



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61457685
ÔN TẬP MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(năm học 2022 – 2023)
1. Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại sao trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam phải chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện
và lịch sử cụ thể?
1. Phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Dựa trên phương pháp luận khoa học marxist, đặc biệt là nắm vững chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức lịch sử một
cách khách quan, trung thực và đúng quy luật.
Cùng với chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng HCM dẫn dắt sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Tư tưởng HCM và tư duy, phong cách khoa học của
Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam phải chú
trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vì:
Quan điểm khách quan trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử ĐCSVN thể hiện:
+ Lịch sử là một hiện thực đã diễn ra trong quá khứ, tồn tại độc lập khách
quan, là đối tượng nghiên cứu của sử học
+ Khoa học Lịch sử có khả năng nhận thức được lịch sử nhưng không phải là
nhận thức trực quan, tuyệt đối mà là quá trình tiệm cận với lịch sử, chân lí trong sử
học mang tính chất tương đối.
+ Nhà sử học, chủ thể của nhận thức lịch sử, luôn để lại dấu ấn chủ quan trong
tất cả các khâu của hoạt động nhận thức. Nhà sử học luôn thuộc về một giai cấp nhất
định và do đó luôn mang quan điểm giai cấp để khôi phục sự kiện và giải thích lịch
sử. Trong thời hiện đại, nhà sử học dựa trên lập trường của giai cấp vô sản để lí giải
lịch sử thì có khả năng thiết lập được sự phù hợp giữa cái chủ quan của người nghiên
cứu với cái khách quan của hiện thực lịch sử. Lập trường giai cấp chính là tính đảng
trong sử học marxist và ở đây tính đảng và tính khoa học có sự thống nhất.
+ Trong quá trình nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, để
đảm bảo tính khách quan, chúng ta cần dựa vào vào nguồn sử liệu về Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nguồn sử liệu ấy cần được xử lí, xác minh một cách khoa học.
Như vậy, quan điểm khách quan sẽ giúp nhà nghiên cứu, người học tập nhìn
nhận các vấn đề thuộc về môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam một cách chân thực, chính xác. - Quan điểm toàn diện: lOMoAR cPSD| 61457685
Khoa học Lịch sử Đảng là “một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa
dạng và phong phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của
dân tộc và thời đại”, nghiên cứu “tổ chức và hoạt động của Đảng và các phong trào
cách mạng của quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Các tri thức của khoa học Lịch sử Đảng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng
với nhau, vì vậy, nhận thức toàn diện giúp nghiên cứu, người học nhìn nhận đối
tượng một cách đầy đủ, khoa học và hiểu được bản chất của vấn đề.
Quan điểm lịch sử cụ thể xem xét các sự kiện, hiện tượng lịch sử ở những thời
điểm nhất định, cụ thể trong quá khứ. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử đều xảy ra ở
một thời gian và không gian cụ thể nào đó. Chúng ta có thể không hiểu được bản
chất, thậm chí hiểu sai các sự kiện lịch sử nếu chúng ta không biết được thời điểm
xuất hiện của chúng. Quan điểm này giúp nhà nghiên cứu, người học không hiện đại
hoá lịch sử và hiểu chính xác hơn về lịch sử.
2. Trình bày chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam cuối
TK XIX đầu TK XX và những tác động của nó đến xã hội Việt Nam lúc đó?
1. Chính sách cai trị của Pháp đối với Việt Nam cuối TK XIX − đầu TK XX
Sau quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của các giáo sĩ và
thương nhân Pháp, ngày 01/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại
Đà Nẵng và từng bước thôn tính Việt Nam. Trước hành động xâm lược của Pháp,
triều đình nhà Nguyễn từng bước thoả hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến ngày
06/6/1884 với Hiệp ước Patenotre đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt Nam
trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót
sắt của kẻ thủ hung ác”.
Đồng thời với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu
nước của nhân dân VN, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền
thuộc địa, bên cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai. Chính
sách cai trị của chính quyền thuộc địa thể hiện ở các phương diện sau: Về chính trị
+ Thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn
kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia lãnh thổ VN thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc
Pháp (thành lập 17/10/1887 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp)
+ Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người
Việt”, ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa
binh lính người bản xứ. Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên tổng
chỉ huy người Pháp. Ngoài quân đội chính quy còn có đội lính khố xanh chuyên để
đàn áp các cuộc khởi nghĩa, hoặc canh giữ các nhà tù, phục vụ ở các đạo quan binh. lOMoAR cPSD| 61457685
Ngoài ra, cả ba xứ còn có tổ chức đội thân binh dưới quyền của bọn Việt gian phản
động làm nhiệm vụ đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. − Về kinh tế
+ Từ năm 1897, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành khai thác
thuộc địa. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất bắt đầu từ 1897 - 1914, cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai bắt đầu từ 1919 - 1929. Chính quyền thuộc địa âm mưu
biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng
hoá ế thừa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động
rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề.
− Về văn hoá – xã hội
Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều
hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã hội
vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và
thuốc phiện để đầu độc thanh niên Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh”…
2. Tác động của các chính sách cai trị của thực dân Pháp đến xã hội VN –
Làm thay đổi tính chất xã hội Việt Nam: từ xã hội phong kiến sang xã
hộithuộc địa nửa phong kiến, đặc trưng là: đế quốc – phong kiến kết hợp với nhau
để thống trị, bóc lột nhân dân. Đế quốc dựa vào phong kiến phản động để duy trì ách
thống trị, phong kiến phản động dựa vào thế lực đế quốc để bóc lột nhân dân. –
Làm phân hoá các giai cấp và xuất hiện các giai cấp, tầng lớp xã hội
mớitrong xã hội VN. Các giai cấp, tầng lớp này có địa vị kinh tế khác nhau và do đó
cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.
Giai cấp địa chủ bị phân hoá, khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Một
bộ phận câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc ra sức
đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân (thường là đại địa chủ); một bộ phận
khác (thường là trung và tiểu địa chủ) nêu cao tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh
đạo các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến; một số trở thành lãnh
đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản động; một bộ
phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản.
Giai cấp nông dân là thành phần đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam (khoảng
hơn 90% dân số). Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nông dân bị đế quốc, phong
kiến và tư bản bóc lột nặng nề. Nông dân bị bần cùng hoá bởi chính sách chiếm đoạt
ruộng đất để lập đồn điền của thực dân Pháp, bởi nạn sưu cao, thuế nặng của nhà
nước phong kiến – thực dân, bởi địa tô và cho vay nặng lãi của địa chủ phong kiến.
Xã họi tồn tại nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn nông dân – địa chủ phong kiến, mâu
thuẫn nông dân – thực dân Pháp. Chịu áp bức bóc lột nặng nề, nông dân ở mọi nơi
không ngừng vùng dậy chống lại ách thống trị của thực dân phong kiến. Đây là lực lOMoAR cPSD| 61457685
lượng hùng hậu, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất và khao khát giành lại
ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn
sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân phong kiến.
Giai cấp công nhân ra đời từ trong quá trình thực dân Pháp thực hiện cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc
tế, giai cấp công nhân VN có những đặc điểm riêng: ra đời trước giai cấp tư sản dân
tộc, kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; bị ba tầng áp bức: đế quốc, phong
kiến, tư bản; phần lớn xuất thân từ nông dân, là cơ sở khách quan, thuận lợi cho công
nhân và nông dân liên minh chặt chẽ trong quá trình đấu tranh cách mạng. Do vậy,
tuy lực lượng công nhân Việt Nam còn nhỏ bé, nhưng đã sớm vươn lên tiếp nhận tư
tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể
hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tư sản VN xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Một bộ phận gắn
liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền
thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân
tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Vì vậy,
phần lớn tư sản VN có tinh thần dân tộc nhưng không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành CM.
Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, tư bản
chèn ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất nhạy cảm về chính
trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động, thiếu
kiên định, do đó họ không thể lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp sĩ phu phong kiến bị phân hoá càng ngày càng sâu sắc. Một bộ phận
vẫn giữ cốt cách phong kiến, một bộ phận chuyển sang tư tưởng tư sản hoặc tư tưởng
vô sản. Một số người trong tầng lớp này khởi xướng các phong trào yêu nước có ảnh hưởng lớn.
+ Làm thay đổi mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: Ngoài mẫu thuẫn
vốn có của xã hội Việt Nam trước đây là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong
kiến, đến lúc này đã xuất hiện mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và chính quyền tay sai. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng
trở nên gay gắt là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và
chính quyền phong kiến tay sai.
3.Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Vai trò của NAQ đối với sự thành lập ĐCSVN thể hiện ở các hoạt động quan trọng sau: *
Hoàn cảnh: Cuối TK XIX – đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước,
bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo lOMoAR cPSD| 61457685
ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết
liệt, liên tục và rộng khắp. Tuy nhiên, các phong trào cứu nước từ lập trường Cần
Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản đều lần lượt thất bại. Yêu cầu đặt ra lúc này
là phải có một tổ chức lãnh đạo với đường lối CM đúng đắn. *
Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc. Sinh
ra và lớn lên tại Nam Đàn – Nghệ An, vùng đất có truyền thống bất khuất, kiên
cường chống áp bức bất công, trước cảnh nước mất, đồng bào bị đoạ đày đau khổ
bởi chính sách thuộc địa của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai, Nguyễn
Ái Quốc mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc.
Ngày 05/6/1911, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn chế của những sĩ phu yêu
nước đương thời, quyết chí đi sang phương Tây tìm con đường cứu nước, cứu dân
theo tư duy mới. Khi CMT10 Nga (1917) thành công, Người từ Anh trở lại Pháp và
tham gia các hoạt động chính trị.
Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ
nhất lúc đó ở Pháp. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc
thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vecxai bản
Yêu sách của nhân dân An Nam nhưng không được đáp ứng. Tuy nhiên sự kiện đã
tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và NAQ càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Sơ thảo chỉ
rõ, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông có kẻ thù là chủ nghĩa
tư bản phương Tây, do đó, về khách quan, nó là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, vì vậy độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những luận điểm của
V.I. Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn
hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lí luận của Lenin và
lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc
thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc
tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920). Tại Đại hội
này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, tuyên bố thành lập Đảng
Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng
lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh
dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn
Ái Quốc “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản”.
* Quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
- Về tư tưởng, chính trị lOMoAR cPSD| 61457685
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người cộng
sản, NAQ tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng
vô sản, đồng thời tích cực truyền bá CN Marx – Lenin về VN nhằm chuẩn bị tiền
đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng cộng sản ở VN.
Vừa nghiên cứu lí luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, qua nhiều bài
báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân,..., NAQ đã tích cực tố cáo tội
ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên
truyền tư tưởng Marx – Lenin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng
sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Khi sang hoạt động ở Liên Xô tham dự và trình bày các tham luận tại đại hội
của các tổ chức mang tính quốc tế: Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế thanh niên,
Quốc tế phụ nữ,... Người đã chỉ rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, đồng thời tuyên truyền tư tưởng của Lenin soi sáng con đường
cách mạng, con đường phát triển của cách mạng thuộc địa.
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Người đã trình bày bản
báo cáo quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bản báo cáo đã làm sáng rõ và
phát triển một số luận điểm của Lenin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về nhiệm
vụ của các đảng cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và
giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dân
Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Paris, đã tố cáo, kết tội chế độ bóc lột, cai trị của
thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị áp bức
nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng. Đây là sự chuẩn bị quan trọng về tư tưởng,
lí luận cho quá trình thành lập Đảng.
Đường lối cách mạng được phác thảo rõ nét nhất ở nội dung các bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc cho Hội VN CM Thanh niên, được tập hợp, in trong cuốn Đường
cách mệnh. Tác phẩm xác định rõ con đường, mục tiểu, lực lượng và phương pháp
đấu tranh của cách mạng Việt Nam, thể hiện tư tưởng nổi bật của vị lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào điều kiện Việt Nam.
Trong đó, trước hết, Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các
dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản. Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước
thuộc địa không phụ thuộc, thậm chí là có thể thành công trước, góp phần tích cực
thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”. lOMoAR cPSD| 61457685
Đối với các dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: ở nước nông nghiệp lạc hậu, nông
dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì
vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công
nông làm động lực cách mạng. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng là việc của toàn dân.
Về đảng cộng sản, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và
vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Phong trào “Vô sản hoá” do Kỳ bộ Bắc Kỳ góp phần truyền bá tư tưởng vô
sản, nhiệm vụ chính trị, rèn luyện cán bộ và phát triển tổ chức của công nhân. Về tổ chức:
Tháng 11/1924, Người rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) – nơi có rất
đông người Việt Nam yêu nước hoạt động – để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng marxist.
Tháng 02/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã,
lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố
chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mạng dân tộc rồi sau đó làm
cách mạng thế giới. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kì đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội truyên
truyền chủ nghĩa Marx – Lenin và phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh
niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Sau khi
được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách
mạng theo khuynh hướng vô sản.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng
chương trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công nhân là
tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ
chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin vào trong nước và cũng là sự chuẩn
bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt
Nam. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam lOMoAR cPSD| 61457685
Nguyễn Ái Quốc nhận được tin tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên “bị tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phái,...” khi đang hoạt động
ở Xiêm (Thái Lan). Trước tình hình đó, Người đã rời Xiêm về Hồng Kông (Trung
Quốc), chủ động “triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)”
để tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Hội nghị thành lập Đảng được tiến hành từ ngày 06/01/1930 đến ngày
07/02/1930 ở nhiều địa điểm khác nhau tại Hồng Kông (Trung Quốc). Thành phần
dự Hội nghị gồm đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản
đảng, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của NAQ, tổ chức hợp nhất 3 tổ
chức CS, lấy tên là Đảng CS VN, thông qua Cương lĩnh chính trị và các văn kiện
quan trọng do lãnh tụ NAQ soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược
vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng CSVN.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng CSVN tổ chức ra để
lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau khi vạch rõ bản chất, tội ác
của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, Người chỉ rõ sứ mệnh của Đảng Cộng
sản Việt Nam là “để lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta làm cách mạng”.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng VN cần phải thống nhất các tổ
chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín
chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, NAQ đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp
nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất
dù “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách
mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
4.Chứng minh: sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan? * Về mặt thực tiễn – Hoàn cảnh quốc tế
+ Cuối TK XIX, CN tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc.
+ Thắng lợi của CMT10 Nga 1917 cùng với chủ nghĩa Mac – Lenin có ý nghĩa
to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản. Nó còn có
tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ
các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân. Đồng thời
là minh chứng rõ ràng cho việc muốn giành thắng lợi, CM phải có một tổ chức đứng
đầu để tập hợp lực lượng, phải có đường lối cách mạng đúng đắn. lOMoAR cPSD| 61457685
+ Quốc tế Cộng sản, do Lenin đứng đầu, được thành lập tháng 3/1919, trở
thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế
giới. Quốc tế Cộng sản đã tiến hành nhiều hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng
vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô
sản. Nó thúc đẩy phong trào công nhân và nhân dân thế giới, là động lực thúc đẩy
sự ra đời nhiều đảng cộng sản ở các nước: Đảng Cộng sản Đức, (1918); Đảng Cộng
sản Mỹ (1919); Đảng Cộng sản Pháp (1920),...
– Tình hình cách mạng Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
+ 1858, Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1884, Pháp thống trị được hoàn
toàn VN, VN trở thành thuộc địa của Pháp.
+ Cuối TK XIX – đầu TK XX, nhiều phong trào chống thực dân Pháp theo
khuynh hướng khác nhau (phong kiến, dân chủ tư dản, tiểu tư sản) diễn ra quyết liệt,
liên tục và rộng khắp nhưng đều thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào
khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, thiếu một tổ chức đủ mạnh để tập hợp
lực lượng, giáo dục quần chúng.
– Thực tiễn cách mạng Việt Nam năm 1929
Cuối năm 1928, những hoạt động của Hội VN Cách mạng Thanh niên ảnh
hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào
yêu nước Việt Nam những năm 1928, 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Năm 1929, với sự ra đời của 3 tổ chức CS: Đông Dương Cộng sản đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn, An Nam Cộng sản đảng, đã khẳng định bước tiến về
chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền với đường lối giống
nhau, đều ủng hộ và kêu gọi sự thừa nhận của Quốc tế CS, đều tự nhận là đảng cách
mạng chân chính, vì vậy đã dẫn đến việc phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất
về tổ chức trên cả nước. Trước tình hình đó, NAQ đã trở về TQ tổ chức hội nghị hợp
nhất 3 tổ chức CS ( Hội nghị thành lập Đảng) , từ ngày 06/01/1930 đến ngày
07/02/1930. Hội nghị thống nhất thành lập một tổ chức CS chung, lấy tên là Đảng
CSVN, thông qua Cương lĩnh chính trị và các văn kiện quan trọng do lãnh tụ NAQ
soạn thảo. ĐCSVN trở thành chính đảng duy nhất tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu
tranh chống đế quốc theo khuynh hướng vô sản. * Về mặt lí luận
Đảng Cộng sản VN ra đời theo đúng quy luật khách quan, là sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Marx – Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở VN.
5.Tại sao sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 lại đánh
dấu bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh? lOMoAR cPSD| 61457685
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa quyết định trong sự
phát triển của dân tộc VN, sự lãnh đạo của Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết
định đưa cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ra đời đã đánh
dấu bước phát triển về chất trong tư tưởng HCM.
Vào những năm cuối TK XIX đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước,
bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo
ngọn cờ phong kiến, dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt,
liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều thất
bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong,
có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Trước yêu cầu lịch sử đó,
NAQ tiến hành hợp nhất 3 tổ chức CS thành một chính đảng duy nhất – Đảng CSVN.
Đảng ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo đã phản ánh tư
tưởng HCM về đường lối CM VN hình thành về cơ bản.
– Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam:
“chủtrương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
– Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:
+ Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt
của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
+ Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do
tổ chức; b) Nam nữ bình quyền,...; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”.
+ Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái;
thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ
công nông binh quản lí; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;...
Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách
mạng là công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương
lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập
trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng trung lập”.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân tộc,
chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp. lOMoAR cPSD| 61457685
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế: Cương lĩnh phát triển quan điểm
về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng với các ND chiến lược và sách lược
vừa CM vừa khoa học đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội VN,
phù hợp với xu hướng thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của CMVN.
+ Từ đây, thông qua đường lối của Đảng, tư tưởng HCM chính thức đã đi vào thực tiễn CMVN.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự trở thành người lãnh
đạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, từng bước
đi lên, làm nên những kỳ tích, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
6. Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) là bước ngoặt vĩ đại của
lịch sử cách mạng Việt Nam?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường
lối cứu nước ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp
công nhân, khẳng định sự lãnh đạo của giai cấp công nhân với đội tiên phong của
mình là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam trở thành
một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng đã trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
7.Phân tích nội dung, ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam?
1. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hai văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng
do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
đã phản ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cách mạng
Việt Nam đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, xác định rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm
vụ chiến lược, phương pháp hoạt động,.. của một chính đảng, hoặc một tổ chức chính
trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định. lOMoAR cPSD| 61457685
– Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam:
“chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
– Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:
+ Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt
của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
+ Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do
tổ chức; b) Nam nữ bình quyền,...; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”.
+ Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái;
thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ
công nông binh quản lí; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;...
Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách
mạng là công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương
lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập
trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập”.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân tộc,
chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp.
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế: Cương lĩnh phát triển quan điểm
về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
2. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN được
hoạch định trên cơ sở lí luận khoa học vững chắc và trên cơ sở tổng kết, khảo nghiệm
thực tiễn phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu TK XX. –
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng mặc dù còn “vắn tắt” nhưng
đãphản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam: chỉ rõ
những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là đánh
giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân lOMoAR cPSD| 61457685
tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng
và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra. –
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định lần đầu tiên
cáchmạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách
quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội
Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam. –
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là sản phẩm của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trên lập trường khoa học của chủ nghĩa Marx – Lenin.
8.Anh (chị) hãy trình bày chủ trương chiến lược mới của Đảng giai đoạn
1939-1945? Vì sao trong giai đoạn ấy, Đảng ta phải thay đổi chiến lược? 1. Chủ
trương chiến lược mới của Đảng giai đoạn 1939 – 1945 – Hoàn cảnh lịch sử + Tình hình thế giới:
Ngày 01/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, trong đó Pháp là nước
tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ
ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.
Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày
22/6/1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên
Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng
dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu. + Tình hình trong nước:
Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động:
thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh
vào ĐCS Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét
sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng sự thất thế của Pháp ở Đông Dương, tháng 9/1940, Nhật Bản cho
quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho
Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng”, đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh
ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt
động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị. lOMoAR cPSD| 61457685
– Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được thể hiện qua
các Hội nghị Trung ương
+ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (11/1939)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (11/1940)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) là Hội nghị quan trọng mang tính
chất quyết định cho sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và
căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tạm gác khẩu hiệu
“đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng
đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo”, chia lại ruộng đất cho công
bằng, giảm tô, giảm tức.
Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương.
Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn
kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là
nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến
thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức
và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
2. Trong giai đoạn 1939 – 1945, Đảng ta “phải thay đổi chiến lược”, vì:
Đảng chủ trương “phải thay đổi chiến lược” để hoàn toàn phù hợp với tình
hình thực tiễn của cách mạng trong và ngoài nước lúc bấy giờ. Thực tế đã chứng
minh, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ
trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy. Đường lối đúng đắn giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự
nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Chủ
trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng
cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.
9. Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng
5/1941) đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng
11/1939 như thế nào? Ý nghĩa của sự chuyển hướng đối với cách mạng Việt Nam? lOMoAR cPSD| 61457685
1. Hoàn cảnh lịch sử
– Thế giới: Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn ác liệt, Pháp là
nước tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở
trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.
Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp và Pháp đã đầu hàng. Ngày 22/6/1941, Đức
tấn công Liên Xô. Từ đây, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến
tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
- Trong nước: Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến
phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, thực hiện chính
sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh.
Lợi dụng sự thất thế của Pháp ở Đông Dương, tháng 9/1940, Nhật Bản cho
quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho
Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng”, đời sống của nhân dân lâm vào cảnh ngột ngạt
về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật
và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Phong trào kháng
Pháp đuổi Nhật trên đà phát triển mạnh mẽ.
Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, Người đã tổ chức và chủ
trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại Pác Bó,
Cao Bằng. Hội nghị đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
2. Nội dung của Hội nghị
– Hội nghị đã phân tích tình hình thế giới, Đông Dương và trong nước, nêu rõ
những nội dung quan trọng:
Thứ nhất, Đảng đặt cuộc vận động giải phóng dân tộc vào giai đoạn “trực
tiếp”, nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu cần được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và phát xít Nhật.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược” để hoàn
toàn phù hợp với tình hình thực tiễn của CM trong và ngoài nước lúc bấy giờ. Đảng
khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm
cách mạng giải phóng dân tộc” – đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Để
thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa
chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế
quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Hội nghị quyết định thành lập ở
mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng
thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung. lOMoAR cPSD| 61457685
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc thông qua việc xây dựng Mặt
trận Việt Minh. Các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu
quốc”. Trong việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc, “điều cốt yếu không phải những
hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng sản, mà điều cốt yếu hơn hết là họ có tinh thần
cứu quốc và muốn tranh đấu cứu quốc”.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà theo tinh thần tân dân chủ - một hình thức nhà nước “của
chung cả toàn thể dân tộc”.
Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân. Đường lối đấu tranh mà Đảng đưa ra đó là phải đi từ
khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở từng địa phương, sau đó mới tiến lên
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị còn xác định những điều
kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng:
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương đã hoàn chỉnh chủ trương
chiến lược của Đảng được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để những
hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930, khẳng định sự đúng đắn của tư
tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc.
Hội nghị đã nêu ra những chính sách rất phù hợp nhằm giải quyết mục tiêu
trước mắt là giành độc lập cho dân tộc. Từ đó, thấy được sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng
suốt, nhạy bén của Đảng với những chủ trương sáng tạo như thành lập Mặt trận Việt
Minh, thực hiện phương pháp cách mạng phù hợp từ khởi nghĩa từng phần tiến tới
tổng khởi nghĩa,... đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam cũng như
đáp ứng được nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương
Sự chuyển hướng này cũng đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về
hoạch định đường lối chính trị, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ.
Chính những đường lối, chủ trương đề ra trong hội nghị đã có vai trò quyết
định quan trọng tới xu hướng vận động của phong trào CM, trực tiếp quyết định cho thắng lợi của CMT8.
10.Anh (chị) hiểu như thế nào về nhận định sau của Hồ Chí Minh:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”?
Nhận định này được trích trong tác phẩm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đêm ngày 19/12/1946.
Lời kêu gọi diễn ra trong bối cảnh sau khi ta kí kết với Pháp Hiệp định sơ bộ
6/3/1946, Tạm ước 1946 để tranh thủ thời gian hòa bình để chuẩn bị những điều
kiện cần thiết chống Pháp. Thế nhưng, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành lOMoAR cPSD| 61457685
động khiêu khích, trắng trợn vi phạm các Hiệp định đã ký với ta tháng 11/1946,
chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm
lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác,
súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số
trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi
tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong
thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có
con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do, bảo vệ thành quả cách mạng.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” chứa đựng những giá
trị hết sức to lớn, thể hiện những tư tưởng lớn của dân tộc và thời đại, là tiếng gọi
của non sông, là sự hiệu triệu của lãnh tụ đối với toàn thể nhân dân Việt Nam, đồng
thời là ý chí, quyết tâm của cả dân tộc, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết
đứng lên kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành
được. Đó là tiếng nói của ý chí kiên cường, bất khuất, sẵn sàng “hy sinh đến giọt
máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước” ; thể hiện quyết tâm cao độ của nhân dân ta -
“nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” . Đồng thời, lời
kêu gọi còn khẳng định niềm tin tất thắng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong
cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại kẻ địch hung bạo, dù phải trải qua nhiều
gian lao, vất vả, khó khăn.
Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả dân tộc Việt Nam đồng sức,
đồng lòng vùng dậy đấu tranh bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ,
cuộc chiến đấu giữa vòng vây, nhưng vẫn giữ vững niềm tin chính nghĩa chiến thắng.
11. Phân tích ý nghĩa và kinh nghiệm lịch sử của Cách mạng Tháng Tám (1945)?
1. Ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám 1945
Đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong hơn 80 năm, chấm
dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế hàng nghìn năm và ách thống trị của phát xít Nhật.
Khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước của dân, do dân và vì
dân; nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; nhân dân Việt Nam từ thân
phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh của mình và làm chủ chính quyền Nhà nước.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp
trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. lOMoAR cPSD| 61457685
Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho
phong trào đấu tranh giành độc lập và chủ quyền.
Đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc, mở đầu thời kì sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Marx – Lenin và những sáng
tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
2. Cách mạng tháng Tám được gọi là “một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, vì:
– Tính chất dân chủ mới của Cách mạng tháng Tám năm 1945 thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân
chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít Nhật và bọn phong kiến phản động, tay
sai của phát xít Nhật, và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực
lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống phát xít xâm lược”.
Thứ hai, cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng
đông đảo nhất trong dân tộc.
Thứ ba, cuộc cách mạng thành công, chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Việt Nam đã được thành lập, xoá bỏ chế độ quân chủ phong kiến, các tầng
lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Thứ tư, cuộc cách mạng đã hoàn thành một bước cơ bản sự nghiệp giải phóng
con người Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp
và sự nỗ dịch về mặt tinh thần.
– Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
điển hình thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, cách mạng đã tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng là giải phóng dân tộc.
Thứ hai, lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc.
Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc”.
12.Theo anh (chị), thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở
Việt Nam có phải là sự may mắn? Vì sao? (NN Chủ quan và NN khách quan)
Thực tế lịch sử đã chứng minh: Cách mạng tháng Tám 1945 không phải “sự
ăn may” mà là sự kết quả đạt được sau những cố gắng nỗ lực cùng với sự nắm bắt thời cơ của Đảng.
1. Nguyên nhân khách quan -
Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và
quânĐồng minh đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, mất
hết tinh thần chiến đấu, Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Trong khi đó, quân đồng lOMoAR cPSD| 61457685
minh chưa kịp kéo vào Đông Dương, các thế lực thù địch đang cấu xé nhau tranh
giành quyền lực. Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ phát động tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi mau chóng, ít đổ máu. -
Chiến thắng của Hồng quân Liên xô và quân Đồng minh đã cổ vũ tinh
thầnvà niềm tin cho nhân dân ta.
2. Nguyên nhân chủ quan -
Có sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh với đường lối cách mạng, khoa học. Đảng ta có bề dày kinh nghiệm, đoàn kết,
thống nhất trong Đảng và toàn dân tộc, nắm bắt đúng thời cơ, kiên quyết, khôn khéo.
