-
Thông tin
-
Quiz
Đề cương ôn tập lịch sử đảng cộng sản Việt Nam|Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản ViệtNam(trang 30- 36).Tình hình đất nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có những thuận lợi vàkhó khăn gì(26-30).Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.(72-79). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem!
Lịch sử Đảng (PTIT) 40 tài liệu
Học viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông 494 tài liệu
Đề cương ôn tập lịch sử đảng cộng sản Việt Nam|Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản ViệtNam(trang 30- 36).Tình hình đất nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có những thuận lợi vàkhó khăn gì(26-30).Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.(72-79). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng (PTIT) 40 tài liệu
Trường: Học viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông 494 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG ÔN TÂP
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam(trang 30- 36)
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do, bình
đẳng, bác ái", với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình
thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã tìm
thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản,
giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và chuẩn bị
về tư tưởng , chính trị và tổ chức
những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
- Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người
đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng
Việt Nam, thể hiện tập trung qua những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt
cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
- Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt
Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công
nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội,
làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của
chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ
từ các lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho
75 đồng chí, từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành
phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và
là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được
Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với
phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ họ.
Thông qua phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong
thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích
của nhân dân, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh
mẽ, tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín
muồi cho sự ra đời của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc dù chưa nhận được chỉ thị
của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng
do sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp
nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa
chiến lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết
hơn bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt là do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình đất nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có những thuận lợi và khó khăn gì(26-30)
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thựcdân
Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ,nông
dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dântộc, tiểu tư
sản) với thái độ khác nhau.
Trong giai đoạn này, xã hội Việt Nam có 2 mâu thuẫn cơ bản:
- Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và phong kiến phản động.
.- Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến Thuận lợi:
+ Nhiều cuộc cách mạng vô sản ở Nga ,Trung Quốc… đã nổ ra và thành công,
truyền động lực to lớn cho tư tưởng vô sản ở Việt Nam=> Các phong trào yêu nước
chống Pháp diễn ra liên tục và rộng khắp:(kể ra các phong trào…).Tuy nhiên vẫn chưa thành công:))
+Tác động của trào lưu dân chủ tư sản , mở ra phong trào cách mạng yêu nước tiến
bộ (tiêu biểu là phong trào Đông du…)
+Đề cao chủ trương giành độc lập cho dân tộc nhưng không theo con đường bạo
động mà phải cải cách đất nước, dân TRÍ.
+Từ cách cuộc cách mạng với tư tưởng tiến bộ đã dậy lòng yêu nước bất khuất
chống giặc ngoại xâm-> các cuộc khởi nghĩa càng quyết liệt và rộng khắp với nhiều
hình thức và mẫu mã phong phú (^_^).
+ Các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục giúp gia tăng lòng yêu Tổ Quốc và là ngọn cờ
tiên phong cho các cuộc khởi nghĩa sau này. Khó khăn:
+Tuy các cuộc khỏi nghĩa diễn ra nhiều và liên tục nhưng đều thất bại =((.
+ Thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết mau thuẩn cơ bản, chủ yếu của XH.
+ Các cuộc khỏi nghĩa còn tổ chức rời rạc , tự phát và chưa có tổ chức vững mạnh
để tập hợp và giác ngộ lãnh đạo toàn dân tộc…
3. Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. (72-79)
Bối cảnh lịch sử và diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân
Xô Viết giành thắng lợi quyết định, giải phóng nhiều nước và tiến vào Đức. Ngày 9-
5-1945, Đức đầu hàng, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân
Liên Xô tiến công Nhật.Mỹ ném 2 quả bom xuống Nhật vào ngày 6 và 8-8-1945.
Ngày 14-8-1945, Nhật đầu hàng, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa
thuận của Đồng minh, sau khi Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông
Dương để giải giáp quân đội Nhật.
Trong nước, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, Nhật
làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật
- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội
nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam
giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban
Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt
Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ 4-1945, cao trào kháng Nhật diễn ra mạnh mẽ. Tháng 5, Bác Hồ về Tuyên Quang,
chọn Tân Trào làm căn cứ cách mạng. Ngày 4-6, Khu giải phóng Việt Bắc thành lập
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời. Tháng 8, Hội nghị đại biểu toàn quốc
của Đảng tại Tân Trào khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và
quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa. Ngày 13-8, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân
lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8, Đại hội Quốc dân thông qua
“10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc
kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm
thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi
nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước tiến hành
tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ 14-18/8, khởi nghĩa thắng lợi ở nông thôn
Bắc Bộ, miền Trung, một phần miền Nam và các thị xã. Ngày 19/8, khởi nghĩa thắng
lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và các tỉnh khác. Ngày 25/8,
khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh khác. Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà
tù Côn Đảo lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng nổi dậy giành chính quyền.
Trong 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn,
chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập, tuyên bố Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Từ đó, ngày 2-9 là
Ngày Quốc khánh của nước ta.
Nguyên nhân thắng lợi:
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công nhanh chóng nhờ sự lãnh đạo của Đảng và
sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin. Đảng có chiến lược phù hợp, nhận thức được thời
cơ và tiến hành tổng khởi nghĩa.
Thành công cũng nhờ tinh thần yêu nước, đoàn kết của nhân dân, quyết tâm giành độc
lập. Trải qua 15 năm đấu tranh, nhiều người đã hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc.
Cách mạng diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa phát xít đã bị đánh bại,
phong trào giải phóng dân tộc và lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh. Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng, mở ra bước ngoặt trong lịch sử dân tộc. Chính quyền về tay nhân dân,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ.
Cách mạng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối cách mạng của Đảng ta.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức. Nó khẳng định rằng, cuộc cách
mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo có thể thành công ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu
4. Đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1946.(85-97)
Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám
Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường mới
với nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất.
Thuận lợi ở thế giới: Sau Chiến tranh thế giới II, thay đổi lớn ở thế giới và khu vực đã
hỗ trợ cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành trung tâm chủ nghĩa xã hội, hỗ trợ
nhiều nước Đông Trung Âu theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc tăng
mạnh ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
Thuận lợi ở trong nước là Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Đảng
Cộng sản lãnh đạo cách mạng, hình thành hệ thống chính quyền cách mạng phục vụ
lợi ích Tổ quốc, nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của độc lập, tự do, trung tâm của khối đại đoàn
kết toàn dân. Quân đội quốc gia, Công an và luật pháp cách mạng được xây dựng để
chống thù trong, giặc ngoài và xây dựng chế độ mới.
Khó khăn trên thế giới: Phe đế quốc chủ nghĩa tấn công phong trào cách mạng, trong
đó có Việt Nam. Không có nước nào ủng hộ và công nhận địa vị pháp lý của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam và cách mạng Đông Dương phải đối mặt với
nhiều thách thức lớn và nghiêm trọng.
Khó khăn trong nước Chính quyền cách mạng mới non trẻ, yếu kém. Hậu quả của chế
độ cũ và nạn đói 1945 nặng nề. Kinh tế tiêu điều, công nghiệp đình đốn, nông nghiệp
hoang hóa, tài chính kiệt quệ. Hủ tục lạc hậu, thói xấu, tệ nạn xã hội chưa khắc phục,
95% dân số mù chữ. Thách thức lớn nhất là âm mưu của thực dân Pháp quay trở lại thống trị Việt Nam.
Từ 9-1945, quân Anh-Ấn đổ bộ Sài Gòn giải giáp quân Nhật, bảo trợ quân Nhật giúp
quân Pháp chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn ngày 23-9-1945, khởi đầu chiến tranh xâm lược
thứ 2 của Pháp ở Việt Nam. Theo Hiệp ước Potsdam, từ cuối 8-1945, quân của Tưởng
Giới Thạch kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ của Mỹ để giải giáp quân Nhật, kéo
theo lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách. Trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn
quân Nhật chưa được giải giáp. Tình hình này đặt nền độc lập và chính quyền cách
mạng Việt Nam trước tình thế khó khăn, phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.
Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng
Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời xác định nhiệm vụ diệt giặc đói, dốt và ngoại
xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc, xác định kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược và mục tiêu cách mạng
Đông Dương là “dân tộc giải phóng".
Chỉ thị đề ra biện pháp giải quyết khó khăn của cách mạng Việt Nam, trong đó nêu rõ
cần xúc tiến bầu cử Quốc hội để thành lập Chính phủ chính thức, chuẩn bị kháng
chiến lâu dài; kiên định nguyên tắc độc lập về chính trị; về ngoại giao phải “làm cho
nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”; đối với Tàu Tưởng nêu chủ
trương “Hoa-Việt thân thiện”, đối với Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về
kinh tế”. Về tuyên truyền, kêu gọi đoàn kết chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược;
“chống mọi mưu mô phá hoại chia rẽ của bọn Trốtxkit, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng".
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo chống giặc đói, đẩy lùi
nạn đói. Các cuộc vận động như tăng gia sản xuất, tiết kiệm, lập hũ gạo tiết kiệm, tổ
chức Tuần lễ vàng, gây Quỹ độc lập được thực hiện. Chính phủ bãi bỏ thuế thân và
nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ, thực hiện chính sách giảm tô 25%. Sản xuất nông
nghiệp tăng lên rõ rệt, cả về diện tích và sản lượng hoa màu. Đầu năm 1946, nạn đói
cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân được ổn định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng việc chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, góp phần xây
dựng chính quyền cách mạng. Đảng và Hồ Chí Minh phát động phong trào “Bình dân
học vụ”, vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới. Cuối năm 1946, cả nước đã có
hơn 2,5 triệu người biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Đời sống tinh thần của một bộ
phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới, nêu cao
quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.
Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng: Để khẳng định địa vị pháp lý
của Nhà nước Việt Nam, Đảng và Hồ Chí Minh tổ chức cuộc bầu cử toàn quốc. Ngày
6-1-1946, cả nước tham gia cuộc bầu cử, bầu ra 333 đại biểu Quốc hội đầu tiên. Quốc
hội khóa I họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội vào ngày 2-3- 1946 và lập ra Chính phủ chính thức.
Mặt trận dân tộc thống nhất được mở rộng để tăng cường thực lực cách mạng. Hội
Liên Việt được thành lập, cùng với Hội đồng cố vấn Chính phủ và một số đoàn thể xã
hội mới. Lực lượng vũ trang cách mạng được củng cố và tổ chức lại, mua sắm vũ khí,
tích trữ lương thực, thuốc men. Cuối năm 1946, Việt Nam có hơn 8 vạn bộ đội chính
quy, lực lượng công an được tổ chức đến cấp huyện.
Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ
Sau vụ khiêu khích ngày 2-9-1945, Pháp thực hiện mưu đồ xâm lược Việt Nam. Đêm
22-9-1945, quân Pháp chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn. Cuộc kháng chiến Nam Bộ bắt đầu.
Sáng 23-9-1945, Hội nghị liên tịch đề ra chủ trương kháng chiến chống Pháp. Các
đơn vị bảo vệ Trụ sở Ủy ban nhân dân, Sở tự vệ, nhà Bưu điện thành phố chiến đấu
anh dũng. Ngày 25-10-1945, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ quyết định củng cố
lực lượng vũ trang, xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật trong nội đô; tổ chức toàn dân kháng chiến.
Nhân dân Nam Bộ nêu cao tinh thần chiến đấu, dùng vũ khí thô sơ chống xâm lược
Pháp, bảo vệ độc lập và chính quyền cách mạng. Công tác diệt ác, trừ gian được tổ
chức, đốt phá kho tàng, chặn đánh xe vận tải địch, củng cố căn cứ địa. Nhân dân Sài
Gòn-Chợ Lớn ngăn cản bước tiến địch bằng các chiến lũy, ổ chiến đấu, phá hủy cơ sở hạ tầng.
Chính phủ, Hồ Chí Minh và nhân dân miền Bắc hưởng ứng, chi viện Nam Bộ kháng
chiến. Ngày 26-9-1945, chi đội ưu tú của quân đội lên đường Nam tiến chi viện Nam
Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khích lệ Nam Bộ kháng chiến, tặng danh hiệu
“Thành đồng Tổ quốc”. Cuộc chiến đấu của quân và dân Nha Trang mở đầu cho cuộc
chiến đấu của Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Đảng và Chính phủ Hồ Chí Minh thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ
thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc” với quân Tưởng. Đối sách khôn khéo
được đề ra để đối phó với hoạt động khiêu khích của quân Tưởng. Để tránh tấn công,
Đảng rút vào hoạt động bí mật, tự giải tán ngày 11-11-1945, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai.
Chính phủ đảm bảo cung cấp lương thực cho quân Tưởng, nhân nhượng cho họ sử
dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ. Hồ Chí Minh mở rộng thành phần đại biểu Quốc
hội và Chính phủ sau bầu cử. Đầu năm 1946, Chính phủ Pháp và Trung Hoa dân quốc
ký kết Hiệp ước Trùng Khánh, cho phép Pháp đưa quân đội ra Bắc vĩ tuyến 16 thay
thế quân Tưởng. Hiệp ước này hợp pháp hóa hành động xâm lược của Pháp ra miền
Bắc. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đối mặt với hai kẻ thù xâm lược là Pháp và Tưởng.
Thường vụ Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã nhận định âm mưu của Pháp và
Tưởng, ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3-3-1946. Chủ trương tạm thời “dàn
hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích kinh tế, nhưng đòi Pháp phải thừa nhận quyền
tự quyết của Việt Nam. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ với Pháp,
công nhận Việt Nam là quốc gia tự do.
Sau khi ký Hiệp định, ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hòa để
tiến phân tích chủ trương hòa hoãn. Chỉ thị nêu rõ: Cần phải tiếp tục nêu cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng
chiến bất cứ lúc nào và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tỉnh
thần quyết chiến của dân tộc ta, nhất là đối với đồng bào Nam Bộ và các chiến sĩ
ngoài mặt trận; cần đẩy mạnh công tác xây dựng đảng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ
chính trị và quân sự, gây dựng cơ sở đảng, củng cố phong trào quần chúng... Đến
tháng 12-1946, Đảng đã có sự phát triển thêm về chất lượng, số lượng đảng viên tăng
lên tới hơn 20.000 người.
Đảng, Chính phủ tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao trong năm 1946. Từ ngày 19-4
đến 10-5-1946, đại diện Chính phủ Việt Nam và Pháp gặp nhau tại Đà Lạt. Ngày 31-
5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức Pháp. Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký với Marius Moutet bản Tạm ước 14-9, đồng ý nhân nhượng thêm cho
Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, thời hạn quân đội Tưởng phải rút về nước đã hết, nhưng quân Tưởng
vẫn trì hoãn kéo dài. Rạng sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công an đã khống chế bọn
phản động có vũ trang, tổ chức khám xét và tịch thu được nhiều tài liệu phản động.
Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam về đến cảng Hải
Phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài: Công việc khẩn cấp bây giờ, nêu rõ thêm
những nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết phải làm về mặt quân sự, chính trị. Kịp thời chỉ
đạo từng bước chuyển sang tỉnh trạng chiến tranh và chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Chủ trương và sách lược của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ngăn chặn
bước tiến của quân xâm lược Pháp, củng cố chính quyền cách mạng và bảo vệ thành
quả Cách mạng tháng Tám. Đã tạo thêm thời gian hòa bình để xây dựng thực lực,
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Nêu cao ý chỉ tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập. Lợi dụng mâu thuẫn
trong hàng ngũ địch, thực hành nhân nhượng có nguyên tắc. Tăng cường đại đoàn kết
dân tộc, dựa vào sự ủng hộ của toàn dân. Phát triển thực lực cách mạng. Đây là những
thành công và kinh nghiệm của Đảng trong giai đoạn 1945-1946.
5. Vị trí cách mạng miền Bắc, miền Nam trong đường lối chiến lược chung của
cả nước do Đại hội III của Đảng (9/1960) xác định (130-133)
Về đường lối cách mạng chung trong cả nước:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Hà Nội vào Tháng 9-1960. Hồ
Chí Minh khai mạc Đại hội với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị và Nghị
quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới. Đại hội xác định
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền: Một là, đầy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai
là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất