Đề cương ôn tập Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam 2021 - 2022 | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Đề cương ôn tập Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam 2021 - 2022 | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

Môn:

Lịch sử Đảng 92 tài liệu

Trường:

Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu

Thông tin:
26 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương ôn tập Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam 2021 - 2022 | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Đề cương ôn tập Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam 2021 - 2022 | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

151 76 lượt tải Tải xuống
ĐỀ CƯƠNG CHI TIÊT
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1. Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSV
Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp từng bước
thiết lập bộ máy thống trị đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng. Trong bối cảnh đó, nhiều
phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều thất bại. Việt Nam rơi vào tình
trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước “tưởng chừng như không có lối ra”.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến Nhà Rồng sang các nước phương Tây
tìm đường cứu nước. Đến tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến phát khóc” vì tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc. Tháng 12/1920, Người gia nhập Quốc tế cộng sản,
tham gia xã hội Đảng Cộng Sản Pháp. Từ một người yêu nước Nguyễn Ái Quốc trở thành
một chiến sĩ cộng sản hoạt động xuất sắc cách mạng cộng sản Quốc tế. Từ đây, cách
mạng Việt Nam đã chính thức tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn để đi.
Từ khi trở thành chiếncộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động chuẩn
bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
a. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã viết
gửi sách báo, tài liệu về Việt Nam như: báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn, tác phẩm
Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh,… để truyềnchủ nghĩa Mác Lê-nin
chỉ con đường cách mạng nhân dân ta cần đi theo. Các tác phẩm, bài viết của
Người từ năm 1921 đến năm 1927 toát lên những quan điểm sau:
Một là, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản.
Hai là, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc
địa.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộcmột bộ phận cách mạng của thời đại-cách
mạng vô sản. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc
giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.
Bốn , cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địamối liên hệ khăng
khít với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa không những không
phụ thuộc vào cách mạng chính quốc còn tính chủ động, sáng tạo, thể giành
thắng lợi trước và góp phần thúc đẩy làm cho cách mạng ở chính quốc tiến lên.
Năm là, tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng thuộc địa là tiến hành
giải phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn những người lao động, giải
phóng con người.
Sáu , cách mạng sự nghiệp của quần chúng, nên quần chúng phải được tổ
chức thành đội ngũ, được biết về tính thế cách mạng.
Bảy là, lực lượng cách mạng là toàn thể dân chúng, những người thiết tha với độc
lập dân tộc, trong đó công nông lực lượng chính, song giai cấp công nhân phải đóng
vài trò lãnh đạo.
Tám , cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng,
không thỏa hiệp.
Chín , cách mạng phải Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
làm sở cho đường lối cách mạng, phải vững bền về tổ chức. Đảng phải gắn mật
thiết với quần chúng nhân dân.
Mười là, cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng quốc tế, nên Cách mạng
Việt Nam phải liên hệ, tranh thủ sự giúp đỡ từ cách mạng thế giới nhưng đồng thời phải
đề cao tính tự lực tự cường….
Những quan điểm này được truyền vào Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ
XX, nhanh chóng trở thành ngọn cờ hướng đạo dẫn dắt phong trào yêu nước ở Việt Nam
phát triển theo con đường cách mạng vô sản.
b. Sự chuẩn bị về tổ chức
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
với lực lượng nòng cốt Cộng sản Đoàn cơ quan ngôn luận của tổ chức tờ Tuần
báo Thanh niên. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã truyền bá lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lê-nin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước gây dựng sở cách
mạng trong nước. Bên cạnh đó, Hội đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ và gửi
các thanh niên ưu tú đi học tại nước ngoài nhằm đào tạo cán bộ cách mạng.
Đồng thời, Hội thực hiện chủ trường “vô sản hóa”, đưa các cán bộ hội viên vào
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân,
giác ngộ họ, dấn dắt họ đến con đường đấu tranh; để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê-nin và
luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt
Nam.
Đến năm 1929, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời, đó là: Đông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đản, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Song sự tồn tại của
ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo.
Từ ngày 6/1 đến 7/2/1930, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị
hợp nhất các tổ chức Cộng sản đã diễn ra tại Hương Cảng, Trung Quốc.
Câu 2. Nội dung bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng? So sánh Cương lĩnh với Luận cương chính trị tháng 10/1930?
Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930 đã thông qua , Chính cương vắn tắt Sách
lược vắn tắt Chương trình tóm tắt do Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp
thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh.
a. Nội dung cơ bản:
Xác định của cách mạng Việt Nam "làm sảnphương hướng chiến lược
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Xác định những :nhiệm vụ cụ thể của cách mạng
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh tổ chức quân
đội công nông.
Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính
phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công chia cho dân
cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành
luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông
giáo dục theo hướng công nông hoá.
Xác định Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp lực lượng cách mạng,
công nhân, nông dân phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách
mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối
với phú nông, trung tiểu địa chủ và bản An Nam chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Lãnh giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. "Đảngđạo cách mạng
đội tiền phong của sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".
Cách mạng Việt Nam một bộ phận của cách mạng thế giới, phải "liên kết với
những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản
Pháp".
b. Ý nghĩa của Cương lĩnh:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng
đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại mới, đáp ứngu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai
cấp thấm đượm tinh thần dân tộc độc lập tự do, tiến hành cách mạng sản dân
quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh
này.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời
Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt
Nam. Đó một đặc điểm đồng thời một ưu điểm của Đảng, làm cho Đảng trở
thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa
nhận đội tiền phong của mình, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm trí tuệ
của dân tộc.
c. So sánh Cương lĩnh tháng 2/1930 và Luận cương tháng 10/1930
Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược
cách mạng. Nội dung của Luận cương cơ bản thống nhất với nội dung được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930. Tuy nhiên, Luạn cương đã không nêu mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân
tộc mà nặng về đấu tranh giai cấpcách mạng ruộng đất; không đề ra được một chiến
lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược
và tay sai.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách
mạng thuộc địa chịu ảnh hưởng của tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu
tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế cộng sản một số Đảng cộng sản trong thời
gian đó.
Câu 3. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) của Đảng Cộng sản Đông Dương?
Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941, Người triệu tập chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ở lán Khuổi Nặm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Tham gia Hội nghị có các đồng
chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt cùng một số đại
biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ đại biểu tổ chức Đảng hoạt động nước ngoài.
Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
Xét về tính chất và quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 như một Đại hội toàn
quốc của Đảng. Nghị quyết Trung ương đã vạch ra những chiến lược căn bản cho con
đường cách mạng Việt Nam với những nội dung quan trọng.
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp Nhật bởi dưới
hai tầng áp bức Nhật – Pháp, quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc
nguy vọng không lúc nào bằng.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương phải thay đổi chiến lược đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho
dân cày nghèo, chia lị ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Thứ ba, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, thi hành chính sách dân tộc tự quyết; sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật, các dân tộc
trên cõi Đông Dương sẽ tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng tành
lập một quốc gia tùy ý. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập mỗi nước
Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba
dân tộc chống kẻ thù chung.
Thứ , tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân
cày, phú nông, địa chủ, bản bản xứ, ai lòng yêu nước thương nòi đều thể cùng
nhau tham gia vào mặt trận Việt Minh cứu nước, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước của chung cả toàn
thể dân tộc.
Thứ sáu, Hội nghị xác định khởi nghĩa trang nhiệm vụ trung tâm của Đảng
nhân dân để khi thời đến, với lực lượng sẵn có, ta thể lãnh đạo một cuộc khởi
nghĩa từng phần trong từng địa phương tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
toàn quốc.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 sự thay đổi chiến lược cách mạng của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan
hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể của nước
ta, chính là sự hoàn chỉnh nội dung các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và
7 trước đó. Sự thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo của Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với bối
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, thực chất là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường của cách mạng Việt Nam đã được nêu ra trong Chánh cương, Sách lược vắn
tắt từ đầu năm 1930. Như vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã mở đường cho Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đi đến thắng lợi hoàn toàn ở Việt Nam.
Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử,nội dung ý nghĩa chủ trương "Kháng chiến
Kiến quốc” ngày 25/11/1945 của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương?
a, Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau CM T8/1945
Về thuận lợi: chính quyền giành được trong toàn quốc, nhân dân phấn khởi xây
dựng cuộc sống mới; người dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước; uy
tín của Đảng và Chủ tịch HCM được khẳng định với nhân dân Việt Nam.
Về khó khăn: ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra, hơn 20 vạn quân Tưởng vào Việt
Nam với danh nghĩa đồng minh tước vũ khí của Nhật, thực chất muốn lật đổ chính quyền
cách mạng non trẻ. miền Nam, hơn 1 vạn quân Anh vào tước vũ khí của Nhật nhưng
thực chất giúp Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Trên thực tế, ngày 23/9/1945, quân
Pháp đã nổ sũng Nam Bộ, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Trong khi đó, quân Nhật còn chiếm đóng nhiều nơi chờ quân đồng minh vào tước
khí; nhiều tổ chức đảng phái phản động ra sức chống phá Cách mạng.
Nạn đói xảy ra từ cuối năm 1944 làm hơn 2 triệu người chết, thiên tai khắc nghiệt
dẫn đến nguy1 nạn đói mới. Tài chính kiệt quệ, ngân sách trống rỗng. Hơn 90% dân
số mù chữ, các tệ nạn xã hội tràn lan. Chính quyền cách mạng mới ra đời chưa được nước
nào công nhận.
Có thể nói, sau cách mạng tháng Tám, chính quyền non trẻ đứng trước nhiều khó
khăn thử thách cùng lớn, vận mệnh của dân tộc trong tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”. Hai khả năng đặt ra: mất chính quyền phải quay trở lại cuộc sống nô lệ hoặc có thế
xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
b) Nội dung chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”
Thuận lợi hết sức bản, khó khăn to lớn, chồng chất nhưng thể khắc phục
được. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã họp đề ra những chủ trương và biện pháp
nhằm xủng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Nội dung cụ thể được thông qua chỉ thị
“Kháng chiến – Kiến quốc” ngày 25/11/1945.
Nội dung Chỉ thị:
Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, tiếp tục sự nghiệp cách mạng Tháng 8/1945. Sự nghiệp này chưa hoàn thành
nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Đề ra khẩu hiệu Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết.
Về xác định kẻ thù, chỉ thị chỉ rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp, cần tập trung mũi
nhọn vào chúng Pháp đã thống trị Việt Nam hơn 80 năm; Pháp được quân Anh giúp
sức; Pháp không từ bỏ tâm xâm lược nước ta trên thực tế đã nổ súng xâm lược
Nam Bộ.
Đối với các tổ chức Đảng phái phản động, chỉ thị đánh giá thái độ đề ra đối
sách phù hợp.
Về phương hướng, nhiệm vụ, chỉ thị xác định 4 nhiệm vụ bản trước mắt là:
củng cố chính quyền; chống thực dân Pháp Nam Bộ; bài trừ nội phản; cải thiện đời
sống nhân dân.
Về ngoại giao, kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, với Tưởng thực hiện khẩu
hiệu “Hoa Việt thân thiện”, với Pháp thực hiên “độc lập về chính trị, nhân nhượng về
kinh tế”.
Chỉ thị đề ra các biện pháp cụ thể:
Về chính trị, củng cố chính quyền cách mạng; xúc tiến cho tổng tuyển cử bầu
Quốc hội, lập chính phủ chính thức; xây dựng hiến pháp của nước Việt Nam mới.
Về kinh tế, diệt giặc đói bằng cách tăng gia sản xuất, nhường cơm sẻ áo, lành
đùm lá rách; Phát động “tuần lễ vàng”, ủng hộ “quỹ độc lập”.
Về văn hóa, diệt giặc dốt, bài trừ văn hóa ngu dân, xóa nạn mù chữ, xây dựng nền
văn hóa mới.
Về quân sự, động viên toàn dân tham gia kháng chiến.
Về ngoại giao, cứng rắn về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược.
c, Ý nghĩa của chỉ thị
Những quan điểm chủ trương, biện pháp được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị
Kháng chiến Kiến quốc đã giải đáp trúng những vấn đề bản cấp bách của cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ, tác dụng định hướng tưởng, soi sáng con đường xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy khó khăn và phức tạp.
Thể hiện một quy luật của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng 8/1945
xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Đó cũng chính là quy luật dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
Câu 5: Nguyên nhân bùng nổnội dung đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1946-1954?
a. Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến:
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã có những hành động
trắng trợn, vi phạm các điều đã kết với chính phủ ta tại hiệp định bộ (6//19463),
Tạm ước (14/9/1946). Sau khi được đưa quân ra miền Bắc, thục dân Pháp đã những
hành động như: đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, gây xung đột trang với lực lượng
tự vệ ở Hà Nội.
Mặc chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, đến lúc chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, để bảo vệ
nền độc lập dân tộc của mình, đêm ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng
nổ.
b. Nội dung đường lối toàn quốc kháng chiến:
Được thể hiện tập trung trong 3 văn kiện: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
chủ tịch Hồ Chí Minh; Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng; tác phẩm
“Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh.
Nội dung đường lối kháng chiến:
Xác định mục tiêu của cuộc kháng chiến đánh bại thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập, tự do, thống nhất hoàn toàn cho đất nước.
Xác định tính chất của cuộc kháng chiến: là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc
lập, dân chủ và hòa bình nên cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ
mới, là cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân: bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc, bất kỳ người già người trẻ, hễ người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp”, thực hiện mỗi người dân một chiến đánh giặc, mỗi đường phố làng mạc trở
thành pháo đài.
Kháng chiến toàn diện: tức đánh giặc trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị,
văn hóa, quân sự, ngoại giao.
+ Kinh tế: thực hiện xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, công nghiệp quốc phòng.
+ Chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết với nhân dân yêu chuộng tự do
hòa bình trên thế giới.
+ Quân sự: thực hiện trang toàn dân, xây dựng lực lượng trang nhân dân,
tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai. Thực hiện du kích chiến, tiến lên vận động
chiến, đánh chính quy.
+ Văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ
mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng’
+ Ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực, sẵn sàng đàm phán
nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài: chống âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp để có thời
gian phát huy ưu thế mạnh của ta như: thiên thời địa lợi nhân hòa, lâu dài để chuyển hóa
tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch đánh thắng
địch.
Dựa vào sức mình là chính: tự cấp, tự túc về mọi mặt vì ta bị bao vây tứ phía, chưa
được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào điều kiện sẽ tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước, xong lúc đó cũng không được ỷ lại.
| 1/26

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG CHI TIÊT
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1. Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSV
Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp từng bước
thiết lập bộ máy thống trị đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng. Trong bối cảnh đó, nhiều
phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều thất bại. Việt Nam rơi vào tình
trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước “tưởng chừng như không có lối ra”.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến Nhà Rồng sang các nước phương Tây
tìm đường cứu nước. Đến tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến phát khóc” vì tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc. Tháng 12/1920, Người gia nhập Quốc tế cộng sản,
tham gia xã hội Đảng Cộng Sản Pháp. Từ một người yêu nước Nguyễn Ái Quốc trở thành
một chiến sĩ cộng sản và hoạt động xuất sắc cách mạng cộng sản Quốc tế. Từ đây, cách
mạng Việt Nam đã chính thức tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn để đi.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động chuẩn
bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
a. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã viết và
gửi sách báo, tài liệu về Việt Nam như: báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn, tác phẩm
Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh,… để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin
và chỉ rõ con đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi theo. Các tác phẩm, bài viết của
Người từ năm 1921 đến năm 1927 toát lên những quan điểm sau:
Một là, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản.