Đó là đường lối về giương cao ngọn cờ độc lập, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến; phát huy sức mạnh toàn dân tộc trên nền tảng
công – nông trí; triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; kiên quyết dùng
bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân
dân,... Đây cũng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của CMT8. -
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết và
thống nhất trong Mặt trận Việt Minh. Trong những ngày Tổng khởi nghĩa toàn Đảng,
toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hy sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lâp, tự do. -
Quần chúng có quá trình chuẩn bị đấu tranh lâu dài (15 năm) về đường
lối, chủ trương, sách lược, chiến lược, được tập dượt qua ba cao trào cách mạng rộng
lớn (Phong trào 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh; Phong trào dân chủ
1936-1939; Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945), tạo thành lực lượng chính trị
hùng hậu có lực lượng vũ trang làm nòng cốt thông qua các hình thức Mặt trận dân
tộc thống nhất qua từng thời kì ( Mặt trận dân tộc thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương - 1936, Mặt trận dân chủ Đông Dương – 1938, Mặt trận Việt Minh 1941,…),
chuẩn bị, xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn-Võ Nhai, Cao Bằng, chuẩn bị bộ
máy lãnh đoạ Tổng khởi nghĩa,…Với những điều kiện và sự chuẩn bị chu đáo, luôn
trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, nhân dân ta đã giành được chính quyền trong cả
nước mau lẹ, ít đổ máu
13.Phân tích nội dung đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng?
* Hoàn cảnh lịch sử
- Sự bội ước và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp:
Đảng và Chính phủ nước VN Dân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí hoà bình
thông qua việc kí kết hàng loạt các bản hiệp ước Sơ bộ, Tạm ước,..nhưng với dã tâm
cướp nước ta một lần nữa nên thực dân Pháp đã đem quân ra Bắc, liên tục khiêu lOMoAR cPSD| 61457685
khích và lấn chiếm qua hành động đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, triển khai đánh
chiếm Hà Nội, gây ra vụ thảm sát tại phố Yên Ninh, Hàng Bún.
Hành động ngang nhiên của Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình
thế không thể nhân nhượng thêm được nữa, vì nếu tiếp tục nhân nhượng thì nhân
dân ta sẽ mất độc lập hoàn toàn.
Lịch sử dân tộc lúc này đặt ra yêu cầu mới: đứng lên kháng chiến trên toàn
quốc để bảo vệ nền độc lập và thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám. –
Những thành tựu bước đầu trong hơn một năm xây dựng dưới chế độ
dânchủ cộng hoà: Mặc dù mới chỉ trong một thời gian ngắn (9/1945 – 12/1946) song
dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân ta đã tranh thủ thời gian hoà bình xây
dựng chế độ mới trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là cơ sở bước đầu để chúng ta
có điều kiện chuẩn bị sẵn sàng cho toàn quốc kháng chiến. –
Ngày 19/12/1946, vào lúc 20 giờ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đãquyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước. Ngay trong đêm ấy,
Hồ Chủ tịch đã ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, trở thành tiếng gọi của non
sông, đất nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và truyền thống đấu tranh bất khuất
“cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” của toàn dân tộc, là một bản cương lĩnh khái quát
ở trình độ cao, chứa đựng tư tưởng, đường lối đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam.
* Nội dung phương châm kháng chiến toàn quốc
-“Toàn dân kháng chiến”: Chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc là ND cơ
bản chỉ đạo toàn bộ đường lối quân sự của Đảng, nhằm đoàn kết toàn dân, động viên
nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước cho cuộc chiến tranh giành thắng lợi. –
“Toàn diện kháng chiến”: Chiến tranh là cuộc đụng độ toàn diện giữa
haibên tham chiến. Địch đánh ta trên tất cả các mặt, do đó ta cũng phải đánh địch
trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, trong đó quân sự là mặt
trận hàng đầu. Bên cạnh đó, tiến hành kháng chiến toàn diện sẽ giúp cho việc huy
động sức mạnh tổng hợp của các giai cấp, tầng lớp phù hợp với khả năng của mỗi
người trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. –
“Trường kì kháng chiến”: Do tương quan, so sánh lực lượng ban đầu
giữata và Pháp chênh lệch nên ta phải chủ trương đánh lâu dài, vừa đánh vừa xây
dựng và phát triển lực lượng, từng bước làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi
cho cách mạng. Tổng Bí thư Trường Chinh dự đoán cách mạng nước ta chia làm ba
giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công. Ba giai đoạn có mối quan hệ mật
thiết với nhau nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm.
− “Tự lực cánh sinh”: Trong bối cảnh các nước chưa công nhận nền độc lập
của nước ta và để đánh lâu dài, ta phải tự lực cánh sinh, không ngừng phát huy sức
mạnh của cả dân tộc đấu tranh vì nền độc lập, tự do, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ,
giúp đỡ của quốc tế.