



















Preview text:
ĐỀ CƯƠNG MÔN KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ SỰ SỐNG
I. Khái quát về hệ Mặt trời và Trái đất; Hình dạng, kích thước của Trái đất;
II. Chuyển động của quanh trục của Trái đất và chuyển động của
Trái đất quanh Mặt trời và các hệ quả của chúng?
III. Khái quát chung về các quyển của Trái đất (khái quát về
thạch quyển, khí quyển, thủy quyển, thổ quyển, sinh quyển và
mối quan hệ giữa các quyển)
IV. Hoạt động phong hóa (định nghĩa, các nhân tố ảnh hưởng,
các kiểu phong hóa và vỏ phong hóa);
V.Vai trò của đá gốc (thành phần: độ hạt, hóa học, sinh học đối
với đá trầm tích và biến chất; thành phần hóa học đối với các đá
magma) đối với quá trình hình thành vỏ phong hóa;
VI. Khái quát về biển và đại dương, vai trò của biển và đại
dương đối với con người.
- Sự phân bố của biển và đại dương;
- Điều kiện hải văn (sóng, dòng hải lưu, thủy triều);
- Vai trò của biển và đại dương đối với con người;
- Yếu tố bất lợi: Bão, thay đổi mực nước biển
VII. Khái niệm về thổ quyển, các yếu tố hình thành đất; - Khái niệm thổ quyển;
- Các nhân tố hình thành đất: Đá mẹ, địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật, con người và thời gian;
VIII. Khái quát về sinh quyển và vai trò của sinh quyển đối với con người - Định nghĩa sinh quyển;
- Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phân bố sinh vật trên Trái đất - Thành phần, cấu trúc;
- Vai trò của sinh quyển đối với con người
IX. Vai trò của Trái đất với cuộc sống con người và tác động
của con người tới Trái đất;
Vai trò của Trái đất với cuộc sống con người
- Trái đất là không ian sinh sống của con người;
- Trái đất cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Là nơi chứa đựng và phân hủy các chất thải
- Là nơi cung cấp thông tin
Tác động của con người tới Trái đất; - Làm thay đổi cảnh quan
Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com
- Tác động tới các quyển
- Tác động tới nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Tác động tới chất lượng môi trường
X. Trình bày khái quát các đới tự nhiên trên Trái đất
- Các đới tự nhiên của vòng đai lạnh : Đới hoang mạc; Đới đài nguyên;
- Các đới của vòng đai ôn hòa: Đới rừng taiga;
Đới rừng hỗn hợp và rừng lá rộng;
Đới thảo nguyên rừng; Đới thảo nguyên; Đới hoang mạc
- Các đới của vòng đai cận nhiệt:
Đới cận nhiệt Địa Trung Hải,
Đới rừng hỗn hợp cận nhiệt thường xanh; Đới savan cận nhiệt;
Đới hoang mạc và nửa hoang mạc cận nhiệt
- Đới vòng đai nóng: Đới rừng nhiệt đới; Đới savan nhiệt đới;
Đới hoang mạc nhiệt đới;
Đới rừng xích đạo ẩm ướt) TRẢ LỜI Câu I:
1. Khái quát về hệ Mặt trời ( Thái Dương hệ):
- Định nghĩa: Hệ Mặt Trời là một hệ thống thiên thể có Mặt Trời
là ngôi sao ở trung tâm và 8 hành tinh chính thức quay xung
quanh. Ngoài ra còn nhiều thiên thể khác nhỏ hơn.
- Lấy Mặt trời làm trung tâm, thì 8 hành tinh theo thứ tự từ gần
đến xa mặt trời nhất lần lượt là: Sao Kim- Sao Thủy- Trái Đất-
Sao Hỏa- Sao Mộc - Sao Thổ- Thiên Vương tinh- Hải vương tinh.
- Ngoài ra còn có hành tinh lùn( hay á hành tinh) gồm Thiên
Vương tinh, Sena và Ceres cùng vành đai tiểu hành tinh giữa sao Hỏa và sao Mộc.
- Mặt Trời là ngôi sao ở trung tâm và nổi bật nhất trong Thái
Dương Hệ. Khối lượng khổng lồ của nó (332.900 lần khối lượng
Trái Đất) tạo ra nhiệt độ và mật độ đủ lớn tại lõi để xảy ra phản
ứng tổng hợp hạt nhân,làm giải phóng một lượng năng lượng
khổng lồ, phần lớn phát xạ vào không gian dưới dạng bức xạ
điện từ, với cực đại trong dải quang phổ từ 400 tới 700 nm
mà chúng ta gọi là ánh sáng khả kiến. Cả thái dương hệ đều chịu
lực hấp dẫn của mặt trời.
Nguồn gốc: Các hành tinh và các thiên thể được hình thành từ
sự suy sụp của một đám mây phân tử khổng lồ cách đây gần 4,6 tỷ năm.
- Cùng với ánh sáng, Mặt Trời phát ra một dòng liên tục các hạt
tích điện (plasma) gọi là gió mặt trời. Dòng hạt này trải rộng ra
bên ngoài với vận tốc gần 1,5 tr km/h, tạo ra vùng khí quyển
loãng( nhật quyển ) thẩm vài toàn bộ hệ mặt trời đến khoảng
cách ít nhất 100AU( 1AU= 160km)
Kho tài liệu miễn phí của
Ket-noi.gọi là gió Mặt Trời. Dòng hạt này trải rộng ra
bên ngoài với vận tốc gần 1,5triệu kilômét trên giờ, tạo ra vùng
khí quyển loãng (Nhật quyển) thấm vào toàn bộ Hệ Mặt Trời
đến khoảng cách ít nhất 100 AU( AU là đơn vị thiên
- Các hành tinh xoay quanh Mặt Trời với những quỹ đạo gần
tròn (Elip), dường như trên cùng mặt phẳng với xích đạo của nó.
Các hành tinh có hướng xoay trùng với hướng tự xoay của Mặt Trời quanh trục của nó.
2. Khái quát về Trái Đất:
- Định nghĩa: Trái Đất là hành tinh thứ ba tính từ Mặt Trời, đồng
thời cũng là hành tinh lớn nhất trong các hành tinh đất đá của hệ
Mặt Trời xét về bán kính, khối lượng và mật độ vật chất. Trái
Đất còn được biết tên với các tên "thế giới", "hành tinh xanh"
hay "Địa Cầu", là nhà của hàng triệu loài sinh vật,trong đó có
con người và cho đến nay đây là nơi duy nhất trong vũ trụ
được biết đến là có sự sống.
+ Trái Đất có một vệ tinh tự nhiên là Mặt Trăng, nó là vệ tinh tự
nhiên lớn nhất trong số các vệ tinh của các hành tinh đá trong hệ
Mặt Trời, mặt trăng gây hiện tượng thủy triều trên biển.
- Nguồn gốc: Hành tinh này được hình thành cách đây 4,55 tỷ
năm và sự sống xuất hiện trên bề mặt của nó khoảng 1 tỷ năm
trước. Kể từ đó, sinh quyển của Trái Đất đã có thay đổi đáng kể
bầu khí quyển và các điều kiện vô cơ khác, tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phổ biến của các vi sinh vật ưa khí cũng như sự hình
thành của tầng ôzôn-lớp bảo vệ quan trọng, cùng với từ trường
của Trái Đất, đã ngăn chặn các bức xạ có hại và chở che cho sự sống.
- Hình dạng: Về tổng thể, Trái đất có hình cầu với gần ¾ bề mặt
là biển và đại dương, hơn ¼ là lục địa. Trái đất có hình cầu hơi
dẹt ở hai cực Bán kính ở xích đạo: Re = 6378,16 km Bán kính ở
cực: Rp = 6356,78 km Độ dẹt a = 1/298,25.
+ Trái Đất được coi như có dạng gần giống hình elip quay, còn
trong thực tế nó phức tạp hơn nhiều, không giống một dạng hình
học cụ thể nào, nên được gọi là geôit, nghĩa là một “hình có dạng Trái Đất”.
- Những nét chủ yếu về địa hình:
(i)Trái Đất có 6 châu lục là Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu
Phi, Châu Đại Dương và Châu Nam Cực. Bao quanh chúng là 4
đại dương - Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Bắc Băng
Dương và Ấn Độ Dương. Các đại dương thông thương với nhau,
nên thường được gọi là đại dương thế giới.
(ii)Địa hình chủ yếu trên đất liền: Núi, trung du và đồng bằng.
(iii)Địa hình đáy biển chia thành: Dải ven bờ, thềm lục địa, sườn
lục địa, đáy đại dương và vực thẳm đại dương. Cao nhất là đỉnh
Everest với 8885 km, sâu nhất là vực Marian 11.022 km.
Câu II: Chuyển động của quanh trục của Trái đất và chuyển
động của Trái đất quanh Mặt trời và các hệ quả của chúng?
1. Chuyển động quanh trục của trái đát và hệ quả:
- Trái Đất tự quay quanh trục theo hướng từ Tây sang Đông.
Thời gian quay hết một vòng quanh trục của nó mất 24h, nên một ngày có 24 giờ.
- Tuy nhiên, Do hướng chuyển động của Trái Đất quanh Mặt
Trời trùng với hướng tự quay của Trái Đất nên một ngày đêm
theo Mặt Trời dài hơn khoảng thời gian thực mà Trái Đất tự
quay, Một ngày đêm thực dài 23 giờ 56 phút 4 giây.
- Mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất quay quanh Mặt Trời gọi là mặt phẳng Hoàng Đạo.
- Vòng tròn lớn nhất của Trái Đất nằm trong mặt phẳng vuông
góc với trục quay và phân chia Trái đất ra 2 nửa cầu là đường
xích đạo; Trục Trái đất nghiêng với mặt phẳng Hoàng đạo một
góc là 66 độ 33 phút, và nghiêng so với mặt phẳng quỹ đạo là 23 độ 27 phút.
- Vòng tròn lớn hoàng đạo và vòng tròn lớn xích đạo trên thiên
cầu cắt nhau tại 2 điểm đối nhau, gọi là các điểm phân (xuân
phân và thu phân). Khi Mặt Trời ở các điểm này ngày và đêm
đều dài 12 tiếng đồng hồ cho mọi nơi trên Trái Đất.
- Các mặt phẳng song song với xích đạo, cắt với bề mặt Trái Đất
thành những vòng tròn song song với xích đạo, được gọi là các
vĩ tuyến. Có 5 vĩ tuyến đặc biệt là Vòng bắc cực- Hạ chí Tuyến-
Xích đạo- Đông chí tuyến- Vòng Nam cực.- Kinh tuyến là một
nửa vòng tròn trên bề mặt Trái Đất, nối liền hai Địa cực,có độ
dài khoảng 20.000 km, chỉ hướng bắc-nam và cắt thẳng góc với
đường xích đạo. Mặt phẳng của kinh tuyến 0° (chạy qua đài
quan sát thiên văn tại Greenwich thuộc Luân Đôn) và kinh tuyến
180°, chia Trái Đất ra làm hai bán cầu – Bán cầu đông và Bán
cầu tây. Nếu giờ tại kinh tuyến gốc trong ngày là giữa trưa 12h,
thì tại Hà Nội là 19h tối, bên kia của địa cầu là thành phố New York là 7h sáng.
a. Hậu quả chu kì ngày đêm nhờ trái đất quay quanh trục của nó:
- Do trái đất quay xung quanh mặt trời và trái đất lại quay quanh
trục của nó với góc nghiêng so với mặt phẳng xích đạo là 23 độ
27 phút, do vậy luôn có nửa bán cầu trái đất được mặt trời chiếu
sáng là ban ngày và một nửa được mặt trời chiếu sáng là ban
đêm. Tuy nhiên do trục quay ngiêng và không đổi phương khi
chuyển động quay quanh mặt trời nên độ dài ngày đêm lại khác nhau theo mùa.
b. Hậu quả làm lệch hướng chuyển động
- Do hiện tượng tự quay quanh trục của Trái Đất nên tất cả các
vật thể chuyển động trên bề mặt Trái Đất theo hướng kinh tuyến
đều chịu sự lệch hướng, Lực làm các vật thể chuyển động lệch
hướng về bên phải hay bên trái đó được gọi là lực Côriôlit.
Ví dụ như, một vật chuyển động từ xích đạo lên cực bắc sẽ bị
lệnh sang phảitheo hướng từ tây sang đông…Do vậy, Lực
Côriôlít làm lệch hướng chuyển động của gió trên Trái đất.
2. Chuyển động quay của trái đất quang mặt trời:
Hướng chuyển động: Tây sang Đông, Quỹ đạo chuyển động:
Theo hình Elip, quá trình chuyển động trục Trái Đất luôn
nghiêng một góc 66033’’ so với quỹ đạo chuyển động. Thời
gian chuyển động hết một vòng: 365 ngày 6 giờ. Do vậy,thông
thường cứ một năm lại có 365 ngày, 4 năm liên tiếp sẽ có
một năm nhuận, có 366 ngày (tức là tháng 2 có 29 ngày, các
năm thông thường tháng 2 có 28 ngày).
a. Hệ quả chuyển động biểu kiến hàng năm của mặt trời:
- Là chuyển động không có thực của mặt trời, được sinh ra bởi
chuyển động tịnh tiến của trái đất quanh mặt trời.
- Mặt trời lên thiên đỉnh là ánh sáng chiếu của mặt trời vuông
góc với tiếp tuyến ở bề mặt trái đất. Do vậy, những vùng nội chí
tuyến trong 1 năm sẽ có 2 lần thiên đỉnh, tại hai chí tuyến (Bắc
và Nam) sẽ có một lần thiên đỉnh duynhất, Khu vực ngoại chí
tuyến không có thiên đỉnh.
b. Hệ quả mùa trong năm: là khoảng thời gian trong một năm có
những đặc điểm riêng về khí hậu và thời tiết.
- Nguyên nhân: Do trái đất quay xung quanh mặt trời theo quỹ
đạo Elip (thờigian và cường độ chiếu sáng thay đổi theo khoảng
cách và biến đổi tuần tự mùa), và trái đất tự quay quanh trục của
nó với góc nghiêng nên ( thời gian và cường độ chiếu sáng thay
đổi ở 2 bán cầu Bắc- Nam).
- Cụ thể: các màu bán cầu Bắc theo lịch dương: Xuân ( xuân
phân 21/03 đếnhạ chí 22/06), Hạ ( 22/06 đến thu phân 23/09),
Thu ( từ thu phân đến đông chí 22/12), ĐÔng ( từ Đống chí sang Xuân phân).
c. Hậu quả của ngày ngắn đêm dài khác nhau theo vĩ độ (i) Theo mùa: (ii) Theo vĩ độ:
III. Khái quát chung về các quyển của Trái đất (khái quát về
thạch quyển, khí quyển, thủy quyển, thổ quyển, sinh quyển và
mối quan hệ giữa các quyển);
- Trái Đất có cấu trúc phân quyển, gồm các quyển ngoài ( gồm
khí quyển, thủy quyển , sinh quyển và thổ quyển )và các quyển
trong ( thạch quyển là lớp vỏ trái đất có vỏ lục địa và vỏ đại
dương, đến lớp cùi Manti và nhân).
1. Thạch quyển: Thạch quyển hay còn gọi là quyển đá, vì vật
chất cấu tạo nên quyển này chủ yếu tồn tại ở t rạng thái cứng
(các loại đá), ít hơn là trầm tích chưatạo đá và vỏ phong hóa do phá hủy đá.
- Đặc trưng phân biệt của thạch quyển không phải là thành phần
của nó mà là cácthuộc tính về sự trôi dạt của nó. Dưới ảnh
hưởng của các ứng suất dài hạn vàcường độ thấp gây ra các
chuyển động kiến tạo địa tầng, thạch quyển phản ứng về
cơ bản như là lớp vỏ cứng, trong khi quyển astheno (quyển
mềm) có tác động nhưlà một lớp chất lỏng có độ nhớt nhẹ. Cả
lớp vỏ và tầng trên của lớp phủ trôi trên quyển mềm có "độ dẻo" cao hơn.
- Độ dày của thạch quyển dao động từ khoảng 1,6 km ở các sống
lưng giữa đại dương tới khoảng 130 km gần lớp vỏ đại dương
cổ. Độ dày của mảng thạch quyển lục địa là khoảng 150 km.
3. Thủy quyển: được mô tả như là khối lượng chung của nước
được tìm thấy dưới, trên bề mặt cũng như trong khí quyển của hành tinh.
- Trên Trái Đất, Vòng tuần hoàn nước là quá trình lưu chuyển
của nước trong thủy quyển. Nó bao gồm nước có dưới bề mặt
Trái Đất, trong các lớp đất, đá thạch quyển (tức nước ngầm),
nước trong cơ thể động vật và thực vật(sinh quyển), nước bao
phủ trên bề mặt Trái Đất trong các dạng lỏng và rắn,
cũng như nước trong khí quyển trong dạng hơi nước, các đám
mây và các dạng mưa, tuyết, mưa đá.
- Thủy quyển của Trái đất nằm giữa khí quyển và địa quyển. Nó
gồm có biển, hồ, sông, đầm, nước ngầm, lạch suối (dưới dạng
chất lỏng) và băng hà (dưới dạng chất rắn).
- Dưới ánh nắng Mặt trời, thủy quyển của Trái đất không ngừng
vận động tuần hoàn. Nước ở trên mặt đất bốc hơi thành hơi nước
trong khí quyển, hơi nước trong khí quyển với một điều kiện
thích hợp nào đó ngưng đọng lại thành nước mưa rơi xuống mặt
đất và biển. Nước trên mặt đất hội tụ lại thành suối, thành sông
chảy ra hồ, ra biển hoặc thấm xuống đất, qua các khe nứt của
các nham thạch trở thành nước ngầm, hoặc trực tiếp bốc hơi trở
lại khí quyển. Trong quá trình tuần hoàn nước, khí quyển là
công cụ vận chuyển chủ yếu của nước. Nhờ có tuần hoàn nước
trên Trái đất với quy mô lớn, không ngừng không nghỉ nên mới
làm cho mặt đất biến đổi thường xuyên, vạn vật sinh sôi nảy nở.
- Độ thấm của nước trong đất phụ thuộc vào kích thước hạt đất
có tạo được nhiều lỗ trống cho nước thấm qua không.
- Các đới nước dưới đất , giao động của thủy cấp và sự di
chuyển nước dưới đất.
- Hố tử thần và sự xâm nhập mặn, sự thu hẹp của nước ngầm do
con người khai thác quá mức.
- Hiện tượng sóng, hải lưu, thủy triều và El Nino và La nila.
4. Khí quyển: Khí quyển là một lớp khí bao bọc xung quanh bề
mặt Trái Đất, và nó được giữ lại bởi tác dụng của trọng lực. Khí
quyển có thể được giữ trong thời gian dài hơn nếu trọng lực lớn
và nhiệt độ khí quyển thấp.
Bầu khí quyển đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm sự sống trên Trái Đất. - Thành phần: - Cấu tao:
Bầu khí quyển được chia ra làm rất nhiều tầng. Mỗi tầng lại có
những đặc điểm rất khác nhau và đều có vai trò quan trọng đối
với sự sống trên trái đất. a. Tầng đối lưu
Chiếm 70% khối lượng khí quyền.
Độ cao: tùy thuộc vào vị trí địa lí, vĩ độ. Ví dụ như ở hai cực là 8km, còn ở xích đạo là 18km.
Thành phần chính: N2, O2, CO2, hơi nước.
Càng lên cao, nhiệt độ càng giảm. Cứ lên thêm 100m nhiệt độ lại giảm
0,6độ. Ở vị trí cao nhất, nhiệt độ xấp xỉ -56 độ C.
Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com
Có sự di chuyển liên tục của các khối khí đối lưu. Điều này khiến cho
thành phần khí của tầng đối lưu khá là ổn định, đồng thời tạo ra
nhiều hiện tượng thời tiết khác nhau.
=> Quyết định khí hậu trái đất.
Đỉnh tầng đối lưu sẽ bị phân tích dưới bức xạ tử ngoại và Hydro
tạo ra sẽ thoát ra ngoài không gian
Nhiệt độ rất thấp (-56 độ).
Bắt đầu có sự tăng nhiệt theo độ cao.
Do nhiệt độ rất thấp nên hơi nước sẽ bị ngưng tụ và đông đặc.
Điều này giúp cho hơi nước không bị thoát lên các tầng trên, bởi
nếu như vậy thì nướcgian.
Vì vậy điều này giúp cho đỉnh tầng đối lưu có vai trò như một tấm chắn hơi nước. b. Tầng bình lưu - 11-50km |
- Nhiệt độ tăng theo độ cao
- Ko khí loãng, ít bụi. Không khí di chuyển chiều ngang là chính - Thành phần chính là O3 11- 50 km.
Nhiệt độ tăng theo độ cao.
Không khí loãng, ít bụi và nước. Không khí di chuyển chiều ngang là chính. Thành phần chính: O
- Tầng ozon của trái đất nằm trong khoảng độ cao 20-30km từ
mặt nước biển, có vai trò làm lá chắn bảo vệ Trái Đất khỏi tác dụng của tia tử ngoại c. Tầng trung lưu - 50 đến 80-85km.
- Nhiệt độ giảm theo độ cao.
- Do không có tầng Ozon bảo vệ, các phân tử O2 và nito oxit bị
ảnh hưởng bởi tia tử ngoại tạo thành các gốc tự do O2+,NO+…
d. Tầng nhiệt lưu/ điện li - 80-85 đến 640 km.
- Nhiệt độ tăng theo độ cao
Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com
- Ảnh hưởng của bức xạ mặt trời khiến các phân tử bị tách ra
thành nhiều loại ion khác nhau. Vì vậy nên tầng này có tên là tầng điện li.
- Các sóng vô tuyến đến tầng này sẽ bị phản xạ trở lại bởi các
ion. Điều này được ứng dụng trong việc thu bắt sóng vô tuyến. e. Tầng ngoài - 500-1000 đến 10.000 km.
- Là vùng quá độ giữa khí quyển trái đất với khoảng không vũ trụ.
- Không khí rất loãng và nhiệt độ rất cao. Chú ý:
(i): Hiệu ứng nhà kính (CO2).
(ii): sự hình thành khí áp và gió (iii) Bão và áp thấp
IV. Hoạt động phong hóa (định nghĩa, các nhân tố ảnh hưởng,
các kiểu phong hóa và vỏ phong hóa);
1. Định nghĩa: Phong hóa là quá trình phá hủy đá, đất và các
khoáng vật chứa trong đó khi tiếp xúc trực tiếp với môi trường không khí.
- Phong hóa được chia thành hai loại chính: Phong hóa vật lý
( do thay đổi nhiệt độ, hoạt động đông giá, do tác động của động
vật, thực vật, tróc vỏ hóamòn) và Phong hóa hóa học ( do hoạt
động của nước, không khí, các phản ứng hòa tan, hidrat, Oxi hóa, thủy hợp…).
- Khoáng vật: khoáng vật là vật thể tự nhiên, vô cơ, rắn, đồng
nhất, có thành phần hoá học xác định nhưng không cố định, có
cấu trúc bên trong riêng biệtđược thể hiện qua hình thù và các
tính chất vật lý đặc trưng.
- Nguyên tử/ion → hợp chất → khoáng vật→ đá.
2. Nhân tố ảnh hưởng: Khí hậu và nhiệt độ, thạch học , tỷ lệ diện
tích bề mặt tiếp xúc và thời gian. 3. Các Kiểu phong hóa
a. Phong hóa vật lý: Phong hoá vật lý là sự vỡ vụn của các loại
đá thành các hạt cơ giới có kích thước khác nhau nhưng chưa có
sự thay đổi về thành phần khoáng vật, thành phần hoá học của các đá ban đầu.
- Nguyên nhân gây nên việc phá vỡ khoáng vật và đá là do sự
thay đổi của nhiệt độ, áp suất và sự tác động của các hoạt động
địa chất ngoại lực như nước chảy, gió thổi xảy ra trên bề mặt vỏ Trái Ðất.
Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com
- Sự thay đổi nhiệt độ làm cho các khoáng vật có trong đá bị
giãn nở không đều dẫn đến kết quả đá bị vỡ ra. Các khoáng vật
khác nhau có hệ số giãn nở rất khác nhau. Một loại đá được cấu
tạo bởi nhiều khoáng vật khác nhau, do đó nhiệt độ thay đổi các
khoáng vật co giãn không giống nhau làm đá bị vỡ vụn. Như
vậy thành phần khoáng vật của đá càng nhiều thì đá càng dễ bị
vỡ vụn. Những đá cấu tạo bởi một loại khoáng vật (đá đơn
khoáng) cũng bị vỡ do hệ số nở dài theo các phương khác nhau.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm, giữa các mùa trong
năm càng lớn thì phong hoá vật lý diễn ra càng mạnh. Ví dụ,
vùng sa mạc thường có sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày
và đêm lớn nên vào ban đêm có thể nghe được tiếng nổ vỡ của
đá trong vùng. Trong đá thường có các lỗ hổng và các vết nứt
nguyên sinh chứa đầy khí hay nước. Khi nhiệt độ xuống thấp
dưới OoC, nước ở thể lỏng chuyển thành thể rắn (nước đóng
băng) làm tăng thể tích tạo áp suất lớn có khi tới hàng ngàn
atmôtphe lên thành khe nứt làm cho đá bị vỡ ra. Các mảnh
vụn sinh ra có thể di chuyển đi nơi khác theo dòng nước chảy
hoặc gió thổi sẽ phá huỷ các đá trên đường di chuyển của chúng.
Phong hoá vật lý có tính chất tiên phong, tạo điều kiện thuận lợi
cho phong hoá hoá học và sinh học.
b. Phong hoá hoá học : Do sự tác động của H2O, O2, CO2 các
khoáng vật và đá bị phá huỷ, thay đổi về hình học. Có thể nói,
phong hoá hoá học chính là các phản ứng hoá học diễn ra do sự
tác động của H2O, O2, CO2 lên đá và khoáng vật.
Phong hoá hoá học được chia thành 4 quá trình chính là: Ôxy
hoá, hyđrat hoá, hoà tan và sét hoá.
+ Quá trình ôxy hoá: Quá trình này phụ thuộc chặt chẽ vào sự
xâm nhập của O2 tự do trong không khí và O2 hoà tan trong
nước. Quá trình ôxy hoá làm cho khoáng vật và đá bị biến đổi,
bị thay đổi về thành phần hoá học.
Ví dụ: Khoáng vật pyrít bị ô xy hoá và biến đổi như sau:
FeS2 + 7O2 + 2 H2O →2 FeSO4 + 2 H2SO4
12 FeSO4 + 3O2 + 6 H2O = →4 Fe2(SO4)3 + 4 Fe(OH)3
Quá trình ôxy hoá diễn ra rất mạnh với hầu hết các nguyên tố
hoá học có trong khoáng vật và đá, đặc biệt là các nguyên tố hoá trị cao, ví dụ Mangan.
+ Quá trình hyđrát hoá: Là quá trình nước tham gia vào mạng
lưới tinh thể của khoáng vật, thực chất đây là quá trình nước kết
hợp với khoáng vật làm thay đổi thành phần hoá học của khoáng vật. Ví dụ: CaSO4 >CaSO4.2H2O Anhyđri Thạch cao Fe2O3 >Fe2O3.nH2O
Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com Hêmatít Limonit
+ Quá trình hoà tan: Là quá trình các khoáng vật và đá bị hoà tan trong nước.
Hầu như tất cả các khoáng vật và bị hoà tan trong nước, nhưng
mạnh nhất là đá các khoáng vật của lớp cácbônát và lớp muối mỏ.
Ví dụ: CaCO3 (đá vôi) bị hoà tan như sau:
CaCO3 + H2O + CO2 > Ca(HCO3)2
Các khoáng vật và đá bị hoà tan tạo thành các dung dịch thật.
+ Quá trình sét hoá: Các khoáng vật silicat, nhôm silicat do tác
động của H2O, CO2 sẽ bị biến đổi tạo thành các khoáng sét (keo
sét). Các chất kiềm và kiềm thổ trong khoáng vật bị H+ chiếm
chỗ trong mạng lưới tinh thể được tách ra dưới dạng hoà tan.
Như vậy thực chất của quá trình sét hoá là các quá trình hoà tan,
hyđrát hoá chuyển các khoáng vật silicát, nhôm silicat thành các
khoáng vật thứ sinh, các muối và oxýt.
Ví dụ: K2Al2Si6O16 + H2O + CO2 > H2Al2Si2O8.2H2O + K2CO3+SiO2.nH2O
Fenspatkal(orthoclaz) Kaolini Ôpan
c. Phong hoá sinh học:Hoạt động của sinh vật bậc thấp, bậc cao cũng tham gia
phá huỷ các khoáng vật và đá. Rễ cây xuyên vào các khe nứt hút
nước và các chấtkhoáng, theo thời gian, rễ to dần phá vỡ đá. Mặt
khác rễ cây tiế tH2O và CO2 tạo H2CO3 để hoà tan đá và
khoáng vật. Khi chết xác sinh vật bị phân huỷ sinh ra các axit
hữu cơ góp phần hoà phong hoá sinh học là phong hoá vật lý và
hoá học do sự tác động của sinh vật lên khoáng vật và đá. Cũng
trong quá trình này mẫu chất được tích luỹ chất hữu cơ do xác
sinh vật để lại sau khi chết, làm cho mẫu chấtxuất hiện những
thuộc tính mới được gọi chung là độ phì và mẫu chất biến
đổithành đất. Nhà khoa học nổi tiếng người Nga Vecnatxki cho
rằng: "Hoạt động hoáhọc của vỏ Trái Ðất, gần 99% có liên quan
tới quá trình sinh hoá học".
Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com
- Con người cũng tác động mạnh mẽ quá trình phong hóa, như
hoạt động khai thác khoáng sản, hoạt động nông nghiệp, du lịch,
công nghiệp… tác động gián tiếp gây ra biến đổi khí hậu dẫn
đến gia tăng các tác động vật lý, hóa học đến quá trình phong hóa.
4. Sản phẩm phong hoá, vỏ phong hoá
a. Sản phẩm và vỏ phong hoá
+ Sản phẩm phong hoá: Các sản phẩm phong hoá là kết quả của
quá trình phá huỷ các khoáng vật và đá, do vậy chúng rất phong phú và đa dạng.
Phong hoá vật lý tạo thành các hạt vô cơ có kích thước khác nhau.
Phong hoá hoá học tạothành các hợp chất dễ tan, oxyt, Hydrôxit và các loại keo sét.
Phong hoá sinh vật ngoài sự tạo thành các sản phẩm trên còn
tạo sự tích luỹ chất hữu cơ trong mẫu chất.
+ Vỏ phong hoá: các loại sản phẩm phong hoá tích đọng lại tạo
thành vỏ phong hoá. Vỏ phong hoá là lớp vật chất nằm ở phía
ngoài cùng của vỏ Trái Ðất.
Sản phẩm phong hoá biến đổi tạo thành mẫu chất, mẫu chất chịu
tác động sâu sắc của sinh vật dần dần trở thành đất. b. Các loại vỏ phong hoá
Căn cứ vào quá trình tích luỹ, thành phần và tính chất, vỏ phong
hoá được chia thành vỏ phong hoá tại chỗ và vỏ phong hoá trầm tích. + Vỏ phong hoá tại chỗ:
Các sản phẩm phong hoá tích luỹ ngay trên đá gốc (đá mẹ) tạo
thành vỏ phong hoá tại chỗ. Vỏ phong hoá tại chỗ có các loại sau:
- Vỏ phong hoá vụn thô: các mảnh vụn cơ học có kích thước lớn
tích luỹ ngay trên đá gốc, gặp ở vùng xói mòn mạch.
- Vỏ phong hoá Feralit: phổ biến ở vùng ôn đới có khí hậu ôn
hoà. Hầu hết khoáng vật silicát, nhôm silicát đều hoá sét, các
muối dễ tan của các chất kiềm và kiềm đất có rất ít do bị rửa trôi
mạnh. Các khoáng vật nguyên sinh còn lại đều làkhoáng vật bền
vững như thạch anh - SiO2.
- Vỏ phong hoá alít: Phổ biến ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, phong hoácom
diễn ra mạnh, khoáng vật nguyên sinh gặp phổ biến là thạch anh,
thành phần chính là các hợp chất của nhôm. + Vỏ phong hoá trầm tích
Sản phẩm phong hoá di chuyển theo dòng nước chảy hay cuốn
theo gió thổi, được tích luỹ lại khi gặp các điều kiện thuận lợi
tạo thành vỏ phong hoá trầm tích.
Vỏ phong hoá trầm tích có các loại sau:
- Vỏ phong hoá trầm tích Sialit: chủ yếu là sét, các keo sét,
ngoài ra còn có limon cát. Khoáng vật nguyên sinh có thạch anh, Fenspat.
- Vỏ phong hoá cacbonat - Sialit: Thành phần giống vỏ phong
hoá trầm tích Sialit nhưng có chứa một lượng CaCO3 nhất định.
- Vỏ phong hoá Clorua, Sunphát, Cacbonát - Sialit: Thành phần
giống 2 loại vỏ phong hoá trầm tích Sialít, Cacbonat - Sialít và
có chứa thêm các muối Clorua Sunphát của các chất kiềm và kiềm đất.
Theo viện sĩ Pôlưnốp có 3 loại mẫu chất là tàn tích (êluvi), sườn
tích(đêluvi) và phù sa (aluvia). Tàn tích là sản phẩm phong hoá
tích đọng tại chỗ ngay trên đá gốc, thường bị rửa trôi và xói mòn
mạnh. Sườn tích là sản phẩm phong hoá bị cuốn trôi từ trên đỉnh
đồi, đỉnh núi xuống tích tụ ở sườn hay chân đồi, núi.
Do vậy sườn tích còn gọi là sản phẩm dốc tụ. Phù sa là sản
phẩm tích đọng từ các sản phẩm được cuốn trôi do dòng nước
chảy, thành phần phù sa phức tạp và khác xa so với đá gốc.
+ Vỏ phong hoá ở Việt Nam
Theo V.M.Fritland, Việt Nam có các loại vỏ phong hoá sau:
- Vỏ phong hoá Feralit: Phổ biến ở vùng trung du và núi thấp,
các khoáng vật thứ sinh chủ yếu là Kaolinit, gipxit, gơtit. Trên
vỏ phong hoá này hình thành nên nhóm đất Feralit - đất đỏ vàng ở nước ta.
- Vỏ phong hoá alit: gặp ở vùng núi cao từ 1700m trở lên, điển
hình nhất là ở độ cao > 2000m. Khí hậu ẩm ướt, sắt bị rửa trôi
mạnh nhưng nhôm được tích luỹ do không bị rửa trôi như sắt.
- Vỏ phong hoá Macgalit - Feralit: Gặp ở Phủ Quỳ Nghệ An trên đá bọt bazan
- Vỏ phong hoá trầm tích Sialit: Gặp ở các vùng đồng bằng tạo
bởi quá trình lắng đọng phù sa của hệ thống sông ngòi nước ta.
Thành phần là các loại keo sét, ngoài ra còn gặp các khoáng vật
nguyên sinh như Thạch anh, Fenspat, Mica.
Vùng ven biển còn gặp vỏ phong hoá Clorua, Sunphát - Sialit.
V.Vai trò của đá gốc (thành phần: độ hạt, hóa học, sinh học đối
với đá trầm tích và biến chất; thành phần hóa học đối với các đá
magma) đối với quá trình hình thành vỏ phong hóa.
- Các đá lộ ra ở phía ngoài cùng của vỏ Trái Ðất bị phong hoá
liên tục cho ra các sản phẩm phong hoá và tạo thành mẫu chất.
Ðược sự tác động của sinh vật, mẫu chất biến dổi dần dần để tạo
thành đất. Thành phần khoáng vật, thành phần hoá học của đá
quuyết định thành phần mẫu chất và đất. Ðá bị phá huỷ để
tạo thành đất được gọi là đá mẹ (đá gốc).
- Ðá mẹ là cơ sở vật chất ban đầu và cũng là cơ sở vật chất chủ
yếu trong sự hình thành đất. Các loại đá mẹ khác nhau có thành
phần khoáng vật và hoá học khác nhau, do vậy trên các loại đá
mẹ khác nhau hình thành nên các loại đất khác nhau. Ví dụ:
- Ðất hình thành trên đá mẹ là granít có độ dầy tầng đất từ mỏng
đến trung bình, thành phần cơ giới nhẹ và nghèo các chất dinh dưỡng.
- Ðất hình thành trên đá mẹ là bazan có tầng đất đất rất dầy,
thành phần cơ giới nặng và chứa nhiều các chất dinh dưỡng.
Trong việc nghiên cứu, phân loại đất vùng đồi núi Việt Nam
chúng ta thường dựa vào cơ sở đầu tiên là đá mẹ.
Về mẫu chất, cần phân biệt rõ 2 loại: mẫu chất tại chỗ và mẫu
chất phù sa. Mẫu chất tại chỗ hình thành ngay trên đá mẹ, có
thành phần và tính chất giống đámẹ. Mẫu chất phù sa được lắng
đọng từ vật liệu phù sa của hệ thống sông ngòi nên có thành
phần rất phức tạp. Ngoài ra ở vùng đồi núi còn gặp mẫu chất dốc
tụ. Sự phân biệt giữa mẫu chất và đất có tính chất tương đối,
nhiều trường hợprất khó phân biệt. Mẫu chất phù sa ở Việt Nam
thực chất là nhóm đất phù sa có nhiều tính chất tốt của nước ta.
Khi chưa có sự sống xuất hiện trên Trái Ðất, quá trình phá huỷ
đá mẹ diễn ratheo chu trình:
phá huỷ biến đổi Ðá → mẫu chất → Ðất
1. Đặc điểm đá trầm tích trong quá trình phong hóa: (…) VI.
1. Sự phân bố biển và đại dương:
- Đại dương là một vùng lớn chứa nước mặn tạo thành thành
phần cơ bản của thủy quyển. Khoảng 71% diện tích bề mặt Trái
Đất (khoảng 361 triệu kilômét vuông)được các đại dương che
phủ, một khối nước liên tục theo tập quán được chia thành
một vài đại dương chủ chốt và một số các biển nhỏ.
- Độ mặn trung bình của đại dương là khoảng 35 phần ngàn
(ppt) (3,5%) và gần như mọi loại nước biển có độ mặn dao động
trong khoảng từ 30 (ở vùng cận cực) tới 38 ppt (vùng nhiệt đới/cận nhiệt đới).
- Nhiệt độ nước bề mặt ở ngoài khơi là 29 °C (84 °F) ở vùng ven
xích đạo xuống đến 0 °C (32 °F) ở các vùng địa cực.
- Có 5 đại dương trên thế giới, trong đó Thái Bình Dương là lớn
nhất và sâu nhất,thứ hai về diện tích và độ sâu là Đại Tây
Dương, tiếp theo là Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương còn nhỏ và
nông nhất là Bắc Băng Dương. Ngoài ra, Các khu vực nhỏ
hơn của đại dương được gọi là các biển, vịnh hay một số các tên
gọi khác. Cũng tồn tại một số khối nước mặn nhỏ hơn trong đất
liền và không nối với Đại dương thế giới, như biển Aral, Great
Salt Lake (Hồ Muối Lớn) – mặc dù chúng có thể coi như là các
'biển', nhưng thực ra chúng là các hồ nước mặn.
- Mực nước càng sâu, nhiệt độ càng giảm và áp lực nước càng tăng.
2. Điều kiện hải văn (sóng, dòng hải lưu, thủy triều) a. Sóng:
- Sóng biển là các sóng bề mặt xuất hiện tại tầng trên cùng của biển hay đại dương.
Chúng thường được tạo ra do tác dụng của gió, nhưng đôi khi
cũng do các hoạt động địa chấn, và có thể lan truyền hàng nghìn
kilômét. Độ cao của sóng có thể chỉ nhỏ cỡ chục xentimét nhưng
cũng có thể lớn tới cỡ sóng thần. Các phân tử nước biển tham
gia vào chuyển động sóng chỉ xoay vòng tại chỗ và có ít chuyển
động tịnh tiến theo hướng lan truyền của sóng; tuy rằng một
lượng năng lượng lớn có thể được lan truyền theo sóng.
b. Hải lưu: Dòng hải lưu là chuyển động trực tiếp, liên tục và
tương đối ổn định của nước biển và lưu thông ở một trong các
đại dương của Trái Đất.
- Chúng là rất quan trọng trong việc xác định khí hậu của các lục
địa, đặc biệt ở những khu vực gần biển. Ví dụ nổi bật nhất là
dòng Vịnh (còn gọi là hải lưu Gulf Stream từ tiếng Anh Gulf
Stream), dòng hải lưu này làm cho phần tây bắc châu Âu
có nhiệt độ cao hơn bất kỳ khu vực nào có cùng vĩ độ. Một ví dụ
khác là quần đảo Hawaii, ở đó khí hậu có tính cận nhiệt đới và
mát hơn đáng kể so với các khu vực có cùng vĩ độ nhiệt đới với
nó do dòng hải lưu California gây ra.