Hai là, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại-cách
mạng vô sản. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc
giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối liên hệ khăng
khít với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa không những không
phụ thuộc vào cách mạng chính quốc mà còn có tính chủ động, sáng tạo, có thể giành
thắng lợi trước và góp phần thúc đẩy làm cho cách mạng ở chính quốc tiến lên.
Năm là, tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành
giải phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn những người lao động, giải phóng con người.
Sáu là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nên quần chúng phải được tổ
chức thành đội ngũ, được biết về tính thế cách mạng.
Bảy là, lực lượng cách mạng là toàn thể dân chúng, những người thiết tha với độc
lập dân tộc, trong đó công nông là lực lượng chính, song giai cấp công nhân phải đóng vài trò lãnh đạo.
Tám là, cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng, không thỏa hiệp.
Chín là, cách mạng phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
làm cơ sở cho đường lối cách mạng, phải vững bền về tổ chức. Đảng phải gắn bó mật
thiết với quần chúng nhân dân.
Mười là, cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng quốc tế, nên Cách mạng
Việt Nam phải liên hệ, tranh thủ sự giúp đỡ từ cách mạng thế giới nhưng đồng thời phải
đề cao tính tự lực tự cường….
Những quan điểm này được truyền vào Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ
XX, nhanh chóng trở thành ngọn cờ hướng đạo dẫn dắt phong trào yêu nước ở Việt Nam
phát triển theo con đường cách mạng vô sản.
b. Sự chuẩn bị về tổ chức
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
với lực lượng nòng cốt là Cộng sản Đoàn và cơ quan ngôn luận của tổ chức là tờ Tuần
báo Thanh niên. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã truyền bá lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lê-nin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước và gây dựng cơ sở cách
mạng trong nước. Bên cạnh đó, Hội đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ và gửi
các thanh niên ưu tú đi học tại nước ngoài nhằm đào tạo cán bộ cách mạng.
Đồng thời, Hội thực hiện chủ trường “vô sản hóa”, đưa các cán bộ hội viên vào
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân,
giác ngộ họ, dấn dắt họ đến con đường đấu tranh; để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê-nin và
lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Đến năm 1929, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời, đó là: Đông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đản, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Song sự tồn tại của
ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo.
Từ ngày 6/1 đến 7/2/1930, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị
hợp nhất các tổ chức Cộng sản đã diễn ra tại Hương Cảng, Trung Quốc.
Câu 2. Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng? So sánh Cương lĩnh với Luận cương chính trị tháng 10/1930?
Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930 đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắtChương trình tóm tắt do Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp
thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh. a. Nội dung cơ bản:
Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính
phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân
cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông
giáo dục theo hướng công nông hoá.
Xác định lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp
công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách
mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối
với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. "Đảng là
đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải "liên kết với
những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp".
b. Ý nghĩa của Cương lĩnh:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng
đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai
cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân
quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời
Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt
Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng, làm cho Đảng trở
thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa
nhận là đội tiền phong của mình, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm và trí tuệ của dân tộc.
c. So sánh Cương lĩnh tháng 2/1930 và Luận cương tháng 10/1930
Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược
cách mạng. Nội dung của Luận cương cơ bản thống nhất với nội dung được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930. Tuy nhiên, Luạn cương đã không nêu rõ mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân
tộc mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một chiến
lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách
mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu
tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế cộng sản và một số Đảng cộng sản trong thời gian đó.
Câu 3. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) của Đảng Cộng sản Đông Dương?
Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ở lán Khuổi Nặm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Tham gia Hội nghị có các đồng
chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt cùng một số đại
biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và đại biểu tổ chức Đảng hoạt động ở nước ngoài.
Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
Xét về tính chất và quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 như một Đại hội toàn
quốc của Đảng. Nghị quyết Trung ương đã vạch ra những chiến lược căn bản cho con
đường cách mạng Việt Nam với những nội dung quan trọng.
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp – Nhật bởi vì dưới
hai tầng áp bức Nhật – Pháp, quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc
nguy vọng không lúc nào bằng.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương phải thay đổi chiến lược đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho
dân cày nghèo, chia lị ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Thứ ba, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, thi hành chính sách dân tộc tự quyết; sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật, các dân tộc
trên cõi Đông Dương sẽ tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng tành
lập một quốc gia tùy ý. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước
Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba
dân tộc chống kẻ thù chung.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân
cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều có thể cùng
nhau tham gia vào mặt trận Việt Minh cứu nước, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước của chung cả toàn thể dân tộc.
Thứ sáu, Hội nghị xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
và nhân dân để khi thời cơ đến, với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi
nghĩa từng phần trong từng địa phương tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và sự thay đổi chiến lược cách mạng của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan
hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể của nước
ta, chính là sự hoàn chỉnh nội dung các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và
7 trước đó. Sự thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo của Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với bối
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, thực chất là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường của cách mạng Việt Nam đã được nêu ra trong Chánh cương, Sách lược vắn
tắt từ đầu năm 1930. Như vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã mở đường cho Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đi đến thắng lợi hoàn toàn ở Việt Nam.
Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử,nội dung và ý nghĩa chủ trương "Kháng chiến
Kiến quốc” ngày 25/11/1945 của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương?
a, Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau CM T8/1945
Về thuận lợi: chính quyền giành được trong toàn quốc, nhân dân phấn khởi xây
dựng cuộc sống mới; người dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước; uy
tín của Đảng và Chủ tịch HCM được khẳng định với nhân dân Việt Nam.
Về khó khăn: ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra, hơn 20 vạn quân Tưởng vào Việt
Nam với danh nghĩa đồng minh tước vũ khí của Nhật, thực chất muốn lật đổ chính quyền
cách mạng non trẻ. Ở miền Nam, hơn 1 vạn quân Anh vào tước vũ khí của Nhật nhưng
thực chất giúp Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Trên thực tế, ngày 23/9/1945, quân
Pháp đã nổ sũng ở Nam Bộ, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Trong khi đó, quân Nhật còn chiếm đóng ở nhiều nơi chờ quân đồng minh vào tước vũ
khí; nhiều tổ chức đảng phái phản động ra sức chống phá Cách mạng.
Nạn đói xảy ra từ cuối năm 1944 làm hơn 2 triệu người chết, thiên tai khắc nghiệt
dẫn đến nguy cơ 1 nạn đói mới. Tài chính kiệt quệ, ngân sách trống rỗng. Hơn 90% dân
số mù chữ, các tệ nạn xã hội tràn lan. Chính quyền cách mạng mới ra đời chưa được nước nào công nhận.
Có thể nói, sau cách mạng tháng Tám, chính quyền non trẻ đứng trước nhiều khó
khăn và thử thách vô cùng lớn, vận mệnh của dân tộc trong tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”. Hai khả năng đặt ra: mất chính quyền phải quay trở lại cuộc sống nô lệ hoặc có thế
xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
b) Nội dung chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”
Thuận lợi hết sức cơ bản, khó khăn to lớn, chồng chất nhưng có thể khắc phục
được. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã họp đề ra những chủ trương và biện pháp
nhằm xủng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Nội dung cụ thể được thông qua chỉ thị
“Kháng chiến – Kiến quốc” ngày 25/11/1945. Nội dung Chỉ thị:
Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, tiếp tục sự nghiệp cách mạng Tháng 8/1945. Sự nghiệp này chưa hoàn thành vì
nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Đề ra khẩu hiệu Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết.
Về xác định kẻ thù, chỉ thị chỉ rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp, cần tập trung mũi
nhọn vào chúng vì Pháp đã thống trị Việt Nam hơn 80 năm; Pháp được quân Anh giúp
sức; Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta và trên thực tế đã nổ súng xâm lược ở Nam Bộ.
Đối với các tổ chức Đảng phái phản động, chỉ thị đánh giá thái độ và đề ra đối sách phù hợp.
Về phương hướng, nhiệm vụ, chỉ thị xác định 4 nhiệm vụ cơ bản trước mắt là:
củng cố chính quyền; chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân.
Về ngoại giao, kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, với Tưởng thực hiện khẩu
hiệu “Hoa‒ Việt thân thiện”, với Pháp thực hiên “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.
Chỉ thị đề ra các biện pháp cụ thể:
Về chính trị, củng cố chính quyền cách mạng; xúc tiến cho tổng tuyển cử bầu
Quốc hội, lập chính phủ chính thức; xây dựng hiến pháp của nước Việt Nam mới.
Về kinh tế, diệt giặc đói bằng cách tăng gia sản xuất, nhường cơm sẻ áo, lá lành
đùm lá rách; Phát động “tuần lễ vàng”, ủng hộ “quỹ độc lập”.
Về văn hóa, diệt giặc dốt, bài trừ văn hóa ngu dân, xóa nạn mù chữ, xây dựng nền văn hóa mới.
Về quân sự, động viên toàn dân tham gia kháng chiến.
Về ngoại giao, cứng rắn về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược.
c, Ý nghĩa của chỉ thị
Những quan điểm và chủ trương, biện pháp được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị
Kháng chiến – Kiến quốc đã giải đáp trúng những vấn đề cơ bản và cấp bách của cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ, có tác dụng định hướng tư tưởng, soi sáng con đường xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy khó khăn và phức tạp.
Thể hiện một quy luật của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng 8/1945 là
xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Đó cũng chính là quy luật dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
Câu 5: Nguyên nhân bùng nổ và nội dung đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1946-1954?
a. Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến:
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã có những hành động
trắng trợn, vi phạm các điều đã kí kết với chính phủ ta tại hiệp định Sơ bộ (6//19463),
Tạm ước (14/9/1946). Sau khi được đưa quân ra miền Bắc, thục dân Pháp đã có những
hành động như: đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, gây xung đột vũ trang với lực lượng tự vệ ở Hà Nội.
Mặc dù chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, đến lúc chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, để bảo vệ
nền độc lập dân tộc của mình, đêm ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
b. Nội dung đường lối toàn quốc kháng chiến:
Được thể hiện tập trung trong 3 văn kiện: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
chủ tịch Hồ Chí Minh; Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng; tác phẩm
“Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh.
Nội dung đường lối kháng chiến:
Xác định mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh bại thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập, tự do, thống nhất hoàn toàn cho đất nước.
Xác định tính chất của cuộc kháng chiến: là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc
lập, dân chủ và hòa bình nên cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ
mới, là cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân: bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc, bất kỳ người già người trẻ, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ đánh giặc, mỗi đường phố làng mạc trở thành pháo đài.
Kháng chiến toàn diện: tức là đánh giặc trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị,
văn hóa, quân sự, ngoại giao.
+ Kinh tế: thực hiện xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, công nghiệp quốc phòng.
+ Chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết với nhân dân yêu chuộng tự do hòa bình trên thế giới.
+ Quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai. Thực hiện du kích chiến, tiến lên vận động chiến, đánh chính quy.
+ Văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ
mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng’
+ Ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực, sẵn sàng đàm phán
nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài: chống âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp để có thời
gian phát huy ưu thế mạnh của ta như: thiên thời địa lợi nhân hòa, lâu dài để chuyển hóa
tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
Dựa vào sức mình là chính: tự cấp, tự túc về mọi mặt vì ta bị bao vây tứ phía, chưa
được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện sẽ tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước, xong lúc đó cũng không được ỷ lại.