Đề cương ôn tập môn Luật La Mã | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Câu nói của ANGEN: Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu, sự thể hiện pháp lý những điều kiện sống và những xung đột trong xã hội trong đó thống trị tư hữu mà những nhà làm luật sau đó không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ CƯƠNG LUẬT LA
BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT LA
Lịch sử nhà nước La Mã cổ đại được chia thành 3 giai đoạn:
-TK V TCN- 510 TCN: quân chủ chuyên chế (hoàng đế đứng đầu).
-510 TCN-27 TCN: Nghị viện La hoặc Cộng Hòa La (1 tập thể 10 người đứng đầu).
27 TCN- TK VI SCN: Quân chủ độc đoán, vị hoàng đế JUSTINIAN : NỔI TIẾNG, NHÀ LẬP
PHÁP VĨ ĐẠI.
1.
Khái niệm luật La Mã:
Thuật ngữ luật La được hiểu dưới rất nhiều nghĩa khác nhau:
- luật pháp của nhà nước La cổ đại kéo dài trong suốt 13 TK từ TK VII TCN- TK VI SCN.
- truyền thống luật La trong lịch sử luật pháp Châu Âu dựa trên bộ luật JUSTINIAN.
-Được hiểu là luật thông dụng (thành văn) được áp dụng vào thời kỳ trung cổ ở hầu hết các nước
Châu Âu.
-Luật La khoa học về luật La Mã, 1 môn học trong hầu hết các trường đại học luật trên
thế giới.
-Được hiểu chủ nghĩa La Mã ROMANISM như là 1 trường phái luật pháp theo xu hướng bảo
tồn những nguyên tắc và giá trị của luật La Mã.
-Câu nói của ANGEN: Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất dựa trên cơ sở hữu,
sự thể hiện pháp những điều kiện sống những xung đột trong hội trong đó thống trị
hữu mà những nhà làm luật sau đó không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn.
2.
Hệ thống luật La Mã:
-Dựa vào chủ thể áp dụng:
Luật La được chia làm 2 loại: +Jus civilis: luật chỉ áp dụng cho những người là công dân La
Mã (ở La Mã 98% là nô lệ, còn lại là công dân).
+Jus GENTIUM: là luật chung được áp dụng bắt đầu từ TK thứ III SCN.
-Dựa vào phạm vi điều chỉnh:
+Jus publicum: luật công hay công pp.
+Jus privatum: luật hay pp.
3.
NGUỒN CỦA LUẬT LA
5 loại nguồn:
-Tập quán pháp:tập quán được công nhận là nguồn của luật La Mã, những xử sự của xã hội La
được áp dụng rộng rãi, phổ biến phù hợp vói lợi ích của nhà nước (hoàng đế) nên được nhà
nước thửa nhận và trở thành quy tắc xử sự bắt buộc chung cho tất cả mọi người.
-Các văn bản pháp luật: do quan nhà nước ban hành, các văn bản này thể gồm nhiều điều
luật hoặc cũng thể chỉ 1 điều luật để điều chỉnh những quan hệ trong hội tiêu biểu các
văn bản sau đây:
+Thế kỷ thứ V TCN 50 văn bản về hợp đồng(chưa có hợp đồng bảo hiểm)
+Thế kỳ thứ IV TCN các văn bản về giải phóng hủy bỏ việc mua bán lệ, xóa nợ nếu
chủ nợ đánh chết con nợ.
+Thế kỷ thứ III TCN có văn bản về bổi thường thiệt hại
+Thế kỷ I TCN văn bản về hạn chế khước từ thừa kế theo di chúc.
+Sau CN các hệ thống hóa pháp luật của các hoàng đế La Mã.
-“Hiến pháp”: đây những quyết định tồi cao của hoàng đế, những quyết định này thể hủy bỏ
bất kỳ văn bản pháp luật nà, hoàng đế có các quyết định sau:
+Chiếu chỉ: Cho tất cả thường dân
+Sắc chỉ (chỉ thị): giải quyết từng việc cụ th.
+Sắc dụ (lệnh): áp dụng cho các quan.
+Sắc lệnh: giải quyết những vụ việc cụ thể.
-Quyết định của quan tòa, quan chấp chính: trong quá trình giải quyết c tranh chấp phát sinh
trong thực tế chưa quy phạm pháp luật điều chỉnh thì quan tòa, quan chấp chính quyền
ra quyết định theo ý chí chủ quan của mình nhưng phải phù hợp với tập quán lợi ích của
hoàng đế, những quyết định này trở thành quy tắc xử sự mang nh bắt buộc chung cho tất cả mọi
người.
-Hoạt động của luât gia La : GAI, PAVEL, MODESTIN, ULPIAN, PAPINIAN, các luật
gia La Mã có 2 loại hoạt động:
+Hoạt động thực tiễn bao gồm hoạt động vấn pháp luật cho công dân, đại diện cho công dân
tranh tụng hoặc các dịch vụ khác: viết di chúc, soạn thảo hợp đồng.
+Hoạt động sáng tạo pháp luật bao gồm các công trình nghiên cứu , các bài viết giải thích pháp
luật, xây dựng các dự án luật: tiêu biểu các tác phẩm sau đây: tuyển tập giải thích pháp luật
của các luật gia, sách giáo khoa của trường trung cấp luật La Mã, tuyển tập về hỏi đáp pháp luật
của các luật gia.
-Hệ thống hóa các văn bản pháp luật của các hoàng đế La Mã (pháp điển a).
Năm 523 Hoàng đế JUSTINIAN thành lập ra hội đồng vấn gồm các giáo luật nổi tiếng để
tập hợp các văn bản pháp luật từ TK VII TCN, hội đồng vấn gồm 2 bộ phận, 1 bộ phận hệ
thống hóa các văn bản pháp luật, 1 bộ phận hệ thống hóa các công trình của luật gia La Mã, công
việc bắt đầu từ năm 528, kết thúc vào năm 534 SCN, Hoàng đế JUSTINIAN đua ra 3 quan điểm
về hệ thống pháp luật:
+Rõ ràng về nội dung
+Chuẩn xác về khái niệm
+Dễ áp dụng
Năm 534 Hoàng đế JUSTINIAN ban hành đạo luật bảo tồn hệ thống gồm 12 tuyển tập, những
hệ thống này bao gồm các quy phạm pháp luật La hoàn chỉnh được áp dụng đến TK X, từ
TK XI-XV mới bắt đầu có sửa đổi, bổ sung.
Những hệ thống này sở luật pháp của nhà nước Ý hiện đại ảnh hưởng cùng sâu
rộng đến hệ thống pháp luật của hầu hết các nước trên Thế giới.
BÀI 2: CHỦ THỂ CỦA LUẬT LA
I.
KHÁI NIỆM.
- Chủ thể của luật La rất hạn chế địa vị pháp của các chủ thể không bình đẳng.
- Chủ thể của luật La những người trực tiếp tham gia vòa các quan hệ bản thân họ
các quyền và nghĩa vụ từ quan hệ đó đồng thời họ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình.
-Chủ thể gồm năng lựpháp luật và năng lực hành vi.
+Năng lực pháp luật :( khả năng quyền và nghĩa vụ)
Người năng lực pháp luật phải hội tụ 3 điều kiện sau đây:
1) STATUS LIBERATIS :tự do
2) STATUS CIVITATIS :công dân
3) STATUS FAMILIAL : gia ch.
+Năng lực hành vi:
khả năng của 1 người bằng hành vi của chính mình xác lập thực hiện quyền nghĩa vụ,
pháp luật La ã chia năng lực hành vi thành 3 mức độ dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức:
1) Không có năng lực hành vi: tất cả những người dưới 7 tuổi những người bị điên là
những người không năng lực hành vi, những người này không được phép tham gia
vào các giao dịch kể cả các giao dịch có lợi cho họ trừ thừa kế.
2) Năng lực hành vi 1 phần: nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi, những người này
được tham gia vào các giao dịch lợi cho mình không phải gánh chịu nghĩa vụ
nhưng đối với các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài
sản thì phải được sự đồng ý của người giám hộ.
3) Năng lực hành vi toàn phần: nữ từ 12 tuổi, nam từ 14 tuổi trở lên không bị điên
đến 25 tuổi, về nguyên tắc đây những người năng lực hành vi toàn phần
nhưng nếu họ vẫn phụ thuộc vào gia chủ thì khi thực hiện các giao dịch làm phát sinh
nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì vẫn phải có sự đồng ý của gia chủ.
II.
ĐỊA VỊ PHÁP CỦA CÔNG DÂN LA .
-Công dân La những người quốc tịch La Mã, quốc tịch La được xác lập trong
các trường hợp sau:
+ Sinh ra từ công dân La Mã.
+ Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã.
+ Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài.
- Công dân La đầy đủ các quyền về nhân thân tài sản các quyền chính trị
trong 1 số trường hợp quốc tịch La bị tước đối với những người phạm trọng tội, bị
kết án tù chung thân hoặc tử hình, bị xung vào làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
III.
NGƯỜI LATINH NGƯỜI NGOẠI QUỐC.
-Người La người LaTinh sống gần nhau nhưng nhà nước của người La Mã xuất hiện
sớm hơn , TK thứ II TCN La bị quân Phổ m lược vậy người La phải liên minh
với người LaTinh để chống lại quân Phổ, dần dần sau đó nhà nước La cho phép người
LaTinh nhập quốc tịch La Mã, người LaTinh cũng giống như người ngoại quốc sống trên
lãnh thổ La nếu không quốc tịch thì bị tước mất quyền dân sự quan trọng nhất, đó
quyền định đoạt bất động sản và các quyền chính trị, bầu cử, ứng cử.
- Từ TK III SCN luật pháp La công nhận tất cả những người LaTinh, người ngoại quốc
sống trên lãnh thổ La Mã đều là công dân La Mã.
IV.
NÔNG ĐIỀN
-Về nguyên tắc những người tự do, điền những người nhà cửa nhưng không
ruộng đất nên phải thuê đất nộp thuế, nông những lệ được giải phóng nhưng
không tài sản, không ruộng đất nên phải làm thuê cho chủ hoàn toàn phụ thuộc
vào chủ cũ, không được thưa kiện và phải cấp dưỡng trong trường hợp chủ cũ bị phá sản.
V.
“PHÁP NHÂN
- Sự phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa, xã hội đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới
cùng với sự xuất hiện của đạo thiên chúa trên lãnh thổ La Mã, xuất hiện nhiều nhà thờ
nhiều công trình xây dựng khác: rạp hát, nhà trọ, các nghiệp đoàn mai tán , các tổ chức này
tài sản riêng, tổ chức riêng, tên gọi riêng và nhân danh tên mình tham gia vào các quan hệ.
BÀI 3: VẬT QUYỀN
I.KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI TÀI SẢN
Đối với người La tài sản không chỉ những vật chất mang lại lợi ích cho cuộc sống con
người mà còn có ý nghĩa xã hội.
II. KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI VẬT QUYỀN.
1.
KHÁI NIỆM
-Vật quyền khác trái quyền( vật quyền quyền đối vật còn trái quyền là quyền đối nhân)
-Vật quyền quyền của 1 chủ thể thông qua hành vi của chính mình tác động vào tài sản theo ý
chí của mình mà không bị phụ thuộc ý chí của người khác nhằm thỏa mãn lợi ích của bản than.
-Trái quyền là quyền của chủ thể được thực hiện thông qua hành vi của chủ thể khác.
2.
PHÂN LOẠI.
3 loại vật quyền:
-Chiếm hữu
-Quyền sở hữu
-Quyền đối với tài sản của người khác
III. CHIẾM HỮU( POSSESSIO)
-Cần phải phân biệt chiếm giữ thực tế với chiếm hữu bởi vì không phải mọi sữ chiếm giữ thực tế
đều chiếm hữu, chiếm hữu phải thỏa mãn 2 điều kiện: thực tế chiếm giữ ý chí chiếm giữ
(coi tài sản như là của mình).
-Chiếm hữu là nắm giữ, quản lý, chi phối tài sản theo ý chí của mình, không phụ thuộc vào ý chí
của người khác, coi tài sản đó như là của mình.
-Các loại chiếm hữu: hợp pháp và bất hợp pháp, bất hợp pháp gồm có bất hợp pháp ngay tình
bất hợp pháp không ngay tình :
+Bất hợp pháp ngay nh việc 1 người thực tế chiếm hữu vật bất hợp pháp nhưng không biết
không thể biết sự chiếm hữu của mình là không có căn cứ.
+Bất hợp pháp không ngay tình việc 1 người thực tế chiếm hữu tài sản không căn cứ biết
hoặc buộc phải biết sự chiếm hữu của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình chiếm hữu.
IV. QUYỀN SỠ HỮU
-Sở hữu quan hệ trọng tâm, quan hệ hạt nhân của mọi quan hxã hội, đối với người La
quyền sở hữu quyền tối cao của 1 chủ thể trong xã hội, các nhà làm luật La không đưa ra 1
khái niệm chính xác về quyền sở hữu mà chỉ nêu ra những quyền năng của 1 chủ sở hữu.
- các loại quyền năng: +JUS UTENDI: QUYỀN SỬ DỤNG
+JUS FRUENDI:THU NHẬP THÀNH QUẢ
+JUS POSSIDENDI: CHIẾM HỮU
+JUS ABUTENDI: QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SN.
+JUS VINDECANDI: KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
-Căn cứ phát sinh quyền sở hữu: +Có 2 căn cứ làm phát sinh quyền sở hu:
1.
Nguyên sinh( tự nhiên): quyền sở hữu của 1 chủ thể được xác lập không phụ thuộc vào
quyền sở hữu đối với đồ vật trước đó.
2.
Phái sinh(kế tục): là căn cứ mà theo đó quyền sở hữu của 1 chủ thể được phát sinh theo ý chí của
chủ sở hữu đồ vật trước đó.
V. QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA NGƯỜI KHÁC( JUSA IN RE ALIENA)
-Là quyền của 1 chủ thể không phải là chủ sở hữu tài sản nhưng có quyền sử dụng hoặc hưởng dụng
những lợi ích tài sản đó.
-Được thể hiện dười thuật ngữ: SERVITUS (QUYỀN DỤNG ÍCH) XUẤT PHÁT TỪ KHÁI
NIỆM SERVIS(DỊCH VỤ)
-Luật La chia quyền dụng ích thành 2 loi:
+SERVITUS PRA EDIORUM( QUYỀN DỤNG ÍCH ĐẤT ĐAI HAY QUYỀN ĐẠI DỊCH)
bao gồm đất nông nghiệp và đất gồm các quyền:
a.
Quyền lối đi qua
b.
Quyền dẫn nước, thoát ớc
c.
Quyền lất ánh sáng, không khí
d.
Quyền được chăn dắt gia súc đi qua đất của người khác.
e.
Quyền được lợi dụng tường nhà của người khác để xây nhà mình.
f.
Quyền được sử dụng bong râm của người khác.
g.
Quyền được sang đất người nhàn cạnh để thu nhặt hoa quả.
+SERVITUS PERSONARUM: quyền dụng ích nhân hay quyền được sử dụng tài sản của
người khác suốt đời: các bên thể thỏa thuận cho 1 người được sử dụng tài sản cho đến khi
chết, họ được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản nhưng không được bán hoặc để lại thừa kế, pháp
luật cũng có quy định 1 số người không có quyền sở hữu nhưng được sử dụng tài sản suốt đời.
BÀI 4: NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG
I.NGHĨA VỤ-OBLIGATIO
1.
KHÁI NIỆM NGHĨA VỤ
-Theo quan điểm của hoàng đế JUSTINIAN nghĩa vụ những ràng buộc pháp theo đó
chúng ta buộc phải làm 1 việc gì đó phù hợp với lợi ích của nhà nước chúng ta.
-Luật gia PAVEL cho rằng bản chất của nghĩa vụ không phải chỗ đem lại cho chúng ta 1 vật
hay 1 dụng ích ( SERVITUS) mà là buộc 1 người nào đó phải chuyển giao 1 vật hay là 1 việc gì
đó cho chúng ta.
-Nghĩa vụ 1 quan hệ giữa 2 hay nhiều người trong đó 1 bên có quyền yêu cầu bên kia phải
làm 1 việc hoặc không được làm 1 việc để đáp ứng nhu cầu của mình.
2.
PHÂN LOẠI NGHĨA VỤ
-Luật gia GAI cho rằng nghĩa vụ đươc phát sinh hoặc là từ sự thỏa thuận hoặc là sự vi phạm, học
thuyết của hoàng đế JUSTINIAN phân chia nghĩa vụ thành 4 loại:
+EX CONTRACTU: nghĩa vụ phát sinh sự thỏa thuận(hợp đồng), khế ước :2 hay nhiều chủ thể
thỏa thuận với nhau và làm phát sinh 1 quan hệ nghĩa vụ.
+EX DELICTO: nghĩa vụ phát sinh từ vi phạm, do gây ra thiệt hại nếu 1 người hành vi gây
thiệt hại cho người khác về thiệt hại cho người khác về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của người khác thì nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại khắc phục những hậu
quả do hành vi của mình gây ra.
+QUASI EX CONTRACTU: nghĩa vụ phát sinh như từ thỏa thuận, chuẩ khế ước,chuẩn hợp
đồng: thuật ngữ này dùng để chỉ những loại nghĩa vụ không phát sinh từ hợp đồng nhưng vểnh
chất và nội dung thì giống với loại nghĩa vụ này, các loại nghĩa vụ này có thể là :
Thực hiện công việc của người khác không sự ủy quyền
Được lợi tài sản không căn cứ
+QUASI EX DELICTO: nghĩa vụ phát sinh như từ vi phạm, như gây ra thiệt hại, chuẩn vi
phạm: khi 1 người hành vi hoặc tài sản đe dọa gây thiệt hại (chưa gây ra thiệt hại) về tính
mạng, tài sản, sức khỏe của người khác thì người bị đe dọa đó quyền yêu cầu quan tòa phạt
người hành vi, tài sản đe dọa đó 1 số tiền nhất định, số tiền phạt tối đa lên tới 50 nghàn Ao-
.
3.
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
Thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn: 1.từ phía con nợ( người có nghĩa vụ)
2.từ phía chủ nợ( người có quyền)
-Việc con nợ chậm trễ thực hiện nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm nặng hơn nếu chủ nợ
không đốc thúc con nợ trong 1 số trường hợp không cần đến sự đốc thúc con nợ.
+Nếu đã thỏa thuận 1 ngày chính xác thì bản thân nó đã sự đốc thúc con nợ rồi.
+Kẻ trộm luôn luôn bị coi là chậm tr
-Việc chậm trễ thực hiện nghĩa vụ từ phía con nợ dẫn đến 1 số hậu quả pháp lý:
+Phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do sự châm trễ gây ra
+Nếu giá của đối tượng nghĩa vụ tăng thì con nợ phải trả cho chủ nợ phần tăng thêm đó.
+Nếu con nợ mang toàn bộ lợi nhuận thu được trả cho chủ nợ thì sẽ được giải phóng khỏi
trách nhiệm do chậm trễ thực hiện nghĩa vụ.
+Đối với ăn trộm thì phải trả giá gấp đôi.
-thời kỳ đầu luật pháp La thậm chí còn cho phép con nợ vứt bỏ đồ vật vay nợ nếu chủ
nợ không tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn đỉa điểm như đã thỏa thuận, về
sau này trong trường hợp sự chậm trễ từ phía chủ nợ luật pháp cho phép con nợ thể
giao đồ vật vay nợ cho nh2 thờ hoặc quan tòa.
4.
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
-hậu quả xấu đối với các bên khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
của mình, trách nhiệm dân sự chủ yếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nghĩa sự
cưỡng chế vật chất nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu và khắc phục hậu quả xảy ra.
-Việc bồi thường thiệt hại phát sinh hội tụ 2 điều kiện:thiệt hại thực tế và lỗi.
-Theo các luật gia La thiệt hại bao gồm những mất mát thực tế về tài sản( tài sản bị tiêu
hủy, mất mát, giảm sút) những lợi nhuận bị mất: những tài sản chắc chắn thu được
trong những điều kiện bình thường.
-Các luật gia La cũng đề cập đến những thiệt hại về tinh thần( lo lắng, sợ hãi, đau đn)
-Trong chế định bồi thường thiệt hại luật La rất chú trọng đến vấn đề lỗi, mức độ lỗi ảnh
hưởng đến phạm vi bồi thường, luật La Mã chia lỗi thành 2 loại:
+Lỗi DOLUS( lỗi cố ý):là biết sai nhưng vẫn cố tình thực hiện mong muốn hậu quả xảy
ra.
+Lỗi CULPA( lỗi ý):được chia làm 2 loại: ý nặng ý nhẹ.Vô ý nặng việc khi
thực hiện hành vi người đó không hiểu, không thấy những điều mà 1 người bình thường phải
hiểu, phải thấy. ý nhẹ khi thực hiện hành vi người đó không thể hiện được mình
người chủ tốt đối với tài sản hoặc công việc nghĩa quan tâm đến tài sản, công việc
nhưng sự quan tâm chưa đúng mức.
-Lỗi cố ý và vô ý nặng luôn luôn phải bồi thường thiệt hại, lỗi vô ý nhẹ thể không phải bồi
thường.
-Luật La Mã quy định không xác định loại thiệt hại phát sinh do sự vô tâm, kém cỏi, ngu dốt
của người bị thiệt hại.
BÀI 5:QUYỀN THỪA KẾ-HERDITAS
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.
KHÁI NIỆM
-Thừa kế sự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống
-Quyền thừa kế quyền của 1 người được để lại toàn bộ tài sản của mình cho người khác
sau khi chết, quyền được thừa hưởng tài sản của người chết, pháp luật La cho phép 1
người được quyền hưởng tài sản của người chết( di sản) đồng thời buộc họ phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người chết.
2.
NGƯỜI THỪA KẾ
-Người thừa kế phải còn sống vào thời điểm hưởng thừa kế , nếu “người thừa kế” thai nhi thì
phải được sinh ra trước 10 tháng sau khi người để lại di sản chết.
3.
DI SẢN THỪA KẾ
Bao gồm: -tài sản riêng của người chết
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác
III.THỪA KẾ THEO DI CHÚC (TESTATO)
1.
KHÁI NIỆM’
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi
chết.
2.
CÁC ĐIỀU KIỆN HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC
-Người lập di chúc phải khả năng lập di chúc, phải minh mẫn, sáng suốt tại thời điểm lập di
chúc.
-Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức, hội.
-Hình thức của di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật.:1. Chúc ngôn(lời nói):ít nhất 7
người làm chứng
2.Chúc thư( văn bản): phải xác nhận của quan tòa, quan chấp chính.
-Luật pháp La Mã chỉ công nhận những di chúc có điều kiện phát sinh không công nhận những
di chúc điều kiện đình chỉ bởi di chúc điều kiện đình chỉ sẽ chống lại nguyên tắc:
SEMEL HERES, SEMPER HERES (người được chỉ định người thừa kế, mãi mãi người
thừa kế).
-Di chúc phải chỉ định người nhận di sản, đối với các con phải ghi ai được nhận ,ai bị truất
quyền thừa kế mà không được phép im lặng bỏ qua.
3NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI
DUNG DI CHÚC( KỶ PHẦN BẮT BUỘC)
-thời kỳ đầu luật pháp La Mã tuân thủ nguyên tắc gia chủ chia như thế nào thì sẽ được như
thế đó”.
-Trong trường hợp các con bị truất quyền thừa kế thì họ được hưởng kỷ phần bắt buộc không
phụ thuộc vào nội dung di chúc như sau:
+Nếu 1 suất thừa kế được chia <= 1/4 tổng di sản thì 1 kỷ phần bắt buộc =1/2 1 suất thừa kế.
+ Nếu 1 suất thừa kế được chia >1/4 tổng di sản thì 1 kỷ phần bắt buộc =1/3 1 suất
thừa kế.
dụ:
1.
A 4 đứa con B, C, D,E lập di chúc cho B,C ,truất quyền thừa kế của D, E , biết A
90 as.
D, E được hưởng kỷ phần bắt buộc.
1 suất thừa kế= 1/4. 90=22.5
D=E= 11,5 AS
2 .A 3 đứa con B, C, D, lập di chúc cho B,C còn D bị truất biết A 90 as.
1 suất thừa kế:90/3=30>1/4. 90
Vậy D được 1/3.30=10 as
B=C=(90-10)/2=40 as
4.
DI TẶNG( LEGATA)
- phần di sản người để lại thừa kế dành để tặng cho người khác.
-Người được nhận di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trừ trường
hợp di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ.
-Di tặng không tính vào khối di sản để chia thừa kế.
-Di tặng không được quá ¼ tổng tài sản.
III. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT( INTESTATO)
- sự phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật dựao hàng thừa kế.
+Các con( các cháu nếu các con chết)
+Bố mẹ(nếu cha mẹ chết) thì ông bà nội ngoại
+Anh chị em cùng cha cùng mẹ
+Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha
+Họ hàng tính theo nhánh ngang, từ gần đến xa từ nội đến ngoại trong phạm vi 6 đời.
+Trong trường hợp không những người nêu trên thì quan tòa thể quyết định cho vợ được
hưởng 1 phần di sản thừa kế.
Tài liệu sưu tầm:
Quyền thừa kế trong luật La cổ đại
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 4.2001
QUYỀN THỪA KẾ TRONG LUẬT LA CỔ ĐẠI
N
GUYỄN ĐÌNH HUY
TS. Giảng viên Khoa Luật Dân sự - ĐH Luật TP.HCM
Khái niệm luật La rất rộng, được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. dụ luật La Mã
truyền thống luật La Mã trong lịch sử pháp luật châu Âu, dựa trên Bộ Luật Justinian; luật La
còn được hiểu là luật thông dụng (Ius Commune) được áp dụng hầu hết các nước châu Âu ;
luật La Mã còn một trường phái luật pháp theo xu hướng bảo tồn những nguyên tắc của luật
La Mã… Thế nhưng khi nhắc đến khái niệm luật La chúng ta phải hiểu rằng đó luật pháp
của nhà nước La cổ đại kéo dài suốt 13 thế kỷ (từ thế kỷ VII trước Công nguyên đến thế kỷ
VI sau Công nguyên). Những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật của nhà nước
La một trong những công trình văn hóa đại nhất trong lịch sử nhân loại, thể so sánh
với Kim tự tháp của Ai Cập, Vạn trường thành của Trung quốc… Theo Ăng- ghen: “Luật La
Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất dựa trên sở tư hữu. Sự thể hiện pháp những điều
kiện sống những xung đột hội trong đó thống trị hữu những nhà làm luật sau đó
không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn…”.
Cho đến ngày nay, người ta vẫn luôn đặt ra câu hỏi tại sao kỹ thuật xây dựng luật pháp của các
luật gia La Mã lại hoàn thiện đến mức khó tin như vậy. Chỉ lấy một dụ trong phần hợp đồng
thì so với luật pháp hiện đại người ta chỉ thấy thiếu một loại hợp đồng duy nhất, đó hợp đồng
bảo hiểm.
Sẽ không thái quá khi nói rằng luật La Mã sở, nền tảng của pháp luật hầu hết các nước
trên thế giới đối với những nhà làm luật, những người nghiên cứu luật pháp thì việc nghiên
cứu luật La điều gần như không thể bỏ qua. Gomsten cho rằng: “Nghiên cứu luật pháp
phải bắt đầu từ luật La Mã, bởi vì nếu không nghiên cứu luật La thì tổn phí biết bao công sức
một cách vô ích để tìm thấy cái mà người ta đã tìm thấy từ lâu”.
Nói đến luật La chúng ta không thể không nhắc tới Luật XII bảng, Bộ Luật Justinian, tên tuổi
các luật gia La Mã nổi tiếng như Gai, Pavel, Ulpian, Modestin, Papinian và Hoàng đế Justinian.
Khái niệm luật “dân sự” La rộng hơn so với khái niệm luật dân sự Việt Nam, bao gồm cả tố
tụng dân sự, hôn nhân gia đình. Luật dân sự La bao gồm nhiều chế định khác nhau như sở
hữu, nghĩa vụ hợp đồng, thừa kế, thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi tài sản không
có căn cứ… Trong đó, thừa kế là một chế định rất quan trọng.
Thừa kế (hereditas):
Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống”.
Quyền thừa kế quyền thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật
quy định.Pháp luật cho phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải
thực hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết.
Luật La quy định hai hình thức bản thừa kế theo di chúc (testato) thừa kế theo luật
(intestato), ngoài ra còn thừa kế theo lệnh của các quan. thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu
thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
Thời điểm mở thừa kế:
thời điểm người tài sản chết. Việc xác định thời điểm mở thừa kế ý nghĩa rất quan trọng
trong việc xác định khối di sản của người chết để lại; xác định sự gia tăng hay giảm sút di sản để
xác định trách nhiệm cho người bảo quản, xác định thời hiệu khởi kiện (3 năm).
Di sản thừa kế:
Bao gồm khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết các quyền tài sản của người chết
chưa thực hiện (quyền thừa kế, quyền đòi nợ). Một vấn đề rất quan trọng là theo luật La Mã, các
nghĩa vụ về tài sản của người chết không phải là di sản thừa kế. dụ A chết để lại tài sản100
aosơ (as), A nợ B 30 aosơ, vậy di sản thừa kế của A là: 100 – 30 = 70 aosơ.
Người thừa kế:
những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, nếu “người thừa kế” thai nhi thì phải
được sinh ra sau khi người để lại tài sản chết 300 ngày (10 tháng). Luật XII bảng quy định: “Tôi
được biết rằng khi người đàn bà sinh đẻ vào tháng thứ mười một sau khi chồng chết thì (ở đó)
việc dường như người đàn thai sau khi chồng chết, bởi Ủy ban mười người đã ghi rằng
con người sinh ra vào tháng thứ mười chứ không phải vào tháng thứ mười một (bảng IV)”.
Người thừa kế quyền sở hữu tài sản thừa kế, nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của người chết
trong phạm vi di sản được hưởng, có quyền từ chối không nhận di sản.
Thừa kế theo di chúc (testato):
Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi
chết. Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc sự thể hiện ý chí của chúng ta ý chí đó được thực
hiện sau khi chúng ta chết”.
Luật La quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ qua” đối với hàng thừa kế thứ
nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im lặng bỏ qua” thì di chúc hiệu mặc tuân
thủ đầy đủ các điều kiện khác. dụ ông A ba người con B, C, D, ông để lại di chúc với
nội dung: “Tôi cho hai con tôi B C mỗi đứa một nửa tài sản không ghi “truất quyền
thừa kế của Dthì di chúc hiệu đã im lặng bỏ qua D. Nếu A chết tài sản sẽ được chia theo
luật cho B, C, D.
Người lập di chúc quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào. Nếu người
lập nhiều di chúc thì di chúc sau giá trị hơn di chúc trước. Luật La quy định khá chặt chẽ
các điều kiện để một di chúc hiệu lực như: người lập di chúc phải khả năng lập di chúc
(con gái từ 12 tuổi, con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội); hình
thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết phải được quan tòa, quan
chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải bảy người làm chứng, người thừa kế phải được chỉ
định ràng, chính c); người được chỉ định trong di chúc phải người khả năng trở thành
người thừa kế (thai nhi sinh vào tháng thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn từ 20 đến
50 tuổi mà không lập gia đình thì không được hưởng thừa kế…).
Một nguyên tắc quan trọng của luật La thừa kế Semel heres, semper heres người được
chỉ định người thừa kế sẽ vĩnh viễn người thừa kế. Điều này nghĩa luật pháp chỉ công
nhận di chúc điều kiện phát sinh, không công nhận di chúc điều kiện đình chỉ. dụ một di
chúc nội dung sau: “Tôi không cho con tôi M hưởng tài sản nếu không thi đậu vào
trường Trung cấp pháp La Mã”. Trường hợp này, M vẫn người được hưởng di sản thừa kế
bởiđiều kiện trong di chúc điều kiện đình chỉ (chấm dứt) trái với nguyên tắc “người thừa kế
là vĩnh viễn”.
Một vấn đề trong hầu hết pháp luật dân sự của các nước quy định được xuất phát từ luật
La Mã việc quy định những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
(hay còn gọi kỷ phần bắt buộc). thời kỳ đầu (thời kỳ Cộng hòa La khai) thì gia chủ
chia tài sản như thế nào thì sẽ như thế (Unti legassit super pecunia tutelave suae rei ita ius
esto). Nhưng dần dần về sau đối với những người hàng thừa kế thứ nhất nếu bị người lập di
chúc truất quyền thừa kế thì sẽ được hưởng một kỷ phần bắt buộc.
Thời kỳ đầu, kỷ phần bắt buộc bằng ¼ một suất thừa kế nếu chia theo luật. Ví dụ A có hai con
B và C, A di chúc cho B toàn bộ tài sản, truất quyền thừa kế của C, vậy nếu A chết thì tài sản của
A sẽ được chia như sau (giả sử A có 100 aosơ):
Một suất thừa kế 100 : 2 = 50 aosơ
C sẽ được hưởng ¼ 50 aosơ = 12,5 aosơ, B được hưởng: 100 12,5 = 87,5 aosơ.
Dưới thời Hoàng đế Justinian việc phân chia kỷ phần bắt buộc rất chi tiết với nguyên tắc sau: nếu
như một suất thừa kế được chia lớn hơn ¼ di sản thừa kế thì kỷ phần bắt buộc 1/3 một suất
thừa kế; nếu như một suất thừa kế nhỏ hơn hoặc bằng ¼ giá trị di sản thì kỷ phần bắt buộc bằng
½ một suất thừa kế.
thể diễn giải như sau: nếu người chết số con nhỏ hơn 4 (1, 2, 3) thì một kỷ phần bắt buộc
bằng 1/3 một suất thừa kế. Còn nếu người đó 4 con trở lên thì một kỷ phần bắt buộc bằng ½
một suất thừa kế.
- dụ 1: A 3 con B, C, D. A di chúc cho B toàn bộ 900 aosơ, C D bị truất quyền thừa
kế. Đầu tiên ta phải xác định một suất thừa kế nếu chia theo luật = 900 : 3 = 300 aosơ. một
suất thừa kế 300 aosơ lớn hơn ¼ di sản (1/4 di sản bằng 900 : 4 = 225 aosơ) nên C , D mỗi
người sẽ được hưởng 1/3 một suất thừa kế = 1/3 x 300 = 100 aosơ, B được hưởng: 900 (100 +
100) = 700 aosơ.
- dụ 2: A 6 con B, C, D, E, G, H; A di chúc cho B toàn bộ 900 aosơ, những người còn lại
bị truất quyền thừa kế.
Một suất thừa kế 900 : 6 = 150 aosơ. một suất thừa kế nhỏ hơn ¼ di sản (225 aosơ) nên một
kỷ phần bắt buộc ½ x 150 = 75 aosơ. Vậy C, D, E, G, H mỗi người được hưởng 75 aosơ; B
được hưởng: 900 – (75 x 5) = 525 aosơ.
Một nguyên tắc quan trọng khác của luật La không được tiến hành chia một di sản vừa
theo di chúc vừa theo luật. Nghĩa nếu di chúc thì chỉ được chia theo di chúc, người được
hưởng kỷ phần bắt buộc không được hiểu là được chia thừa kế theo luật.
dụ ông A có 2 con là B và C, tài sản của ông là 300 aosơ, ông di chúc cho B 100 aosơ truất
quyền thừa kế của C. Trong trường hợp này nếu A chết B sẽ được hưởng toàn bộ di sản (sau khi
chia kỷ phần bắt buộc cho C) số di sản không được định đoạt trong di chúc không chia cho B,
C theo luật được. Cụ thể: C được hưởng một kỷ phần bắt buộc bằng 1/3 của một suất thừa kế
(150 aosơ) = 50 aosơ; B được hưởng: 300 – 50 = 250 aosơ.
Di tặng (legata):
một phần tài sản người lập di chúc dành riêng cho một hoặc nhiều người. thời kỳ đầu
luật La không hạn chế phần tài sản di tặng dẫn đến tình trạng lợi dụng di tặng để trốn tránh
nghĩa vụ. Đến thời Justinian di tặng được quy định không quá ¼ tổng di sản. Di tặng không tính
vào khối di sản. Việc quy định di tặng không quá ¼ di sản rất hợp được pháp luật nhiều
nước trên thế giới kế thừa.
Thừa kế theo pháp luật:
Trong trường hợp không di chúc hoặc di chúc hiệu thì di sản của người chết để lại được
chia theo luật. So với luật dân sự Việt Nam, luật La sự khác biệt về việc phân chia hàng
thừa kế mà cụ thể là quy định theo hàng, bậc như sau:
- Hàng thứ nhất: Các con (các cháu nếu các con chết)
- Hàng thứ hai: Bố mẹ (nếu bố mẹ chết thì ông nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột).
- Hàng thứ ba: Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha.
- Hàng thứ tư: Họ hàng nội, ngoại theo nhánh ngang nh từ gần đến xa, từ nội đến ngoại trong
phạm vi sáu đời.
- Hàng thứ năm: Nếu không những người bốn hàng trên thì quan tòa quyền quyết định
cho vợ hưởng một phần di sản.
Với việc quy định của luật La hàng thừa kế thứ nhất thì người cháu luôn luôn được hưởng
di sản của ông nếu bố mẹ chúng chết. C
n theo luật dân sự Việt Nam th
cháu sẽ không được nhận
thừa kế của ông nếu bố mẹ chúng chết cùng thời điểm với ông bà. hàng thừa kế thứ hai thì bố
mẹ ở bậc một, ông bà nội, ngoại, anh chị em ruột bậc hai. Có nghĩa là mặc dù ở cùng một hàng
thừa kế nhưng nếu những người bậc một (bố mẹ) thì những người bậc hai (ông nội
ngoại, anh chị em ruột) sẽ không được hưởng thừa kế. Mặt khác, ông nội, anh chị em ruột
được hưởng mỗi người một suất thì ông bà ngoại chỉ được hưởng ½ một suất thừa kế.
Ví dụ A chết để lại di sản 400 aosơ, A không con, không còn bố mẹ chỉ còn ông nội
ngoại anh ruột. Vậy di sản của A sẽ được chia như sau: ông nội 100 aosơ, nội 100 aosơ,
anh ruột 100 aosơ, ông ngoại 50 aosơ, bà ngoại 50 aosơ.
Trải qua mấy ngàn năm, luật La nói chung chế định về quyền thừa kế nói riêng vẫn
minh chứng hùng hồn cho quan điểm của những ai cho rằng luật La một phần không thể
thiếu được của văn minh nhân loại. Tất nhiên cho đến nay một số quy phạm của luật La
không còn phù hợp nữa. Điều đó cũng dễ hiểu bởi điều kiện hội, kinh tế, chính trị của xã
hội La khoảng hai ngàn năm về trước khác xa so với bây giờ. Dẫu sao một số quy định của
luật La Mã thiết nghĩ rằng thể được kế thừa vào luật dân sự Việt Nam. dụ như quy định
của luật La về di tặng không được quá ¼ di sản trên sở đó thể quy định cụ thvề
phần di sản được dùng vào việc thờ cúng (ví dụ như không quá ¼, không quá 1/5 di sản). Nếu
những quy định cụ thể nvậy thì việc thực thi quyền thừa kế trên thực tế sẽ ddàng đồng
nhất tránh được tình trạng hiểu và vận dụng luật pháp một cách không đồng bộ, nhất quán.
BÀI TẬP
1 gia đình La đồ: A ----------- B
C D E
TH1: A lập di chúc cho C toàn bộ tài sản, truất thừa kế của D E.
TH2: A di tặng cho B ½ tài sản, di chúc cho C =1/2, truất thừa kế của D, E.
Biết tài sản của A 1600 as
BÀI GIẢI
D,E được hưởng kỷ phần bắt buộc:
1 suất thừa kế=1600/3=533,3> 1/4.1600=400
TH1: D được 1/3.533,3=177,78as
Vậy D=E=177,78 as
C=1600-177,78.2=1244,44 as
TH2:
B được di tặng=1/4.1600=400 as
Di sản còn lại=1600-400=1200 as
D, E hưởng kỷ phần bắt buộc:
1 suất thừa kế=1200/3=400 as> 1/4 . 1200=300 as
Vậy D=E=1/3.400=133,3 as
C=1200-133,3.2=933,4 as
ĐỀ THI CUỐI KỲ:
Câu 1:Trình bày quyền sở hữu quyền đối với i sản của người khác?
Câu 2:Trình bày nghĩa vụ.
Câu 3:bài tập mình không nhớ nữa nhưng chỉ cần hiểu bài tập trên thì đảm bảo làm được.
(đề môn này học rất dễ, chỉ cần chăm chỉ học thuộc bài >9.0 môn này, chăm chỉ 1 chút chứ
mấy môn khác khó kiếm điểm lắm đấy)
CHÚC CÁC BẠN ÔN THI TỐT
18.END
| 1/17

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG LUẬT LA
BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT LA
Lịch sử nhà nước La Mã cổ đại được chia thành 3 giai đoạn:
-TK V TCN- 510 TCN: quân chủ chuyên chế (hoàng đế đứng đầu).
-510 TCN-27 TCN: Nghị viện La Mã hoặc Cộng Hòa La Mã (1 tập thể 10 người đứng đầu).
27 TCN- TK VI SCN: Quân chủ độc đoán, vị hoàng đế JUSTINIAN : NỔI TIẾNG, NHÀ LẬP PHÁP VĨ ĐẠI.
1. Khái niệm luật La Mã:
Thuật ngữ luật La Mã được hiểu dưới rất nhiều nghĩa khác nhau:
-Là luật pháp của nhà nước La Mã cổ đại kéo dài trong suốt 13 TK từ TK VII TCN- TK VI SCN.
-Là truyền thống luật La Mã trong lịch sử luật pháp Châu Âu dựa trên bộ luật JUSTINIAN.
-Được hiểu là luật thông dụng (thành văn) được áp dụng vào thời kỳ trung cổ ở hầu hết các nước Châu Âu.
-Luật La Mã là khoa học về luật La Mã, là 1 môn học trong hầu hết các trường đại học luật trên thế giới.
-Được hiểu là chủ nghĩa La Mã ROMANISM như là 1 trường phái luật pháp theo xu hướng bảo
tồn những nguyên tắc và giá trị của luật La Mã.
-Câu nói của ANGEN: Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu,
sự thể hiện pháp lý những điều kiện sống và những xung đột trong xã hội trong đó thống trị tư
hữu mà những nhà làm luật sau đó không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn.
2. Hệ thống luật La Mã:
-Dựa vào chủ thể áp dụng:
Luật La Mã được chia làm 2 loại: +Jus civilis: luật chỉ áp dụng cho những người là công dân La
Mã (ở La Mã 98% là nô lệ, còn lại là công dân).
+Jus GENTIUM: là luật chung được áp dụng bắt đầu từ TK thứ III SCN.
-Dựa vào phạm vi điều chỉnh:
+Jus publicum: luật công hay công pháp.
+Jus privatum: luật tư hay tư pháp.
3. NGUỒN CỦA LUẬT LA Có 5 loại nguồn:
-Tập quán pháp:tập quán được công nhận là nguồn của luật La Mã, là những xử sự của xã hội La
Mã được áp dụng rộng rãi, phổ biến phù hợp vói lợi ích của nhà nước (hoàng đế) nên được nhà
nước thửa nhận và trở thành quy tắc xử sự bắt buộc chung cho tất cả mọi người.
-Các văn bản pháp luật: do cơ quan nhà nước ban hành, các văn bản này có thể gồm nhiều điều
luật hoặc cũng có thể chỉ 1 điều luật để điều chỉnh những quan hệ trong xã hội tiêu biểu có các văn bản sau đây:
+Thế kỷ thứ V TCN có 50 văn bản về hợp đồng(chưa có hợp đồng bảo hiểm)
+Thế kỳ thứ IV TCN có các văn bản về giải phóng và hủy bỏ việc mua bán nô lệ, xóa nợ nếu
chủ nợ đánh chết con nợ.
+Thế kỷ thứ III TCN có văn bản về bổi thường thiệt hại
+Thế kỷ I TCN có văn bản về hạn chế khước từ thừa kế theo di chúc.
+Sau CN có các hệ thống hóa pháp luật của các hoàng đế La Mã.
-“Hiến pháp”: đây là những quyết định tồi cao của hoàng đế, những quyết định này có thể hủy bỏ
bất kỳ văn bản pháp luật nà, hoàng đế có các quyết định sau:
+Chiếu chỉ: Cho tất cả thường dân
+Sắc chỉ (chỉ thị): giải quyết từng việc cụ thể.
+Sắc dụ (lệnh): áp dụng cho các quan.
+Sắc lệnh: giải quyết những vụ việc cụ thể.
-Quyết định của quan tòa, quan chấp chính: trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong thực tế mà chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh thì quan tòa, quan chấp chính có quyền
ra quyết định theo ý chí chủ quan của mình nhưng phải phù hợp với tập quán và lợi ích của
hoàng đế, những quyết định này trở thành quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người.
-Hoạt động của luât gia La Mã: GAI, PAVEL, MODESTIN, ULPIAN, PAPINIAN, các luật
gia La Mã có 2 loại hoạt động:
+Hoạt động thực tiễn bao gồm hoạt động tư vấn pháp luật cho công dân, đại diện cho công dân
tranh tụng hoặc các dịch vụ khác: viết di chúc, soạn thảo hợp đồng.
+Hoạt động sáng tạo pháp luật bao gồm các công trình nghiên cứu , các bài viết giải thích pháp
luật, xây dựng các dự án luật: tiêu biểu có các tác phẩm sau đây: tuyển tập giải thích pháp luật
của các luật gia, sách giáo khoa của trường trung cấp luật La Mã, tuyển tập về hỏi đáp pháp luật của các luật gia.
-Hệ thống hóa các văn bản pháp luật của các hoàng đế La Mã (pháp điển hóa).
Năm 523 Hoàng đế JUSTINIAN thành lập ra hội đồng tư vấn gồm các giáo sư luật nổi tiếng để
tập hợp các văn bản pháp luật từ TK VII TCN, hội đồng tư vấn gồm 2 bộ phận, 1 bộ phận hệ
thống hóa các văn bản pháp luật, 1 bộ phận hệ thống hóa các công trình của luật gia La Mã, công
việc bắt đầu từ năm 528, kết thúc vào năm 534 SCN, Hoàng đế JUSTINIAN đua ra 3 quan điểm
về hệ thống pháp luật: +Rõ ràng về nội dung
+Chuẩn xác về khái niệm +Dễ áp dụng
Năm 534 Hoàng đế JUSTINIAN ban hành đạo luật bảo tồn hệ thống gồm 12 tuyển tập, những
hệ thống này bao gồm các quy phạm pháp luật La Mã hoàn chỉnh được áp dụng đến TK X, từ
TK XI-XV mới bắt đầu có sửa đổi, bổ sung.
Những hệ thống này là cơ sở luật pháp của nhà nước Ý hiện đại và có ảnh hưởng vô cùng sâu
rộng đến hệ thống pháp luật của hầu hết các nước trên Thế giới.
BÀI 2: CHỦ THỂ CỦA LUẬT LA
I. KHÁI NIỆM.
- Chủ thể của luật La Mã rất hạn chế địa vị pháp lý của các chủ thể không bình đẳng.
- Chủ thể của luật La Mã là những người trực tiếp tham gia vòa các quan hệ mà bản thân họ có
các quyền và nghĩa vụ từ quan hệ đó đồng thời họ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
-Chủ thể gồm năng lựpháp luật và năng lực hành vi.
+Năng lực pháp luật :( khả năng có quyền và nghĩa vụ)
Người có năng lực pháp luật phải hội tụ 3 điều kiện sau đây:
1) STATUS LIBERATIS :tự do
2) STATUS CIVITATIS :công dân
3) STATUS FAMILIAL : gia chủ. +Năng lực hành vi:
Là khả năng của 1 người bằng hành vi của chính mình xác lập thực hiện quyền và nghĩa vụ,
pháp luật La ã chia năng lực hành vi thành 3 mức độ dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức:
1) Không có năng lực hành vi: tất cả những người dưới 7 tuổi và những người bị điên là
những người không có năng lực hành vi, những người này không được phép tham gia
vào các giao dịch kể cả các giao dịch có lợi cho họ trừ thừa kế.
2) Năng lực hành vi 1 phần: nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi, những người này
được tham gia vào các giao dịch có lợi cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ
nhưng đối với các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài
sản thì phải được sự đồng ý của người giám hộ.
3) Năng lực hành vi toàn phần: nữ từ 12 tuổi, nam từ 14 tuổi trở lên và không bị điên đến
25 tuổi, về nguyên tắc đây là những người có năng lực hành vi toàn phần
nhưng nếu họ vẫn phụ thuộc vào gia chủ thì khi thực hiện các giao dịch làm phát sinh
nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì vẫn phải có sự đồng ý của gia chủ.
II. ĐỊA VỊ PHÁP CỦA CÔNG DÂN LA MÃ.
-Công dân La Mã là những người có quốc tịch La Mã, quốc tịch La Mã được xác lập trong các trường hợp sau:
+ Sinh ra từ công dân La Mã.
+ Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã.
+ Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài.
- Công dân La Mã có đầy đủ các quyền về nhân thân và tài sản và các quyền chính trị
trong 1 số trường hợp quốc tịch La Mã bị tước đối với những người phạm trọng tội, bị
kết án tù chung thân hoặc tử hình, bị xung vào làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
III. NGƯỜI LATINH NGƯỜI NGOẠI QUỐC.
-Người La Mã và người LaTinh sống gần nhau nhưng nhà nước của người La Mã xuất hiện
sớm hơn , TK thứ II TCN La Mã bị quân Phổ xâm lược vì vậy người La Mã phải liên minh
với người LaTinh để chống lại quân Phổ, dần dần sau đó nhà nước La Mã cho phép người
LaTinh nhập quốc tịch La Mã, người LaTinh cũng giống như người ngoại quốc sống trên
lãnh thổ La Mã nếu không có quốc tịch thì bị tước mất quyền dân sự quan trọng nhất, đó là
quyền định đoạt bất động sản và các quyền chính trị, bầu cử, ứng cử.
- Từ TK III SCN luật pháp La Mã công nhận tất cả những người LaTinh, người ngoại quốc
sống trên lãnh thổ La Mã đều là công dân La Mã.
IV. NÔNG ĐIỀN
-Về nguyên tắc là những người tự do, tá điền là những người có nhà cửa nhưng không có
ruộng đất nên phải thuê đất và nộp tô thuế, nông nô là những nô lệ được giải phóng nhưng
không có tài sản, không có ruộng đất nên phải làm thuê cho chủ cũ và hoàn toàn phụ thuộc
vào chủ cũ, không được thưa kiện và phải cấp dưỡng trong trường hợp chủ cũ bị phá sản.
V. “PHÁP NHÂN”
- Sự phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa, xã hội đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới
cùng với sự xuất hiện của đạo thiên chúa trên lãnh thổ La Mã, xuất hiện nhiều nhà thờ và
nhiều công trình xây dựng khác: rạp hát, nhà trọ, các nghiệp đoàn mai tán , các tổ chức này
có tài sản riêng, tổ chức riêng, tên gọi riêng và nhân danh tên mình tham gia vào các quan hệ.
BÀI 3: VẬT QUYỀN
I.KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI TÀI SẢN
Đối với người La Mã tài sản không chỉ là những vật chất mang lại lợi ích cho cuộc sống con
người mà còn có ý nghĩa xã hội.
II. KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI VẬT QUYỀN. 1. KHÁI NIỆM
-Vật quyền khác trái quyền( vật quyền là quyền đối vật còn trái quyền là quyền đối nhân)
-Vật quyền là quyền của 1 chủ thể thông qua hành vi của chính mình tác động vào tài sản theo ý
chí của mình mà không bị phụ thuộc ý chí của người khác nhằm thỏa mãn lợi ích của bản than.
-Trái quyền là quyền của chủ thể được thực hiện thông qua hành vi của chủ thể khác.
2. PHÂN LOẠI. Có 3 loại vật quyền: -Chiếm hữu -Quyền sở hữu
-Quyền đối với tài sản của người khác
III. CHIẾM HỮU( POSSESSIO)
-Cần phải phân biệt chiếm giữ thực tế với chiếm hữu bởi vì không phải mọi sữ chiếm giữ thực tế
đều là chiếm hữu, chiếm hữu phải thỏa mãn 2 điều kiện: thực tế chiếm giữ và ý chí chiếm giữ
(coi tài sản như là của mình).
-Chiếm hữu là nắm giữ, quản lý, chi phối tài sản theo ý chí của mình, không phụ thuộc vào ý chí
của người khác, coi tài sản đó như là của mình.
-Các loại chiếm hữu: hợp pháp và bất hợp pháp, bất hợp pháp gồm có bất hợp pháp ngay tình và
bất hợp pháp không ngay tình :
+Bất hợp pháp ngay tình là việc 1 người thực tế chiếm hữu vật bất hợp pháp nhưng không biết
không thể biết sự chiếm hữu của mình là không có căn cứ.
+Bất hợp pháp không ngay tình việc 1 người thực tế chiếm hữu tài sản không có căn cứ biết
hoặc buộc phải biết sự chiếm hữu của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình chiếm hữu.
IV. QUYỀN SỠ HỮU
-Sở hữu lá quan hệ trọng tâm, quan hệ hạt nhân của mọi quan hệ xã hội, đối với người La Mã
quyền sở hữu lá quyền tối cao của 1 chủ thể trong xã hội, các nhà làm luật La Mã không đưa ra 1
khái niệm chính xác về quyền sở hữu mà chỉ nêu ra những quyền năng của 1 chủ sở hữu.
-Có các loại quyền năng: +JUS UTENDI: QUYỀN SỬ DỤNG
+JUS FRUENDI:THU NHẬP THÀNH QUẢ
+JUS POSSIDENDI: CHIẾM HỮU
+JUS ABUTENDI: QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN.
+JUS VINDECANDI: KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
-Căn cứ phát sinh quyền sở hữu: +Có 2 căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu:
1. Nguyên sinh( tự nhiên): là quyền sở hữu của 1 chủ thể được xác lập không phụ thuộc vào
quyền sở hữu đối với đồ vật trước đó.
2. Phái sinh(kế tục): là căn cứ mà theo đó quyền sở hữu của 1 chủ thể được phát sinh theo ý chí của
chủ sở hữu đồ vật trước đó.
V. QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA NGƯỜI KHÁC( JUSA IN RE ALIENA)
-Là quyền của 1 chủ thể không phải là chủ sở hữu tài sản nhưng có quyền sử dụng hoặc hưởng dụng
những lợi ích tài sản đó.
-Được thể hiện dười thuật ngữ: SERVITUS (QUYỀN DỤNG ÍCH) XUẤT PHÁT TỪ KHÁI
NIỆM SERVIS(DỊCH VỤ)
-Luật La Mã chia quyền dụng ích thành 2 loại:
+SERVITUS PRA EDIORUM( QUYỀN DỤNG ÍCH ĐẤT ĐAI HAY QUYỀN ĐẠI DỊCH)
bao gồm đất nông nghiệp và đất ở gồm các quyền: a. Quyền có lối đi qua
b. Quyền dẫn nước, thoát nước
c. Quyền lất ánh sáng, không khí
d. Quyền được chăn dắt gia súc đi qua đất của người khác.
e. Quyền được lợi dụng tường nhà của người khác để xây nhà mình.
f. Quyền được sử dụng bong râm của người khác.
g. Quyền được sang đất người nhà bên cạnh để thu nhặt hoa quả.
+SERVITUS PERSONARUM: quyền dụng ích cá nhân hay quyền được sử dụng tài sản của
người khác suốt đời: các bên có thể thỏa thuận cho 1 người được sử dụng tài sản cho đến khi
chết, họ được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản nhưng không được bán hoặc để lại thừa kế, pháp
luật cũng có quy định 1 số người không có quyền sở hữu nhưng được sử dụng tài sản suốt đời.
BÀI 4: NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG
I.NGHĨA VỤ-OBLIGATIO
1. KHÁI NIỆM NGHĨA VỤ
-Theo quan điểm của hoàng đế JUSTINIAN nghĩa vụ là những ràng buộc pháp lý mà theo đó
chúng ta buộc phải làm 1 việc gì đó phù hợp với lợi ích của nhà nước chúng ta.
-Luật gia PAVEL cho rằng bản chất của nghĩa vụ không phải là ở chỗ đem lại cho chúng ta 1 vật
hay 1 dụng ích ( SERVITUS) mà là buộc 1 người nào đó phải chuyển giao 1 vật hay là 1 việc gì đó cho chúng ta.
-Nghĩa vụ là 1 quan hệ giữa 2 hay nhiều người mà trong đó 1 bên có quyền yêu cầu bên kia phải
làm 1 việc hoặc không được làm 1 việc để đáp ứng nhu cầu của mình.
2. PHÂN LOẠI NGHĨA VỤ
-Luật gia GAI cho rằng nghĩa vụ đươc phát sinh hoặc là từ sự thỏa thuận hoặc là sự vi phạm, học
thuyết của hoàng đế JUSTINIAN phân chia nghĩa vụ thành 4 loại:
+EX CONTRACTU: nghĩa vụ phát sinh sự thỏa thuận(hợp đồng), khế ước :2 hay nhiều chủ thể
thỏa thuận với nhau và làm phát sinh 1 quan hệ nghĩa vụ.
+EX DELICTO: nghĩa vụ phát sinh từ vi phạm, do gây ra thiệt hại nếu 1 người có hành vi gây
thiệt hại cho người khác về thiệt hại cho người khác về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của người khác thì có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại và khắc phục những hậu
quả do hành vi của mình gây ra.
+QUASI EX CONTRACTU: nghĩa vụ phát sinh như từ thỏa thuận, chuẩ khế ước,chuẩn hợp
đồng: thuật ngữ này dùng để chỉ những loại nghĩa vụ không phát sinh từ hợp đồng nhưng vể tính
chất và nội dung thì giống với loại nghĩa vụ này, các loại nghĩa vụ này có thể là :
• Thực hiện công việc của người khác không có sự ủy quyền
• Được lợi tài sản không có căn cứ
+QUASI EX DELICTO: nghĩa vụ phát sinh như từ vi phạm, như gây ra thiệt hại, chuẩn vi
phạm: khi 1 người có hành vi hoặc tài sản đe dọa gây thiệt hại (chưa gây ra thiệt hại) về tính
mạng, tài sản, sức khỏe của người khác thì người bị đe dọa đó có quyền yêu cầu quan tòa phạt
người có hành vi, tài sản đe dọa đó 1 số tiền nhất định, số tiền phạt tối đa lên tới 50 nghàn Ao- xơ.
3. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
Thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn: 1.từ phía con nợ( người có nghĩa vụ)
2.từ phía chủ nợ( người có quyền)
-Việc con nợ chậm trễ thực hiện nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm nặng hơn nếu chủ nợ
không đốc thúc con nợ trong 1 số trường hợp không cần đến sự đốc thúc con nợ.
+Nếu đã thỏa thuận 1 ngày chính xác thì bản thân nó đã là sự đốc thúc con nợ rồi.
+Kẻ trộm luôn luôn bị coi là chậm trễ
-Việc chậm trễ thực hiện nghĩa vụ từ phía con nợ dẫn đến 1 số hậu quả pháp lý:
+Phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do sự châm trễ gây ra
+Nếu giá của đối tượng nghĩa vụ tăng thì con nợ phải trả cho chủ nợ phần tăng thêm đó.
+Nếu con nợ mang toàn bộ lợi nhuận thu được trả cho chủ nợ thì sẽ được giải phóng khỏi
trách nhiệm do chậm trễ thực hiện nghĩa vụ.
+Đối với ăn trộm thì phải trả giá gấp đôi.
-Ở thời kỳ đầu luật pháp La Mã thậm chí còn cho phép con nợ vứt bỏ đồ vật vay nợ nếu chủ
nợ không tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn và đỉa điểm như đã thỏa thuận, về
sau này trong trường hợp có sự chậm trễ từ phía chủ nợ luật pháp cho phép con nợ có thể
giao đồ vật vay nợ cho nh2 thờ hoặc quan tòa.
4. TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
-Là hậu quả xấu đối với các bên khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
của mình, trách nhiệm dân sự chủ yếu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại có nghĩa là sự
cưỡng chế vật chất nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu và khắc phục hậu quả xảy ra.
-Việc bồi thường thiệt hại phát sinh hội tụ 2 điều kiện:thiệt hại thực tế và lỗi.
-Theo các luật gia La Mã thiệt hại bao gồm những mất mát thực tế về tài sản( tài sản bị tiêu
hủy, mất mát, giảm sút) và những lợi nhuận bị mất: là những tài sản chắc chắn thu được
trong những điều kiện bình thường.
-Các luật gia La Mã cũng đề cập đến những thiệt hại về tinh thần( lo lắng, sợ hãi, đau đớn)
-Trong chế định bồi thường thiệt hại luật La Mã rất chú trọng đến vấn đề lỗi, mức độ lỗi ảnh
hưởng đến phạm vi bồi thường, luật La Mã chia lỗi thành 2 loại:
+Lỗi DOLUS( lỗi cố ý):là biết sai nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra.
+Lỗi CULPA( lỗi vô ý):được chia làm 2 loại: vô ý nặng và vô ý nhẹ.Vô ý nặng là việc khi
thực hiện hành vi người đó không hiểu, không thấy những điều mà 1 người bình thường phải
hiểu, phải thấy. Vô ý nhẹ là khi thực hiện hành vi người đó không thể hiện được mình là
người chủ tốt đối với tài sản hoặc công việc nghĩa là có quan tâm đến tài sản, công việc
nhưng sự quan tâm chưa đúng mức.
-Lỗi cố ý và vô ý nặng luôn luôn phải bồi thường thiệt hại, lỗi vô ý nhẹ có thể không phải bồi thường.
-Luật La Mã quy định không xác định loại thiệt hại phát sinh do sự vô tâm, kém cỏi, ngu dốt
của người bị thiệt hại.
BÀI 5:QUYỀN THỪA KẾ-HERDITAS
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. KHÁI NIỆM
-Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống
-Quyền thừa kế là quyền của 1 người được để lại toàn bộ tài sản của mình cho người khác
sau khi chết, quyền được thừa hưởng tài sản của người chết, pháp luật La Mã cho phép 1
người được quyền hưởng tài sản của người chết( di sản) đồng thời buộc họ phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người chết.
2. NGƯỜI THỪA KẾ
-Người thừa kế phải còn sống vào thời điểm hưởng thừa kế , nếu “người thừa kế” là thai nhi thì
phải được sinh ra trước 10 tháng sau khi người để lại di sản chết.
3. DI SẢN THỪA KẾ
Bao gồm: -tài sản riêng của người chết
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác
III.THỪA KẾ THEO DI CHÚC (TESTATO)
1. KHÁI NIỆM’
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
2. CÁC ĐIỀU KIỆN HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC
-Người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc, phải minh mẫn, sáng suốt tại thời điểm lập di chúc.
-Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức, xã hội.
-Hình thức của di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật.:1. Chúc ngôn(lời nói):ít nhất 7 người làm chứng
2.Chúc thư( văn bản): phải có xác nhận của quan tòa, quan chấp chính.
-Luật pháp La Mã chỉ công nhận những di chúc có điều kiện phát sinh không công nhận những
di chúc có điều kiện đình chỉ bởi vì di chúc có điều kiện đình chỉ sẽ chống lại nguyên tắc:
SEMEL HERES, SEMPER HERES (người được chỉ định là người thừa kế, mãi mãi là người thừa kế).
-Di chúc phải chỉ định rõ người nhận di sản, đối với các con phải ghi rõ ai được nhận ,ai bị truất
quyền thừa kế mà không được phép im lặng bỏ qua.
3NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI
DUNG DI CHÚC( KỶ PHẦN BẮT BUỘC)
-Ở thời kỳ đầu luật pháp La Mã tuân thủ nguyên tắc “ gia chủ chia như thế nào thì sẽ được như thế đó”.
-Trong trường hợp các con bị truất quyền thừa kế thì họ được hưởng kỷ phần bắt buộc không
phụ thuộc vào nội dung di chúc như sau:
+Nếu 1 suất thừa kế được chia <= 1/4 tổng di sản thì 1 kỷ phần bắt buộc =1/2 1 suất thừa kế.
+ Nếu 1 suất thừa kế được chia >1/4 tổng di sản thì 1 kỷ phần bắt buộc =1/3 1 suất thừa kế. dụ:
1. A 4 đứa con B, C, D,E lập di chúc cho B,C ,truất quyền thừa kế của D, E , biết A
90 as.
D, E được hưởng kỷ phần bắt buộc.
1 suất thừa kế= 1/4. 90=22.5 D=E= 11,5 AS
2 .A 3 đứa con B, C, D, lập di chúc cho B,C còn D bị truất biết A 90 as.
1 suất thừa kế:90/3=30>1/4. 90 Vậy D được 1/3.30=10 as B=C=(90-10)/2=40 as
4. DI TẶNG( LEGATA)
-Là phần di sản mà người để lại thừa kế dành để tặng cho người khác.
-Người được nhận di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trừ trường
hợp di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ.
-Di tặng không tính vào khối di sản để chia thừa kế.
-Di tặng không được quá ¼ tổng tài sản.
III. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT( INTESTATO)
-Là sự phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật dựa vào hàng thừa kế.
+Các con( các cháu nếu các con chết)
+Bố mẹ(nếu cha mẹ chết) thì ông bà nội ngoại
+Anh chị em cùng cha cùng mẹ
+Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha
+Họ hàng tính theo nhánh ngang, từ gần đến xa từ nội đến ngoại trong phạm vi 6 đời.
+Trong trường hợp không có những người nêu trên thì quan tòa có thể quyết định cho vợ được
hưởng 1 phần di sản thừa kế.
Tài liệu sưu tầm:
Quyền thừa kế trong luật La cổ đại
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 4.2001
QUYỀN THỪA KẾ TRONG LUẬT LA CỔ ĐẠI N GUYỄN ĐÌNH HUY
TS. Giảng viên Khoa Luật Dân sự - ĐH Luật TP.HCM
Khái niệm luật La Mã rất rộng, được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ luật La Mã là
truyền thống luật La Mã trong lịch sử pháp luật châu Âu, dựa trên Bộ Luật Justinian; luật La Mã
còn được hiểu là luật thông dụng (Ius Commune) được áp dụng ở hầu hết các nước châu Âu ;
luật La Mã còn là một trường phái luật pháp theo xu hướng bảo tồn những nguyên tắc của luật
La Mã… Thế nhưng khi nhắc đến khái niệm luật La Mã chúng ta phải hiểu rằng đó là luật pháp
của nhà nước La Mã cổ đại kéo dài suốt 13 thế kỷ (từ thế kỷ VII trước Công nguyên đến thế kỷ
VI sau Công nguyên). Những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật của nhà nước
La Mã là một trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, có thể so sánh
với Kim tự tháp của Ai Cập, Vạn lý trường thành của Trung quốc… Theo Ăng- ghen: “Luật La
Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu. Sự thể hiện pháp lý những điều
kiện sống và những xung đột xã hội trong đó thống trị tư hữu mà những nhà làm luật sau đó
không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn…”.
Cho đến ngày nay, người ta vẫn luôn đặt ra câu hỏi tại sao kỹ thuật xây dựng luật pháp của các
luật gia La Mã lại hoàn thiện đến mức khó tin như vậy. Chỉ lấy một ví dụ trong phần hợp đồng
thì so với luật pháp hiện đại người ta chỉ thấy thiếu một loại hợp đồng duy nhất, đó là hợp đồng bảo hiểm.
Sẽ không thái quá khi nói rằng luật La Mã là cơ sở, là nền tảng của pháp luật hầu hết các nước
trên thế giới và đối với những nhà làm luật, những người nghiên cứu luật pháp thì việc nghiên
cứu luật La Mã là điều gần như không thể bỏ qua. Gomsten cho rằng: “Nghiên cứu luật pháp
phải bắt đầu từ luật La Mã, bởi vì nếu không nghiên cứu luật La Mã thì tổn phí biết bao công sức
một cách vô ích để tìm thấy cái mà người ta đã tìm thấy từ lâu”.
Nói đến luật La Mã chúng ta không thể không nhắc tới Luật XII bảng, Bộ Luật Justinian, tên tuổi
các luật gia La Mã nổi tiếng như Gai, Pavel, Ulpian, Modestin, Papinian và Hoàng đế Justinian.
Khái niệm luật “dân sự” La Mã rộng hơn so với khái niệm luật dân sự Việt Nam, bao gồm cả tố
tụng dân sự, hôn nhân gia đình. Luật dân sự La Mã bao gồm nhiều chế định khác nhau như sở
hữu, nghĩa vụ hợp đồng, thừa kế, thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi tài sản không
có căn cứ… Trong đó, thừa kế là một chế định rất quan trọng.
Thừa kế (hereditas):
Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống”.
Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật
quy định.Pháp luật cho phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải
thực hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết.
Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật
(intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là
thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
Thời điểm mở thừa kế:
Là thời điểm người có tài sản chết. Việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc xác định khối di sản của người chết để lại; xác định sự gia tăng hay giảm sút di sản để
xác định trách nhiệm cho người bảo quản, xác định thời hiệu khởi kiện (3 năm). Di sản thừa kế:
Bao gồm khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết và các quyền tài sản của người chết
chưa thực hiện (quyền thừa kế, quyền đòi nợ). Một vấn đề rất quan trọng là theo luật La Mã, các
nghĩa vụ về tài sản của người chết không phải là di sản thừa kế. Ví dụ A chết để lại tài sản là 100
aosơ (as), A nợ B 30 aosơ, vậy di sản thừa kế của A là: 100 – 30 = 70 aosơ. Người thừa kế:
Là những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, nếu “người thừa kế” là thai nhi thì phải
được sinh ra sau khi người để lại tài sản chết 300 ngày (10 tháng). Luật XII bảng quy định: “Tôi
được biết rằng khi người đàn bà sinh đẻ vào tháng thứ mười một sau khi chồng chết thì (ở đó) có
việc dường như người đàn bà có thai sau khi chồng chết, bởi vì Ủy ban mười người đã ghi rằng
con người sinh ra vào tháng thứ mười chứ không phải vào tháng thứ mười một (bảng IV)”.
Người thừa kế có quyền sở hữu tài sản thừa kế, có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của người chết
trong phạm vi di sản được hưởng, có quyền từ chối không nhận di sản.
Thừa kế theo di chúc (testato):
Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi
chết. Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực
hiện sau khi chúng ta chết”.
Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ qua” đối với hàng thừa kế thứ
nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im lặng bỏ qua” thì di chúc vô hiệu mặc dù tuân
thủ đầy đủ các điều kiện khác. Ví dụ ông A có ba người con là B, C, D, ông để lại di chúc với
nội dung: “Tôi cho hai con tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản” mà không ghi “truất quyền
thừa kế của D” thì di chúc vô hiệu vì đã im lặng bỏ qua D. Nếu A chết tài sản sẽ được chia theo luật cho B, C, D.
Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào. Nếu có người
lập nhiều di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc trước. Luật La Mã quy định khá chặt chẽ
các điều kiện để một di chúc có hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc
(con gái từ 12 tuổi, con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội); hình
thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết phải được quan tòa, quan
chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy người làm chứng, người thừa kế phải được chỉ
định rõ ràng, chính xác); người được chỉ định trong di chúc phải là người có khả năng trở thành
người thừa kế (thai nhi sinh vào tháng thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ 20 đến
50 tuổi mà không lập gia đình thì không được hưởng thừa kế…).
Một nguyên tắc quan trọng của luật La Mã và thừa kế là Semel heres, semper heres – người được
chỉ định là người thừa kế sẽ vĩnh viễn là người thừa kế. Điều này có nghĩa là luật pháp chỉ công
nhận di chúc có điều kiện phát sinh, không công nhận di chúc có điều kiện đình chỉ. Ví dụ một di
chúc có nội dung sau: “Tôi không cho con tôi là M hưởng tài sản nếu nó không thi đậu vào
trường Trung cấp pháp lý La Mã”. Trường hợp này, M vẫn là người được hưởng di sản thừa kế
bởi vì điều kiện trong di chúc là điều kiện đình chỉ (chấm dứt) trái với nguyên tắc “người thừa kế là vĩnh viễn”.
Một vấn đề mà trong hầu hết pháp luật dân sự của các nước có quy định được xuất phát từ luật
La Mã là việc quy định những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
(hay còn gọi là kỷ phần bắt buộc). Ở thời kỳ đầu (thời kỳ Cộng hòa La Mã sơ khai) thì gia chủ
chia tài sản như thế nào thì sẽ là như thế (Unti legassit super pecunia tutelave suae rei ita ius
esto). Nhưng dần dần về sau đối với những người ở hàng thừa kế thứ nhất nếu bị người lập di
chúc truất quyền thừa kế thì sẽ được hưởng một kỷ phần bắt buộc.
Thời kỳ đầu, kỷ phần bắt buộc bằng ¼ một suất thừa kế nếu chia theo luật. Ví dụ A có hai con là
B và C, A di chúc cho B toàn bộ tài sản, truất quyền thừa kế của C, vậy nếu A chết thì tài sản của
A sẽ được chia như sau (giả sử A có 100 aosơ):
Một suất thừa kế là 100 : 2 = 50 aosơ
C sẽ được hưởng ¼ 50 aosơ = 12,5 aosơ, B được hưởng: 100 – 12,5 = 87,5 aosơ.
Dưới thời Hoàng đế Justinian việc phân chia kỷ phần bắt buộc rất chi tiết với nguyên tắc sau: nếu
như một suất thừa kế được chia lớn hơn ¼ di sản thừa kế thì kỷ phần bắt buộc là 1/3 một suất
thừa kế; nếu như một suất thừa kế nhỏ hơn hoặc bằng ¼ giá trị di sản thì kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất thừa kế.
Có thể diễn giải như sau: nếu người chết có số con nhỏ hơn 4 (1, 2, 3) thì một kỷ phần bắt buộc
bằng 1/3 một suất thừa kế. Còn nếu người đó có 4 con trở lên thì một kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất thừa kế.
- Ví dụ 1: A có 3 con là B, C, D. A di chúc cho B toàn bộ 900 aosơ, C và D bị truất quyền thừa
kế. Đầu tiên ta phải xác định một suất thừa kế nếu chia theo luật = 900 : 3 = 300 aosơ. Vì một
suất thừa kế là 300 aosơ lớn hơn ¼ di sản (1/4 di sản bằng 900 : 4 = 225 aosơ) nên C , D mỗi
người sẽ được hưởng 1/3 một suất thừa kế = 1/3 x 300 = 100 aosơ, B được hưởng: 900 – (100 + 100) = 700 aosơ.
- Ví dụ 2: A có 6 con B, C, D, E, G, H; A di chúc cho B toàn bộ 900 aosơ, những người còn lại
bị truất quyền thừa kế.
Một suất thừa kế là 900 : 6 = 150 aosơ. Vì một suất thừa kế nhỏ hơn ¼ di sản (225 aosơ) nên một
kỷ phần bắt buộc là ½ x 150 = 75 aosơ. Vậy C, D, E, G, H mỗi người được hưởng 75 aosơ; B
được hưởng: 900 – (75 x 5) = 525 aosơ.
Một nguyên tắc quan trọng khác của luật La Mã là không được tiến hành chia một di sản vừa
theo di chúc vừa theo luật. Nghĩa là nếu có di chúc thì chỉ được chia theo di chúc, người được
hưởng kỷ phần bắt buộc không được hiểu là được chia thừa kế theo luật.
Ví dụ ông A có 2 con là B và C, tài sản của ông là 300 aosơ, ông di chúc cho B 100 aosơ và truất
quyền thừa kế của C. Trong trường hợp này nếu A chết B sẽ được hưởng toàn bộ di sản (sau khi
chia kỷ phần bắt buộc cho C) vì số di sản không được định đoạt trong di chúc không chia cho B,
C theo luật được. Cụ thể: C được hưởng một kỷ phần bắt buộc bằng 1/3 của một suất thừa kế
(150 aosơ) = 50 aosơ; B được hưởng: 300 – 50 = 250 aosơ. Di tặng (legata):
Là một phần tài sản mà người lập di chúc dành riêng cho một hoặc nhiều người. Ở thời kỳ đầu
luật La Mã không hạn chế phần tài sản di tặng dẫn đến tình trạng lợi dụng di tặng để trốn tránh
nghĩa vụ. Đến thời Justinian di tặng được quy định không quá ¼ tổng di sản. Di tặng không tính
vào khối di sản. Việc quy định di tặng không quá ¼ di sản là rất hợp lý và được pháp luật nhiều
nước trên thế giới kế thừa.
Thừa kế theo pháp luật:
Trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc vô hiệu thì di sản của người chết để lại được
chia theo luật. So với luật dân sự Việt Nam, luật La Mã có sự khác biệt về việc phân chia hàng
thừa kế mà cụ thể là quy định theo hàng, bậc như sau:
- Hàng thứ nhất: Các con (các cháu nếu các con chết)
- Hàng thứ hai: Bố mẹ (nếu bố mẹ chết thì ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột).
- Hàng thứ ba: Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha.
- Hàng thứ tư: Họ hàng nội, ngoại theo nhánh ngang tính từ gần đến xa, từ nội đến ngoại trong phạm vi sáu đời.
- Hàng thứ năm: Nếu không có những người ở bốn hàng trên thì quan tòa có quyền quyết định
cho vợ hưởng một phần di sản.
Với việc quy định của luật La Mã ở hàng thừa kế thứ nhất thì người cháu luôn luôn được hưởng
di sản của ông nếu bố mẹ chúng chết. C̣n theo luật dân sự Việt Nam th́ cháu sẽ không được nhận
thừa kế của ông nếu bố mẹ chúng chết cùng thời điểm với ông bà. Ở hàng thừa kế thứ hai thì bố
mẹ ở bậc một, ông bà nội, ngoại, anh chị em ruột ở bậc hai. Có nghĩa là mặc dù ở cùng một hàng
thừa kế nhưng nếu có những người ở bậc một (bố mẹ) thì những người ở bậc hai (ông bà nội
ngoại, anh chị em ruột) sẽ không được hưởng thừa kế. Mặt khác, ông bà nội, anh chị em ruột
được hưởng mỗi người một suất thì ông bà ngoại chỉ được hưởng ½ một suất thừa kế.
Ví dụ A chết để lại di sản là 400 aosơ, A không có con, không còn bố mẹ mà chỉ còn ông bà nội
ngoại và anh ruột. Vậy di sản của A sẽ được chia như sau: ông nội 100 aosơ, bà nội 100 aosơ,
anh ruột 100 aosơ, ông ngoại 50 aosơ, bà ngoại 50 aosơ.
Trải qua mấy ngàn năm, luật La Mã nói chung và chế định về quyền thừa kế nói riêng vẫn là
minh chứng hùng hồn cho quan điểm của những ai cho rằng luật La Mã là một phần không thể
thiếu được của văn minh nhân loại. Tất nhiên cho đến nay một số quy phạm của luật La Mã
không còn phù hợp nữa. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị của xã
hội La Mã khoảng hai ngàn năm về trước khác xa so với bây giờ. Dẫu sao một số quy định của
luật La Mã thiết nghĩ rằng có thể được kế thừa vào luật dân sự Việt Nam. Ví dụ như quy định
của luật La Mã về di tặng không được quá ¼ di sản và trên cơ sở đó có thể quy định cụ thể về
phần di sản được dùng vào việc thờ cúng (ví dụ như không quá ¼, không quá 1/5 di sản). Nếu có
những quy định cụ thể như vậy thì việc thực thi quyền thừa kế trên thực tế sẽ dễ dàng và đồng
nhất tránh được tình trạng hiểu và vận dụng luật pháp một cách không đồng bộ, nhất quán. BÀI TẬP
1 gia đình La đồ: A ----------- B C D E
TH1: A lập di chúc cho C toàn bộ tài sản, truất thừa kế của D E.
TH2:
A di tặng cho B ½ tài sản, di chúc cho C =1/2, truất thừa kế của D, E.
Biết tài sản của A 1600 as
BÀI GIẢI
D,E được hưởng kỷ phần bắt buộc:
1 suất thừa kế=1600/3=533,3> 1/4.1600=400
TH1: D được 1/3.533,3=177,78as
Vậy D=E=177,78 as
C=1600-177,78.2=1244,44 as TH2:
B được di tặng=1/4.1600=400 as
Di sản còn lại=1600-400=1200 as
D, E hưởng kỷ phần bắt buộc:
1 suất thừa kế=1200/3=400 as> 1/4 . 1200=300 as
Vậy D=E=1/3.400=133,3 as
C=1200-133,3.2=933,4 as
ĐỀ THI CUỐI KỲ:
Câu 1:Trình bày quyền sở hữu quyền đối với tài sản của người khác?
Câu 2:Trình bày nghĩa vụ.
Câu 3:bài tập mình không nhớ nữa nhưng chỉ cần hiểu bài tập trên thì đảm bảo làm được.
(đề môn này học rất dễ, chỉ cần chăm chỉ học thuộc bài >9.0 môn này, chăm chỉ 1 chút chứ
mấy môn khác khó kiếm điểm lắm đấy)
CHÚC CÁC BẠN ÔN THI TỐT 18.END