









Preview text:
Đề cương Lịch Sử Đảng 2024.1
Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Quá trình tìm đường cứu nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, đẩy nhân dân ta vào cảnh nô
lệ, áp bức và bóc lột nhân dân ta đến cùng cực.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ ở cả 2 hệ tư
tưởng phong kiến ( Phan Đình Phùng ) và tư sản (Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu)
nhưng kết cục đều thất bại. VN rơi vào khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước.
Chứng kiến sự thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX,
vượt qua tầm nhìn của những người yêu nước đương thời, năm 1911, Người quyết
định ra nước ngoài tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc, hướng về phía Tây địa cầu.
Năm 1917, CMT10 Nga thành công đã tác động trực tiếp quá trình tìm đường cứu
nước của Người: giúp Người nhận ra rằng con đường cách mạng vô sản có thể giải
phóng dân tộc khỏi áp bức.
Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
gửi tới hội nghị Véc-xây bản yêu sách 8 điểm – đòi quyền lợi cho dân tộc VN. Tuy
không được chấp thuận, nhưng đây là đòn đầu tiên tấn công vào chủ nghĩa đế quốc,
gây tiếng vang lớn ở Pháp và trong nước.
Tháng 7/1920, sau khi đọc Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định chỉ có
cách mạng vô sản mới cứu được nước
Tháng 12/1920, việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp đánh dấu bước ngoặt
trọng đại trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: từ chủ nghĩa yêu nước đến
lập trường cộng sản và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động chuẩn bị về
tư tưởng - chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng CSVN
Về tư tưởng - chính trị cho thành lập Đảng CSVN
Mục đích: Bác tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin để hình thành con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc.
Nội dung: Thể hiện qua các tác phẩm, bài viết trong thời kỳ từ 1921-1927. Người đã
viết nhiều sách báo, tư liệu. Đặc biệt có các tác phẩm lớn như: Bản án chế độ thực dân
Pháp, Đường Kách mệnh, Báo người cùng khổ, Tạp chí thư tín quốc tế… để truyền bá
chủ nghĩa Mác Lê-nin và chỉ rõ con đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi theo.
Thông qua đó đã hình thành 1 hệ thống quan điểm:
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường Cách mạng vô sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - đó là mục tiêu và con đường đi lên của Cách mạng Việt Nam
Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên
toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp, nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa.
CMVN có mối liên hệ với CM vô sản ở chính quốc. Nhưng CMVN phải có tính chủ
động sáng tạo, không lệ thuộc vào CM chính quốc.
Về lực lượng Cách mạng : Công nông là gốc của cách mạng; tiểu tư sản, trí thức,
trung nông là bè bạn của công nông; do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng.
Đoàn kết quốc tế: CMVN là một bộ phận của CM thế giới nhưng CMVN phải có tính
tự lực tự cường. Đồng thời phải biết tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế
giới khi có điều kiện.
Phải có Đảng lãnh đạo: Đảng phải có học thuyết Cách mạng, đó là CN Mác-Lênin và
phải biết vận dụng học thuyết đó một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước.
Những quan điểm trên được Lãnh tụ và những chiến sĩ cách mạng tiên phong tích cực
truyền bá về nước đầu thế kỉ XX, trở thành ngọn cờ hướng đạo cho CMVN phát triển
theo CM vô sản, là nhân tố quyết định dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Vai trò của Lãnh tụ trong việc chuẩn bị về tổ chức cho thành lập Đảng
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước, con đường Cách mạng vô sản cho dân tộc VN,
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định “phải đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đưa họ ra đấu
tranh giành độc lập tự do”. Vì vậy:
- Tháng 6/1925, Bác sáng lập hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hội có vai trò:
Tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin sâu rộng trong phong trào công nhân, đặc
biệt thông qua phong trào “Vô sản hóa”.
Đào tạo đội ngũ cán bộ cho cách mạng.
Chuẩn bị về mọi mặt cho việc thành lập Đảng Cộng sản, đặc biệt thông qua phong trào
“ Vô sản hóa ” (1928 -1929)
Dưới ảnh hưởng của hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Chủ nghĩa Mác-lênin và
con đường giải phóng dân tộc của Người được truyền bá sâu rộng, dẫn tới ở Việt Nam
đã hình thành 3 tổ chức Cộng sản: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản
Đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Sau khi 3 tổ chức cộng sản ra đời hoạt động mạnh mẽ nhưng riêng rẽ, mất đoàn kết
gây bất lợi cho phong trào chung. − Trước tình hình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản. Hội nghị diễn từ ngày 3-7/2/1930 ở
Cửu Long, Hương Cảng, TQ.
