruộng đất thấp, tiền lương thấp, nguyên vật liệu rẻ...
chính điều này hấp dẫn các nhà tư bản đầu tư.
- Hình thức xuất khẩu tư bản:
+ Xét về hình thức đầu tư:
. Đầu trực tiếp hình thức xuất khẩu bản đxây dựng những nghiệp mới hoặc
mua lại những xí nghiệp đang hoạt động nước nhận đầu để trực tiếp kinh doanh thu
lợi nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh của “công ty mẹ” ở chính quốc.
. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ phần,
cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ giá khác, quỹ đầu chứng khoán và thông qua các định
chế tài chính trung gian khác nhà đầu không trực tiếp tham gia quản hoạt động
đầu tư. + Xét về chủ sở hữu:
. Xuất khẩu tư bản nhà nước
. Xuất khẩu tư bản nhân
Vai trò của xuất khẩu tư bản:
- Đối với nước XKTB:
+ Tích cực:
. Tìm được nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận
. Xuất được các TLSX đã lạc hậu hoặc sắp thay thế
. Tìm kiếm được thị trường tiêu thụ và nguồn nguyên liệu
. Khai thác được các nguồn lợi khác của các nước nhập khẩu
+ Tiêu cực: Nếu XKTB đi quá giới hạn sẽ hạn chế sự đầu phát triển trong ước đối với
nước XK
- Đối với nước NKTB:
+ Tích cực:
. Thu hút được tư bản đầu tư
. Khai thác được nguồn lực trong nước
. Giải quyết công ăn việc làm
. Tiếp thu khoa học ng nghệ hiện đại +
Tiêu cực:
. Đầu tư kông cân đối giữa các ngành, làm ảnh hưởng tính độc lập, tự chủ về kinh tế, nguy
cơ lệ thuộc vào nước ngoài tăng lên.
. Quốc phòng an ninh đương đầu với nhiều thách thức mới

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61622044
Chương 1: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ
CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội của sản xuất
và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ biện chứng với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất nhất định
. • Phân tích:
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương thức sản xuất,
có tác động biện chứng với nhau một cách khách quan:
+ Lực lượng sản xuất:
. Khái niệm: Là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh và cải biến
giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người.
. Kết cấu: Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản là tư liệu sản xuất (tư liệu
lao động, đối tượng lao động) và người lao động. - Quan hệ sản xuất:
+ Khái niệm: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất +
Quan hệ sản xuất bao gồm:
. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
. Quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất
. Quan hệ phân phố sản phẩm lao động
- Kinh tế chính trị Mác – Lênin nghiên cứu quan hệ sản xuất:
+ Quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan hệ sở
hữu; quan hệ quản lý; quan hệ phân phối, phân bổ nguồn lực; quan hệ xã hội trong lưu
thông; quan hệ xã hội trong tiêu dùng; quan hệ xã hội trong quản trị phát triển quốc gia;
quản trị phát triển địa phương; quan hệ giữa sản xuất và lưu thông; giữa sản xuất và thị trường...
+ Khi nhấn mạnh việc đặt các quan hệ sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng, kinh tế chính
trị Mác - Lênin không xem nhẹ các quan hệ kinh tế khách quan giữa các quá trình kinh
tế trong một khâu và giữa các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư cách là một
chỉnh thể biện chứng của sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng.
Câu hỏi minh họa
- Mức độ 1: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lê nin là gì?
- Mức độ 3: Phân tích đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác – Lê nin.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN
 Để nhận thức được các hiện thực kinh tế khách quan và khái quát thành các khái niệm, phạm
trù khoa học kinh tế chính trị, cùng với việc vận dụng phép biện chứng duy vật, kinh tế
chính trị Mác - Lênin còn yêu cầu sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu thích hợp như:
trừu tượng hóa khoa học, lôgíc kết hợp với lịch sử, thống kê, so sánh, phân tích tổng
hợp, quy nạp diễn dịch, hệ thống hóa, mô hình hóa, khảo sát, tổng kết thực tiễn...
Đây
là những phương pháp phổ biến được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học:
+ Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp được tiến hành bằng cách nhận ra và gạt bỏ
khỏi quá trình nghiên cứu những yếu tố ngẫu nhiên, những hiện tượng tạm thời, gián lOMoAR cPSD| 61622044
tiếp, trên cơ sở đó tách ra được những dấu hiệu điển hình, bền vững, ổn định, trực tiếp
của đối tượng nghiên cứu. Từ đó nắm được bản chất, khái quát thành các phạm trù, khái
niệm và phát hiện được tính quy luật và quy luật chi phối sự vận động của đối tượng nghiên cứu.
+ Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng như một phương pháp chủ yếu
của kinh tế chính trị Mác - Lênin, bởi vì các nghiên cứu của khoa học này không thể
được tiến hành trong các phòng thí nghiệm, không thể sử dụng các thiết bị kỹ thuật như
trong nghiên cứu khoa học tự nhiên. Mặt khác, các quan hệ xã hội của sản xuất và trao
đổi, các quá trình kinh tế luôn phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau,
nên việc sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học giúp cho việc nghiên cứu trở
nên đơn giản hơn, nhanh chóng tiếp cận được bản chất đối tượng nghiên cứu. (Giải thích
vì sao phương pháp trừu tượng hóa khoa học lại là phương pháp điển hình của KTCT)
+ Để sử dụng tốt phương pháp trừu tượng hóa khoa học, cần có kỹ năng khoa học xác
định đúng giới hạn của sự trừu tượng hóa. Việc loại bỏ những hiện tượng tạm thời, ngẫu
nhiên phải đảm bảo yêu cầu không làm sai lệch bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Không được tùy tiện loại bỏ yếu tố phản ánh trực tiếp bản chất của đối tượng nghiên
cứu; càng không được giữ lại những hiện tượng, yếu tố tạm thời cần phải được gạt ra
khỏi quá trình nghiên cứu. Giới hạn của sự trừu tượng hóa phụ thuộc vào đối tượng
nghiên cứu. Ví dụ, để nghiên cứu tìm ra bản chất của quan hệ lợi ích kinh tế giữa người
lao động với người sử dụng sức lao động trong một điều kiện tổ chức sản xuất nhất định,
có thể gạt bỏ đi yếu tố mang tính tình cảm cá nhân giữa hai chủ thể này, song không thể
gạt bỏ lợi ích kinh tế mà mỗi chủ thể sẽ nhận được trong mối quan hệ đó. Việc gạt bỏ
yếu tố lợi ích ra khỏi quá trình nghiên cứu sẽ làm thay đổi bản chất, quan hệ đó không
còn là quan hệ lợi ích kinh tế.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân chia các hiện tựng nghiên cứu thành những
bộ phận cấu thành. Từ đó, bằng cách tổng hợp, tái hiện thành một bức tranh thống nhất, toàn diện.
- Phương pháp logic – lịch sử:
+ Logic là nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong quá trình mà sự vật, hiện tượng đó xuất
hiện, trình tự ra đời của nó.
+ Lịch sử: xem xét các quan điểm, tư tưởng trong bối cảnh, hoàn cảnh mà nó xuất hiện
để thấy được ý nghĩa của quan điểm dó
Ví dụ: Galile đưa ra một quan điểm vĩ đại là “trái đất tự quay quanh trục của nó” =>
Nhân loại cho là nhảm nhí vì mọi người chưa biết đến thiên văn học => Galile bị đưa
lên giàn hỏa thiêu. Nhưng đến hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì đã
chứng minh được quan điểm đó đúng và phổ biến.
Ngày nay, với sự phát triển hết sức phức tạp của các quan hệ kinh tế, ngoài các phương
pháp nghiên cứu đặc thù, kinh tế chính trị Mác - Lênin còn yêu cầu sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu liên ngành, các phương pháp nghiên cứu hiện đại, nghiên cứu dựa trên bằng
chứng, tổng kết thực tiễn để làm cho các kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
gắn bó mật thiết với thực tiễn.
Câu hỏi minh họa
- Mức độ 1: Nêu các phương pháp nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin
- Mức độ 2: Giải thích vì sao phương pháp trừu tượng hóa khoa học lại là phương pháp điển hình của KTCT lOMoAR cPSD| 61622044
- Mức độ 3: Phân tích các phương pháp nghiên cứu của KTCT
Chương 2: LÝ LUẬN CỦA MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA.
MỘT SỐ QUY LUẬT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
1. Sản xuất hàng hóa
• Khái niệm: Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người sản
xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán. • Điều kiện ra đời:
- Một là, phân công lao động xã hội.
+ Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người
sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
VD: trong xí nghiệp dệt may, mỗi người đảm nhận một khâu sản xuất, đây là phân công
kĩ thuật. Còn phân công lao động xh là sự phân chia lđ xh thành các ngành các nghề
khác nhau: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
+ Phân công lao động là cơ sở của sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa. Bởi vì mỗi
người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của
họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu
những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
+ Có 3 loại phân công lao động: Phân công lao động chung (nông nghiệp, công nghiệp,
thương nghiệp, giao thông vận tải,...), phân công lao động đặc thù (công nghiệp nặng, công
nghiệp nhẹ...), phân công lao động cá biệt (thợ hàn, thợ tiện, thợ sơn, thợ lắp ráp...) - Hai
là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.

+ Khái niệm: Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người
sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao
đổi dưới hình thức hàng hóa. C. Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư
nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng
hóa”1. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản
xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
+ Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thề sản xuất hiện khách quan
dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt về sở hữu
càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
 Khi còn sự tồn tại của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí chủ quan
mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa sẽ làm cho
xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, nền sản
xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
Liên hệ nền kinh tế Việt Nam
- Ưu điểm của sản xuất hàng hóa Việt Nam:
Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật
của từng người, từng địa phương, từng vùng ở Việt Nam. Ví dụ như vùng đồng đồng
bằng sông Cửu Long, vì thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa nước nên đây là nơi
cung cấp lương thực chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản
xuất có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ lOMoAR cPSD| 61622044
kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật
mới được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao
động được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu
quả kinh tế được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần
kinh tế. Quy mô sản xuất được mở rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.

Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh
tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, nâng cao
năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Sản xuất hàng hóa phát triển làm
cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa
dạng. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất
hàng hoá vận dụng có hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà
các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.

Bình quân GDP của Việt Nam khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa sau thời kỳ
đổi mới tăng qua các năm. Từ năm 1986 – 1990, GDP của KV1 là 2,7%, KV2 là 4,7%
và KV3 là 5,7%. Từ năm 1991 – 1995, GDP của KV1 là 4,1%, KV2 là 12%, KV3 là
8,6%. Từ năm 1996 – 2000, GDP của KV1 là 4,4%, KV2 là 10,6%, KV3 là 5,7%.

Sản xuất hàng hóa làm cho Việt Nam từ một đất nước kém phát triển trở thành
một đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống vật
chất càng ngày càng đầy đủ cũng như đời sống tinh thần được cải thiện và ngày càng phong phú.

- Khuyết điểm sản xuất hàng hóa:
Làm Phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh
tế, thất nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện
trạng kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội

Vì chạy theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sử dụng bừa bãi, tàn phá tài nguyên và hủy
diệt môi trường ,sinh thái( điển hình là các công ty xả thải bừa bãi ra ngoài môi trường
làm ô nhiễm môi trường). Năm 2004, 5 doanh nghiệp tư nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế
liệu không đúng với thực tế khai báo về cảng sài gòn đã vi phạm về quy định bảo vệ môi
trường. Đặc biệt phải kể đến đó là vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã dội lên một làn
sóng phẫn nộ của người dân trên cả nước. Nước thải công nghiệp của công ty TNHH
gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường
biển đã làm cho hải sản chết hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng
nề về tài sản và môi trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh,
du lịch và đời sống cũng như sức khỏe của người dân. Ở Việt Nam, các “làng ung thư”
xuất hiện ngày càng nhiều.

Để tối thiểu hóa đầu tư, tối đa hóa lợi nhuân, các doanh nghiệp bất chấp sức
khỏe người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vụ việc làm
sữa lậu, trà sữa làm từ nguyên liệu kém chất lượng, ngộ độc trà sữa,… ngày càng nhiều.

- Giải pháp nâng cao hoạt động sản xuất hàng hóa:
Để khắc phục những khuyết tật, hạn chế của nền sản xuất hàng hóa thì vai trò
của nhà nước rất quan trọng. Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh
đó vẫn còn có những khuyết tật) của sản xất hàng hoá mà tại Đại hội VII Đảng ta đã
xác định phương hướng : Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
lOMoAR cPSD| 61622044
Nhà nước cần phải tăng cường điều chỉnh và quản lý vĩ mô một cách kiên quyết
và khôn khéo để mọi hoạt dộng vào khuôn khổ và đều tuân theo pháp luật. Nhà nước
cần thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế kết hợp với các luật về bảo vệ môi trường
sinh thái để xác định hành vi kinh doanh là hợp pháp hay không và có biện pháp xử lý
khi có cá nhân hoặc tổ chức vi phạm. Thêm vào đó, Nhà nước phải sử dụng có ý thức
các quy luật kinh tế khách quan vào quản lý nền kinh tế sản xuất hàng hóa để phát huy
những ưu thế vốn có và ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái khuyết tật của nó. Chính vì
vậy, sử dụng "Bàn tay hữu hình" của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra
hành lang và bước đi cho nền kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN.

Câu hỏi minh họa:
- Mức độ 1: Thế nào là sản xuất hàng hóa? Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa là gì? -
Mức độ 2: Tại sao hàng hóa ra đời phải có đồng thời 2 điều kiện?
Chúng ta thấy rằng, trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Rõ rang, người chủ nô sở hữu
nhiều nô lệ, mỗi người làm một công việc khác nhau, tạo ra sản phẩm khác nhau. Nhưng,
họ lại không có sự tách biệt về kinh tế, sản phẩm của họ làm ra lại thuộc sở hữu của
người chủ nô. Người nô lệ không thể tự do đem sản phẩm đó đi trao đổi mua bán được.
nên sản phẩm lao động của họ không được coi là hàng hóa. Chỉ khi, người chủ nô mang
sản phẩm lao động đó ra chợ buôn bán thì đó mới được coi là hàng hóa. Người chủ nô
khác với người nô lệ ở chỗ họ được quyền sở hữu và có sự tách biệt kinh tế.

Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất làm cho những người sản
xuất trở thành chủ thể sản xuất độc lập nhất định với nhau. Do đó, người này muốn tiêu
dùng sản phẩm của người kia thì phải trao đổi mua bán.

Trong lịch sử , sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá
nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.

- Mức độ 3: Phân tích các điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa. 2. Hàng hóa: • Khái niệm:
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán.
- Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi được đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán
trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
• Hai thuộc tính: Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
+ Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người.

+ Ví dụ: GTSD của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu là để sản xuất... Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên
khác nhau, do đó nó có nhiều GTSD hay công dụng khác nhau: gạo có thể dùng nấu
cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
+ Đặc trưng của giá trị sử dụng hàng hóa:
. Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay nhiều công dụng. Vì vậy, một vật phẩm đã là
hàng hóa thì nhất định phải có giá trị sử dụng. Ví dụ: Quần áo có công dụng giữ ấm, bán, tặng, trang trí... lOMoAR cPSD| 61622044
. Giá trị sử dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định. Vì vậy
nó là phạm trù vĩnh viễn.
. Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền sản xuất càng
phát triển, khoa học - công nghệ càng hiện đại, càng giúp con người phát hiện thêm các
giá trị sử dụng của sản phẩm.
. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua.
Vì vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình sản
xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua. - Giá trị của hàng hóa
+ Khái niệm: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Ví dụ: 10 kg thóc đổi lấy 1 m vải. Vải và thóc là hai hh có GTSD khác nhau về chất,
nhưng chúng có thể trao đổi với nhau theo tỉ lệ nào đó, bởi chúng đều là sản phẩm của
lao động. Vì vậy, người ta trao đổi hh cho nhau thực chất là trao đổi lao động của mình
ẩn dấu trong những hh đấy.
+ Biểu hiện: Trước hết biểu hiện ra là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ trao đổi
lẫn nhau giữa những giá trị sử dụng thuộc loại khác nhau. + Đặc trưng:
. Giá trị của hàng hóa là phạm trù lịch sử vì nó chỉ tồn tại khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa.
. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, trao đổi hàng hóa
. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ
sở của trao đổi. Khi trao đổi người ta ngầm so sánh lao động đã hao phí ẩn giấu trong hàng hóa với nhau.
- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa: ( ngầm giải thích vì sao hàng hoá có hai
thuộc tính) + Sự thống nhất:
. 2 thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một hàng
hóa . Do 1 người lao động sản xuất ra hàng hóa
quyết định + Sự mâu thuẫn:
. Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất nhưng ngược lại, với
tư cách là giá trị thì hàng hóa đồng nhất về chất
. Quá trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị có sự tách rời về không gian, khoảng cách
càng ngắn thì càng thuận lợi
. Trong nền sản xuất hàng hóa, một hàng hóa sản xuất ra có thể bán được hoặc không
bán được. Nếu hàng hóa bán được thì mâu thuẫn giữa 2 thuộc tính được giải quyết.
 Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
- Lao động cụ thể
+ Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
+ VD: lao động cụ thể của người thợ may, mục đích là sản xuất quần, áo, giày dép, đối
tượng lao động là vải, da,..., phương pháp của người đó là các thao tác về cắt, khâu,
may, dệt,...phương tiện được sử dụng là kéo, máy khâu, kim, chỉ; kết quả lao động là
tạo ra nhưng bộ quàn áo, đôi giày, đôi dép. + Đặc trưng: lOMoAR cPSD| 61622044
. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương pháp lao động
riêng và kết quả riêng.
. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
. Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sử dụng khác
nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển, xã hội càng nhiều ngành, nghề khác
nhau, các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng, càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
. Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn
. Lao động cụ thể là nguồn gốc tạo ra của cải vật chất
- Lao động trừu tượng
+ Khái niệm: Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa không
kể đến hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản
xuất hàng hoá về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Ví dụ: Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao
động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả sự khác nhau ấy sang một
bên thì chúng chỉ còn một cái chung là đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người. + Đặc trưng:
. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.
. Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sửu
. Lao động trừu tượng biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa
. Lao động trừu tượng là lao động nhất và giống nhau về chất.
- Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa:
+ Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa bởi việc
sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất. Lao động trừu tượng
phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động của mỗi người
là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội.
+ Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do
những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu cầu xã hội,
hoặc khi mức hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận
được. Khi đó, sẽ có một số hàng hóa không bán được. Nghĩa là có một số hao phí lao
động cá biệt không được xã hội thừa nhận. Mâu thuẫn này tạo ra nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn.
- Ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta hiện nay
+ Đẩy mạnh phân công lao động để phát triển kinh tế hàng hoá, đáp ứng nhu cầu đa
dạng và phong phú của hội.
+ Phải coi trọng cả hai thuộc tính của hàng hoá để không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng
cao chất lượng, hạ giá thành.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị: Lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa được đo
lường bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, cho nên, về nguyên
tắc, những nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết để sản xuất
ra một đơn vị hàng hóa tất sẽ ảnh hưởng tới lượng giá trị của đơn vị hàng hóa. Có những nhân tố chủ yếu sau:
Một là, năng suất lao động. lOMoAR cPSD| 61622044
- Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

- Năng suất lao động tăng lên sẽ làm giảm lượng thời gian hao phí lao động cần thiết
trong một đơn vị hàng hóa. Do vậy, năng suất lao động tăng lên sẽ làm cho lượng giá
trị trong một đơn vị hàng hóa giảm xuống. “Như vậy là đại lượng giá trị của một hàng
hóa thay đổi theo tỷ lệ thuận với lượng lao động thể hiện trong hàng hóa đó và tỷ lệ nghịch với sức
sản xuất của lao động đó”2. Vì vậy, trong thực hành sản xuất, kinh doanh cần chú ý, để
có thể giảm hao phí lao động cá biệt, cần phải thực hiện các biện pháp góp phần tăng năng suất lao động.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm: i) trình độ khéo léo trung bình của
người lao động; ii) mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng khoa học vào
quy trình công nghệ; iii) sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất; iv) quy mô và hiệu
suất của tư liệu sản xuất; v) các điều kiện tự nhiên.
- Khi xem xét về mối quan hệ giữa tăng năng suất với lượng giá trị của một đơn vị hàng
hóa, cằn chú ý thêm về mối quan hệ giữa tăng cường độ lao động với lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.
+ Khái niệm: Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động trong sản xuất.
+ Tăng cường độ lao động là tăng mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động.
Trong chừng mực xét riêng vai trò của cường độ lao động, việc tăng cường độ lao động
làm cho tổng số sản phẩm tăng lên. Tổng lượng giá trị của tất cả hàng hóa gộp lại tăng
lên. Song, lượng thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra một đơn vị
hàng hóa không thay đổi; vì tăng cường độ lao động chỉ nhấn mạnh tăng mức độ khẩn
trương, tích cực của hoạt động lao động thay vì lười biếng mà sản xuất ra số lượng hàng hóa ít hơn.
+ Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý, trình độ
tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động... Nếu giải
quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, thuần thục hơn,
tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều hàng hóa hơn.
Hai là, tính chất phức tạp của lao động.
- Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ thống,
chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được. + Lao động
phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một quá trình đào tạo về kỹ
năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
- Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá
trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân bội
lên. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để cả nhà quản trị và người lao động xác định mức
thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động lao động trong quá trình tham gia vào
các hoạt động kinh tế - xã hội.
Câu hỏi minh họa:
- Mức độ 2: Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính? lOMoAR cPSD| 61622044
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do
có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất
hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C.Mác là người đầu
tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.

+ Lao động cụ thể
+ Lao động trừu tượng
+ Ý nghĩa thực tiễn
- Mức dộ 2: So sánh NSLĐ với CĐLĐ? Nên tăng NSLD hay CDLD? Vì sao?
+ Giống nhau: Số lượng sản phẩm được sản xuất ra đều tăng + Khác nhau: Tiêu chí so sánh
Tăng năng suất lao động
Tăng cường độ lao động
Giá trị 1 đơn vi sản phẩm Giảm Không đổi
Tổng giá trị sản phẩm Không đổi Tăng
Nhân tố ảnh hưởng
Máy móc, khoa học kĩ thuật Thể chất, tinh thần của
=> Có thể tăng vô hạn

người lao động => Không thể tăng vô hạn
=> Nên tăng năng suất lao động vì: Tăng năng suất lao động do thay đổi cách thức lao
động, làm giảm nhẹ hao phí lao động, tăng cường độ lao động thì cách thức lao động
không đổi, hao phí sức lao động không thay đổi.Tăng năng suất lao động là vô hạn còn
tăng cường độ lao động là có giới hạn, bị giới hạn bởi sức khoẻ của con người. Tăng
năng suất lao động có tác dụng tích cực và không ảnh hưởng đên sức khoẻ của con
người còn tằng cường độ lao động nếu tăng quá mức sẽ gây tai nạn lao động và ảnh
hưởng đến sức khoẻ của con người.
Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản
kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng
thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Về mặt kinh
tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá
giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

II. MỘT SỐ QUY LUẬT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
Có rất nhiều quy luật kinh tế điều tiết nền kinh tế thị trường. Là nền kinh tế hàng hóa phát
triển ở trình độ cao, các quy luật của nền kinh tế hàng hóa cũng phát huy tác dụng trong
nền kinh tế thị trường. Một số quy luật điển hình trong nền kinh tế thị trường là:
 Quy luật giá trị (trọng tâm): vị trí, vai trò, tác động
- Vị trí: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản
xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
- Nội dung: Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến
hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá trị,
người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận
sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động
xã hội cần thiết. Vì vậy, họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt
xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong lĩnh vực trao đổi,
phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
- Tác động của quy luật giá trị: Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua
sự vận động của giá cả xung quanh giá trị, dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá
cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy lOMoAR cPSD| 61622044
luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của
quy luật giá trị. Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh
của giá cả thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau:
+ Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Điều tiết sản xuất là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế. Tác dụng này thông qua sự biến động của giả cả hàng hóa trên thị
trường dưới tác động của quy luật cung cầu.
VD: Nếu ở ngành nào đó cung nhỏ hơn cầu => Giá cả cao hơn giá trị => Hàng
hóa bán chạy, lãi cao => Người sản xuất đổ xô vào nghành đó => TLSX và sức lao động
được chuyển dịch vào ngành đó tăng
Ngược lại nếu ngành đó cung vượt quá cầu => Giá cả giảm => Hàng hóa bán
ko chạy, có thể lỗ vốn => Người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển
sang đầu tư vào ngành khác.
Khi giá cà phê ở nước ta tăng cao, người dân các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam
Bộ trồng rất nhiều cà phê để cung cấp cho thị trường và thu lợi nhuận. Nhưng sau đó,
giá cà phê giảm; giá hạt tiêu và điều tăng, rất nhiều chủ vườn đã chặt bỏ bớt cây cà phê
để trồng điều, hồ tiêu đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
→ Tạo nên sự cân bằng hh trên thị trường.
+ Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm:
Ví dụ một công ty sản xuất bánh, thay vì làm phần bột bên trong của bánh bằng phương
pháp thủ công thì công ty áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất bánh, nhờ thế mà số
lượng tăng nhanh, đáp ứng đủ nhu cầu của người mua
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể độc lập,
tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất
khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau. Người có hplđcb < hplđxh sẽ có lợi,
thu được lãi cao và ngược lại.
→ Để giành lợi thế và tránh vỡ nợ, họ phải hạ thấp hplđcb của mình, sao cho bằng hplđxhct
→ Tìm cách cải tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất, tăng năng suất. → LLSX phát triển
+ Thứ ba, phân hoá những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một cách tự nhiên:
Quá trình cạnh tranh tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản
xuất thuận lợi, kiến thức cao, trang bị kĩ thuật tốt, hplđcb < hplđxhct sẽ phát tài, giàu
lên nhanh chóng. Ngược lại, những người ko có đksx thuận lợi, làm ăn kém cỏi hoặc
gặp rủi ro nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó. lOMoAR cPSD| 61622044
→Làm xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN, cơ sở ra đời của CNTB.
Ví dụ về sự phát triển lớn mạnh của tổng công ty dịch vụ viễnthông viettel và tập
đoàn VNPT là một ví dụ rõ ràng về tác động này.
Trước hết, đây là hai thương hiệu lớn của Việt Nam trong lĩnh vực cungcấp các
dịch vụ viễn thông. So về tuổi, Viettel đến nay được thành lập đứng 22 năm, chỉ bằng
một phần ba quãng đường mà VNPT đã trải qua. Còn nếu xét về những doanh nghiệp
sức mạnh đem tới doanh thu và lợi nhuận quan trọng nhất của hai phía, thì mạng di động
Viettel cũng vừa 7 tuổi, chưa bằng một nửa quãng đường mà MobiFone (17 năm) và
VinaPhone (14 năm) đi qua. Thế mà, về sự phát triển và đặc biệt là doanh thu, đã có
chiều hướng tỷ lệ nghịch, Viettel đã đạt mức tăng trưởng doanh số và phát triển ngành
nghề đa dạng và nhanh chóng.
Ở một số lĩnh vực, cụ thể là thông tin di động, Viettel còn đi xa hơn VNPT khi
đầu tư ra nước ngoài như Lào, Campuchia, và đã bắt đầu có nguồn thu. Trong khi đó
VNPT chỉ chú trọng vào thị trường trong nước thì Viettel đã cómột bước đi đầy táo bạo
khi tìm kiếm cho mình một thị trường mới. Các chuyên gia và giới truyền thông dự báo,
với tốcđộ phát triển và những tiềm năng tăng trưởng từ những ngành nghề mới của
Viettel, thế tương quan kèn cựa nhau, thậm chí vượt mặt VNPT, sẽ không còn xa.
Với chiến lược hướng vào đối tượng bình dân, Viettel đã không ngừngtriển khai
các dịch với giá thành hấp dẫn, luôn có những trương trình khuyến mại, với các gói
cước giá rẻ để tạo ra lợi thế trong cạnh tranh, trong khi đó, hai mạng Mobi Fone và Vina
Fone của VNPT có giá cước cao hơn khá nhiều.
Qua ví dụ trên, chúng ta có thể thấy rõ trong sản xuất, nếu biết đầu tư và điều tiết
sản xuất hợp lí, sẽ khẳng định được thương hiệu của minh. Ngược lại,nếu không biết
tận dụng nguồn lực của mình của mình một cách hợp lí, đúngcách có thể dẫn đến việc
mất dàn thương hiệu và thua lỗ. Đó chính là quy luật phân hóa giàu nghèo hết sức tự
nhiên trong kinh doanh, dưới tác động của quy luật giá trị.
- Ý nghĩa thực tiễn: quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích
sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ: vừa có tác dụng lựa chọn,
đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả những
tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị
trường nên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích cực.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến
bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá
người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả những tác động
tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường. • Quy luật cung cầu:
- Quy luật cung - cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu
(bên mua) hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất.
- Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động
lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn
giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị; nếu cung bằng cầu lOMoAR cPSD| 61622044
thì giá cả bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau.
- Quy luật cung - cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá;
làm thay đổi cơ cấu và quy mô thị trường, ảnh hưởng tới giá cả của hàng hóa. Căn cứ
vào quan hệ cung - cầu, có thể dự đoán xu thế biến động của giá cả. Ở đâu có thị trường
thì ở đó quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Nếu nhận thức
được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh theo
hướng có lợi cho quá trình sản xuất.
- Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp
kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu
dùng... để tác động vào các hoạt động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu
một cách lành mạnh và hợp lý.
• Quy luật lưu thông tiền tệ:
- Quy luật lưu thông tiền tệ yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải căn cứ trên yêu cầu của
lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Theo yêu cầu của quy luật, việc đưa số lượng tiền cần
thiết cho lưu thông trong mỗi thời kỳ nhất định phải thống nhất với lưu thông hàng
hóa. Việc không ăn khớp giữa lưu thông tiền tệ với lưu thông hàng hóa có thể dẫn tới
trì trệ hoặc lạm phát.
- Khi tiền thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì: Trong đó:
M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định; P là mức giá cả;
Q là khối lượng hàng hóa, dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số vòng lưu thông của đồng tiền.
Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng
hóa được đưa ra thị trường và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ. Quy luật
này có ý nghĩa chung cho các nền sản xuất hàng hóa.
- Khi tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán thì: ( ) Trong đó:
P.Q là tổng giá cả hàng hóa;
G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu;
G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; lOMoAR cPSD| 61622044
G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán; V là số vòng quay trung bình của tiền tệ.
- Nội dung nêu trên mang tính nguyên lý: trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày
nay việc xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông trở nên phức tạp hơn song không
vượt ra ngoài khuôn khổ nguyên lý nêu trên.
- Khi tiền giấy ra đời, nếu được phát hành quá nhiều sẽ làm cho đồng tiền bị mất giá trị,
giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát.
+ Lạm phát: là tình trạng mứuc giá chung của mọi hàng hóa tăng lên liên tục trong một thời gian nhất định
+ Có 3 mức độ: Vừa phải, phi mã và siêu lạm phát + Hậu quả:
. Phân phối lại các nguồn thu nhập
. Khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở SXKD
. Giảm mức sống của người lao động
+ Bởi vậy, nhà nước không thể in và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân
theo nguyên lý của quy luật lưu thông tiền tệ.  Quy luật cạnh tranh:
- Khái niệm: Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan
hệ ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hoá. Cạnh tranh là sự
ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu thế về sản xuất cũng
như tiêu thụ và thông qua đó thu được lợi ích tối đa. - Phân loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành
. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng một
ngành hàng hóa. Đây là một trong những phương thức để thực hiện lợi ích của doanh
nghiệp trong cùng một ngành sản xuất.
. Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp
lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa, làm cho
giá trị hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó.
. Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường của từng loại
hàng hoá. Cùng một loại hàng hóa được sản xuất ra trong các doanh nghiệp sản xuất khác
nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ
tay nghề của người lao động...) khác nhau, cho nên hàng hoá sản xuất ra có giá trị cá biệt
khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá được trao đổi theo giá trị mà thị trường chấp nhận.
+ Cạnh tranh giữa các ngành
. Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh giữa các
ngành khác nhau. Vì vậy, cạnh tranh giữa các ngành cũng trở thành phương thức để thực
hiện lợi ích của các chủ thể thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong điều kiện kinh tế thị trường.
. Cạnh tranh giữa các ngành là phương thức để các chủ thể sản xuất kinh doanh ở các ngành
sản xuất khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Mục đích của cạnh tranh giữa các ngành là
nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. lOMoAR cPSD| 61622044
. Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các doanh nghiệp tự do di chuyển nguồn lực của
mình từ ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau.
- Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
+ Những tác động tích cực của cạnh tranh
Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các nguồn lực.
Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
+ Những tác động tiêu cực của cạnh tranh: Khi thực hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh, cạnh
tranh có thể dẫn tới các tác động tiêu cực như:
Một là, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến môi trường kinh doanh.
Hai là, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Ba là, cạnh tranh không lành mạnh sẽ làm tổn hại phúc lợi của xã hội.
Câu hỏi minh họa:
- Vì sao quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa?
Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế cơ sở của sản xuất hàng hoá vì nó quyết
định tính chất của hàng hoá và là cơ sở của mọi quy luật khác của sản xuất hàng hoá.
Ở đâu có trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị có vai trò quan trọng trong sản xuất và lưu thông hàng hoá.
đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho hoạt động sản xuất và luân chuyển hàng hóa
trong các công ty diễn ra suôn sẻ và hiệu quả phù hợp với yêu cầu và quy định của sản
xuất trong xã hội ngày nay.

- Phân tích tác động của quy luật giá trị lOMoAR cPSD| 61622044
Chương 3: LÝ LUẬN CỦA MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
I. HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
• Khái niệm sức lao động: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.

• Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
- Người lao động được tự do về thân thể. VD: Thời kì chiếm hữu nô lệ, SLĐ của người nô
lệ ko là hàng hóa, vì bản thân người nô lệ thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta ko có quyền bán SLĐ của mình
- Người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao động
của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động. VD: Người thợ thủ
công tự do tùy ý sử dụng SLĐ của mình, nhưng đó kp hàng hóa vì anh ta có TLSX để
làm ra sản phẩm nuôi sống mình chứ chưa buộc phải bán SLĐ để sống
 Hai thuộc tính
của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động hợp thành từ: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả
vật chất, tinh thần); phí tổn đào tạo người lao động; giá trị những tư liệu sinh hoạt cần
thiết (vật chất và tinh thần).
+ Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra năng lực
đó người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Do vậy, thời
gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời
gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy. Diễn đạt theo
cách khác, giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng
giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của người mua.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện trong quá trình sử dụng sức lao động.
+ Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, mang yếu tố tinh thần và lịch sử.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính năng đặc biệt mà không hàng hóa
thông thường nào có được, đó là trong khi sử dụng nó, không những giá trị của nó được
bảo tồn mà còn tạo ra được lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa chỉ rõ nguồn
gốc của giá trị lớn hơn giá trị thặng dư nêu trên do hao phí sức lao động mà có. + Ví dụ
ngày lao động 8h, trong 8h ấy được chia ra hai bộ phận: thời gian lao động tất yếu và
thời gian lao động thặng dư (giả định 4h lao động tất yếu và 4h lao động thặng dư, nếu
nhà tư bản trả cho công nhân 100$ tiền lương, thì trong ngày lao động ấy người công
nhân còn tạo ra 100$ cho nhà tư bản, Mác gọi đó là giá trị thặng dư.
Câu hỏi minh họa:
- Vì sao hàng hóa sức lao động lại là hàng hóa đặc biệt?
Hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt vì:
Thứ nhất, trong những đk lịch sử nhất định, sức lao động được coi như là một hàng hóa.
Và theo Các Mác viết: “...”
- Người có sức lao động phải được tự do về thân thể, ...
- Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất... lOMoAR cPSD| 61622044
Thứ 2, hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt vì nó có hai điểm khác biệt so với
hàng hóa thông thường, biểu hiện ở hai thuộc tính:
- Giá trị hàng hóa sức lao động....
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động...
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
• Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
- Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi
.
- Con đường chủ yếu để sản xuất giá tri thặng dư tuyệt đối:
+ Kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động. Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới
hạn về mặt sinh lý (công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên không
thể kéo dài bằng ngày tự nhiên, còn cường độ lao động cũng không thể tăng vô hạn quá
sức chịu đựng của con người.
+ Vấp phải các cuộc đấu tranh của công nhân: Công nhân kiên quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: kéo dài thời gian lao động trong 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm...
- Giới hạn của Người lao động: phụ thuộc vào thể chất và tinh thần của người lao động.
Tuy vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt
giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
- Giới hạn ngày lao động phụ thuộc vào: Trình độ lực lượng sản xuất; tính chất của quan
hệ sản xuất; so sánh lực lượng giữa công nhân và tư bản.
- Phương pháp này được áp dụng triệt để ở giai đoạn đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản
• Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động
tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không
thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn
.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: cải tiến kỹ thuật; tăng năng suất lao
động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản
xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch.
+ Là m thu được của những doanh nghiệp có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa.
+ Cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động làm cho hàng hóa của các xí nghiệp đps có
giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư trộ hơn
so với các xí nghiệp khác, phần giá trị đó là gá trị thặng dư siêu ngạch. + Biện pháp sản
xuất giá trị thặng dư siêu ngạch: áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác.
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi, nhưng
xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải
tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn
đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái
biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. lOMoAR cPSD| 61622044
• Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Nếu gạt bỏ mục đích và tính chất tư bản chủ nghĩa thì các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư, nhất là sản xuất giá trị thặng dư tương đối và siêu ngạch có tác dụng mạnh
mẽ, kích thích người sản xuất ra sức cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động và thúc đẩy LLSX phát triển.
Để nâng cao năng suất lao động ở Việt Nam cần nhận thức rõ phương pháp đem
lại giá trị thặng dư và lợi nhuận cao. Đó là tìm kiếm giá trị thặng dư nhờ áp dụng khoa
học kỹ thuật, hiện đại hóa sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Muốn làm được điều đó,
phải đầu tư hơn nữa cho khoa công nghệ, thực hiện chính sách thu hút người lao động
có trình độ cao, tránh nguy cơ chảy máu chất xám,… Hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với Việt Nam hiện nay, bảo vệ lợi ích của nước mua công
nghệ, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo từ trong nước. Xuất phát điểm của Việt
Nam thấp hơn so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, do đó Việt Nam cần
thực hiện chiến dịch “đi tắt, đón đầu”, học tập những thành tựu khoa học công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất - kinh doanh.
Câu hỏi minh họa:
- Thế nào là tương đối? Tuyệt đối?
- Phân tích: nêu khái niệm, vẽ sơ đồ, nêu biện pháp để áp dụng phương pháp
- So sánh: giá trị thặng dư tuyệt đối – giá trị thặng dư tương đối; giá trị thặng dư siêu
ngạch – giá trị thặng dư tương đối Tiêu chí Tuyệt đối Tương đối
Độ dài ngày lao động Kéo dài Giữ nguyên
Thời gian lao động tất yếu Giữ nguyên Rút ngắn
Giá trị sức lao động Giữ nguyên Rút ngắn Biện pháp
Tăng cường độ lao động, Tăng năng suất lao động xã
tăng thời gian làm việc
hội Tiêu chí Tương đối Siêu ngạch Kết quả
Do tăng năng suất lao
Do tăng năng suất lao động xã hội động cá biệt
Giai cấp thu giá trị thặng
Toàn bộ các nhà tư bản thu Từng nhà tư bản thu Mối quan hệ
Mối quan hệ giữa công Mối quan hệ giữa công nhân và tư bản
nhân và tư bản, tư bản với tư bản
- Vì sao giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tạm thời?
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ xuất hiện nhanh chóng và cũng nhanh chóng mất bị
hay nói cụ thể hơn là thay thế. Bởi thị trường kinh tế hiện nay là cạnh tranh, nếu như
doanh nghiệp của bản áp dụng dây chuyển sản xuất như vậy đem lại lợi nhuận cao thì
ngay sau đó các doanh nghiệp khác cũng sẽ áp dụng cho mình để tạo ra giá trị riêng
cho hàng hóa của mình.

+ Với thị trường luôn luôn thay đổi như vậy thì hàng hóa phải có sự khác biệt, sự khác
biệt đó sẽ đưa đến lợi nhuận khủng hơn những sản phẩm khác. Nên sớm muộn gì cũng
phải áp dụng giá phương pháp công nghệ khác để tạo ra giá trị thặng dư siêu ngạch.
lOMoAR cPSD| 61622044
- Vì sao giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?
C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra
tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng
dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.

- Vì sao trong giai đoạn sau của chủ nghĩa tư bản lại áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối? lOMoAR cPSD| 61622044
Chương 4: LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC
QUYỀN VÀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
I. LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC QUYỀN:
1. Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn ( phản ánh rõ nhất)
- Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay
phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao.
- Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên kết
ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau
theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.
 Các hình thức tổ chức độc quyền: - Cartel:
+ Là một liên minh độc quyền về giá cả, phân chia thị trường, số lượng hàng hóa sản xuất.
+ Các nhà tư bản tham gia Cartel vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông
+ Cartel là một liên minh độc quyền không vững chắc
+ Phát triển nhất ở Đức - Syndicate:
+ Là tổ chức độc quyền về lưu thông: Mọi việc mua bán do ban quản trị đảm nhiệm. +
Mục đích: Thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hóa
với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
+ Phát triển nhất ở Pháp - Trust:
+ Việc sản xuất, tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản lý =>
Đánh dấu bướ ngoặt về hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. +
Nước Mỹ là quê hương của Trust. - Consortium:
+ Là hình thức độc quyền đa ngành, tồn tại dưới dạng một hiệp nghị lý kết giữa ngân hàng
và công nghiệp để cùng nhau tiến hành các nghiệp vụ tài chính như: phát hành chứng khoán
có giá, phân phối công trái, đầu tư chứng khoán có giá ở sở giao dịch, hợp tác để thực hiện csac dự án lớn.
+ Thông thường, đứng đầu các Consortium là một ngân hàng độc quyền lớn.
2. Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối
- Song song với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp, trong ngân hàng
cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong
ngân hàng. Ngân hàng cũng hình thành nhiều cai trò mới:
+ Nắm hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội.
+ Khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế.
+ Gắn kết, biến các doanh nghiệp tản mạn thành đơn vị thống nhất và ngân hàng là người chi phối.
- Ngân hàng từ chỗ phụ thuộc vào công nghiệp trước đây thành mối quan hệ gắn bó chặt chẽ
và thâm nhập vào nhau giữa ngân hàng và công nghiệp.
- Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời
sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính (giới tài phiệt) lOMoAR cPSD| 61622044
+ Về kinh tế: bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham dự”
+ Về chính trị: bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình bằng cách chi phối mọi
hoạt động của cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích của chúng.
3. Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến ( chú ý)
- Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích thu được giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
- Nguyên nhân của xuất khẩu tư bản:
+ Do một số nước tư bản đã tích lũy được một khối lượng tư bản và có một số tư bản cần
tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư trong nước.
+ Do nhiều nước lạc hậu hơn về kinh tế bị lôi cuốn vào giao lưu kinh tế nhưng thiếu tư bản
trong khi đó, ở những nước này giá ruộng đất thấp, tiền lương thấp, nguyên vật liệu rẻ...
chính điều này hấp dẫn các nhà tư bản đầu tư.
- Hình thức xuất khẩu tư bản:
+ Xét về hình thức đầu tư:
. Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc
mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh thu
lợi nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh của “công ty mẹ” ở chính quốc.
. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ phần,
cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định
chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư. + Xét về chủ sở hữu:
. Xuất khẩu tư bản nhà nước
. Xuất khẩu tư bản tư nhân 
Vai trò của xuất khẩu tư bản: - Đối với nước XKTB: + Tích cực:
. Tìm được nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận
. Xuất được các TLSX đã lạc hậu hoặc sắp thay thế
. Tìm kiếm được thị trường tiêu thụ và nguồn nguyên liệu
. Khai thác được các nguồn lợi khác của các nước nhập khẩu
+ Tiêu cực: Nếu XKTB đi quá giới hạn sẽ hạn chế sự đầu tư phát triển trong ước đối với nước XK - Đối với nước NKTB: + Tích cực:
. Thu hút được tư bản đầu tư
. Khai thác được nguồn lực trong nước
. Giải quyết công ăn việc làm
. Tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại + Tiêu cực:
. Đầu tư kông cân đối giữa các ngành, làm ảnh hưởng tính độc lập, tự chủ về kinh tế, nguy
cơ lệ thuộc vào nước ngoài tăng lên.
. Quốc phòng an ninh đương đầu với nhiều thách thức mới