Hội nghị đã quyết định bỏ mọi thành kiến xung đột cũ và thành thật hợp tác với nhau
trong một Đảng cộng sản duy nhất ở VN và đặt tên là Đảng cộng sản Việt Nam − Hội
nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều
lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Đảng CSVN ra đời đã:
Chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc,
Chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam Tạo cơ sở cho những bước nhày vọt của Việt Nam
Đảng CSVN ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa 3 yếu tố : Chủ nghĩa Mác Lenin kết
hợp với phao trào công nhân và phong trào yêu nước.
Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? Điểm khác của
luận cương chính trị tháng 10/1930 so với cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? Hoàn cảnh lịch sử
Cương lĩnh do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thống
nhất các tổ chức cộng sản (hay Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam) diễn ra
tại Cửu Long (Hồng Kông) vào tháng 2/1930 dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc,
được coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Tại hội nghị này, Đảng ta đã nhận định rằng: một Đảng thống nhất cần có cương lĩnh
thống nhất để định hướng cho toàn Đảng, toàn dân, trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
dân tộc và giai cấp, đưa cách mạng đến thắng lợi. Hội nghị đã thông qua các văn kiện:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của
ĐCSVN. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được tập hợp từ Chánh cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt, chương trình tóm tắt.’ Nội dung
Xác định đường lối, mục tiêu phương hướng chiến lược: Trên cơ sở phân tích tình
hình nước ta, Đảng chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”
Nhiệm vụ Cách Mạng: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập. Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ
cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc
giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí đầu Về kinh tế:
Thủ tiêu các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp của tư bản đế quốc chủ nghĩa
Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý
Thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo Miễn thuế cho dân nghèo
Mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo
dục theo công nông hóa,…
Nhiệm vụ CM: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Nam hoàn toàn độc lập. Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để
giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc được đặt ở vị trí đầu
Về kinh tế: i. Thủ tiêu các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lí ii. Thu hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo iii. Miễn thuế cho
dân nghèo iv. Mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông
giáo dục theo công nông hóa,…
Xác định lực lượng Cách mạng: Công nông là gốc của CM; tiểu tư sản, trí thức, trung
nông là bè bạn của công nông, do g/cấp công nhân lãnh đạo. Đối với những phần tử,
những người chưa rõ, phản CM thì ra sức thu phục hoặc trung lập họ.
Xác định phương pháp Cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng
bạo lực cách mạng, không thỏa hiệp.
Lãnh đạo cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đảng phải vững mạnh về tổ chức, phải có đường lối khoa học, phải liên hệ mật thiết
với nhân dân, được nhân dân ủng hộ. Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới, phải “liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần
chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp” Ý nghĩa
Lần đầu tiên CMVN có một cương lĩnh chính trị, tuy rất ngắn gọn nhưng tương đối
hoàn chỉnh, phù hợp với xu thế phát triển thời đại mới.
Thể hiện sự nhận thức, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác Lê nin vào thực tiễn
CMVN Đây là ngọn cờ tập hợp toàn dân và là cơ sở cho sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng.
Đây là vũ khí sắc bén của Đảng và nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh CM chống lại kẻ
thù của dân tộc và của giai cấp.
Đồng thời đó cũng là cơ sở cho việc đặt nền móng, hoạch định đường lối sau này của Đảng.
=> KL: Trải qua 90 năm cho đến nay Cương lĩnh vẫn còn nguyên giá trị Điểm khác với
luận cương Chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương
Luận cương tháng 10/1930 do Trần Phú soạn thảo và chủ trì, được thông qua tại hội
nghị TW Đảng lần thứ nhất, đã khẳng định những vấn đề cơ bản về chiến lược của CMVN
Luận cương có những điểm khác cơ bản so với cương lĩnh:
Chưa nêu ra được mâu thuẫn dân tộc. Từ đó chưa đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giành
lại ĐLDT làm nhiệm vụ ưu tiên, mà nghiêng về đấu tranh giai cấp, đặt nhiệm vụ
chống phong kiến lên làm nhiệm vụ hàng đầu.
Không đánh giá đúng khả năng làm CM của các giai cấp khác ngoài công nhân và
nông dân. Không lôi kéo mà phân hóa, cô lập tiểu tư sản, địa chủ vừa và nhỏ,… không
tạo nên tinh thần đại đoàn kết dân tộc
Không đề ra được chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp. Trong khi đó, Cương lĩnh
khẳng định rằng Đảng phải lôi kéo tuyệt đại nhân dân, công nhân và nông dân là
chính, những giai cấp khác có mặt tích cực phải lôi keo họ
Những điểm khác này là điểm hạn chế của luận cương so với cương lĩnh trong quá
trình lãnh đạo CMVN. Nguyên nhân của những điểm hạn chế này:
Do không hiểu rõ ràng về tình hình ở Đông Dương Nhận thức giáo điều về mối quan
hệ dân tộc và giai cấp
Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ khuynh hướng tả của Quốc tế cộng sản
⇒ Cả 2 văn kiện tuy có điểm khác nhau nhưng đều đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Đó là sự chuẩn bị tất yếu, đồng thời đóng vai trò là nền tảng cho việc xây dựng lí luận
tư tưởng đến ngày này. Tóm tắt thế này:
Sai lầm về nhiệm vụ cách mạng: ( nhiệm vụ sai )
Đặt nhiệm vụ chống phong kiến lên trước, chưa thấy mâu thuẫn dân tộc là gay gắt
nhất, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Sai lầm trong đánh giá các giai cấp khác: ( nhìn người sai )
Chỉ tin vào công - nông, phân hóa, cô lập tiểu tư sản, địa chủ vừa và nhỏ → không tạo
được khối đại đoàn kết dân tộc.
Không đề ra chiến lược liên minh dân tộc - giai cấp: ( không liên minh được )
Không xác định rõ việc lôi kéo giai cấp có mặt tích cực, trong khi Cương lĩnh lại nhấn
mạnh cần đoàn kết mọi lực lượng yêu nước, công - nông là chính.
Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa hội nghị trung ương 8 ( tháng 5/1941) của
Đảng Cộng sản Đông Dương Hoàn cảnh lịch sử
9/1939, Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ và lan rộng. Nhật đẩy mạnh chiến tranh
xâm lược, tấn công Trung Quốc rồi tiến sâu xuống Đông Dương ( 1940 ).
Tại Đông Dương, thực dân Pháp thực hiện chính sách khủng bố trắng nhằm đàn áp,
tiêu diệt phong trào cách mạng và thi hành chính sách thời chiến để vơ vét nhân lực,
tài lực, vật lực phục vụ cho chiến tranh.
Tháng 9/1940, Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp đầu hàng, câu kết với nhau thống trị,
bóc lột nhân dân, bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, thầu dầu phục vụ cho chiến tranh.
⇒ Khiến dân ta rơi vào cảnh cùng cực, “một cổ hai tròng
⇒ Sự áp bức của Nhật và Pháp đã làm mâu thuẫn dân tộc ta và đế quốc, phát xít Pháp -
Nhật ngày càng trở nên sâu sắc, hết sức gay gắt hơn bao giờ hết
⇒ Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Hội nghị 6 đã mở đầu chuyển hướng chỉ đạo chiến lược CM, đưa giải phóng dân tộc
lên làm nhiệm vụ hàng đầu.
HN7 khẳng định những chủ trương của hội nghị 6 và tiếp tục chiến lược đưa giải
phóng dân tộc lên hàng đầu.
Sau đó, hội nghị TƯ 8 đã diễn ra. Và sau 30 năm ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước hoạt động. Đến tháng 5/1941, hội nghị Trung ương 8
được Người chủ trì đã diễn ra, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối của CMVN sau hội nghị 6,7. Nội dung cơ bản
Xét về tính chất và quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 như một Đại hội toàn quốc
của Đảng. Nghị quyết Trung ương đã vạch ra những chiến lược căn bản cho con
đường cách mạng Việt Nam với những nội dung quan trọng:
Thứ nhất, nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp – Nhật bởi vì dưới hai tầng áp
bức Nhật – Pháp, quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong
không lúc nào bằng. ( mâu )
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương phải thay đổi chiến lược đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. (gác)
Thứ ba, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, thi hành chính sách dân tộc tự quyết; sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật, các dân
tộc trên cõi Đông Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng
thành lập một quốc gia tùy ý”. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi
nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn
kết ba dân tộc chống kẻ thù chung. (tự).
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày,
phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều có thể cùng
nhau tham gia vào mặt trận Việt Minh cứu nước, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước của chung cả toàn thể dân tộc. (dân)
Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân để khi thời cơ đến, với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một
cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, tiến tới tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong toàn quốc. (khởi)
⇒ KL: Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương
chiến lược đề ra từ Hội nghị TW lần thứ 6, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị