















Preview text:
Câu 1: Luận điểm nào được xem là sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về dân chủ?
Trả lời: Luận điểm sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh về dân chủ là tư tưởng xây dựng một “nhà
nước của dân, do dân, vì dân” – một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là điểm mới
so với quan điểm kinh điển Mác – Lênin về nhà nước, đồng thời là nét đặc sắc nhất để phân biệt
nhà nước kiểu mới ở Việt Nam với các nhà nước trước đó. Hồ Chí Minh nhấn mạnh mọi quyền
hành, lợi ích đều thuộc về nhân dân, chính quyền chỉ là công bộc của dân. Người viết: “Nói tóm
lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Tư tưởng dân là chủ và dân làm chủ này đã trở
thành nguyên tắc nền tảng cho nền dân chủ ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao việc thực
hành dân chủ rộng rãi trong thực tiễn, coi đó là “chiếc chìa khóa vạn năng” để giải quyết mọi khó
khăn. Tóm lại, tư tưởng xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân – đặt nhân dân vào
vị trí chủ thể cao nhất của quyền lực – chính là luận điểm sáng tạo tiêu biểu của Hồ Chí Minh về dân chủ.
Câu 2: Lý giải tại sao, theo Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ ở Việt Nam lại mang bản chất
của giai cấp công nhân?
Trả lời: Theo Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam tuy là của toàn dân nhưng mang
bản chất giai cấp công nhân vì đây là nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Bản chất đó thể hiện trên mấy phương diện cơ bản: (1) Nhà nước do Đảng Cộng sản
lãnh đạo – mà Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. (2) Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo các nguyên tắc trên nền tảng tư tưởng của giai cấp công nhân (như nguyên tắc tập
trung dân chủ, sự thống nhất quyền lực, Đảng lãnh đạo…). (3) Mục tiêu hoạt động của nhà nước
là tiến hành công cuộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội – thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Hồ Chí Minh khẳng định không có nhà nước “phi giai cấp”; nhà nước ta là nhà nước của
nhân dân lao động nhưng về thực chất vẫn là nhà nước của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, bản
chất giai cấp công nhân đó thống nhất biện chứng với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi: nhà
nước ta đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc chứ không phải một nhóm thiểu số. Nói “nhà nước
của dân, do dân, vì dân” là nhấn mạnh tính dân chủ nhân dân của nhà nước, còn xét về nền tảng
giai cấp thì đó vẫn là chuyên chính của giai cấp công nhân dưới hình thức dân chủ nhân dân.
Tóm lại, nhà nước ta mang bản chất công nhân vì do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo và
phục vụ mục tiêu cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời đại diện cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động.
Câu 3: Vì sao theo Hồ Chí Minh phải xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam? Các nguyên tắc
xây dựng và sinh hoạt Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Trong các nguyên tắc ấy,
nguyên tắc nào quan trọng nhất, vì sao?
Trả lời: Vì sao phải xây dựng Đảng: Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
yêu cầu tất yếu của cách mạng. Trước khi có Đảng, các phong trào yêu nước đều thất bại vì thiếu
một đường lối đúng đắn và một tổ chức lãnh đạo cách mạng triệt để. Đảng ra đời đã đề ra cương
lĩnh đúng, tập hợp và dẫn dắt được toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập. Người viết: “Cách
mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh… Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Sau khi cách mạng thành công, vẫn cần xây dựng
Đảng và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, vì: dù chính quyền đã về tay nhân dân, đất nước vẫn
đối mặt với nguy cơ xâm lược, diễn biến phức tạp của đấu tranh giai cấp; hơn nữa công cuộc
kiến thiết kinh tế, văn hóa, xã hội đòi hỏi sự lãnh đạo tổ chức của Đảng. Như vậy, Đảng là nhân
tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nên phải thường xuyên xây
dựng, củng cố Đảng vững mạnh để đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Các nguyên tắc xây dựng, sinh hoạt Đảng: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân phải được tổ chức và hoạt động trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản, quan trọng nhất của Đảng. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh Đảng tuy nhiều người nhưng khi hành động phải như một người. “Tập
trung” nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng chấp hành nghị
quyết thống nhất. “Dân chủ” nghĩa là mọi đảng viên được tự do thảo luận, bày tỏ ý kiến trước
khi quyết định. Người cũng lưu ý phải tránh dân chủ hình thức hoặc tập trung quan liêu. Nguyên
tắc tập trung dân chủ đảm bảo cho Đảng vừa có trí tuệ tập thể, vừa có kỷ luật thống nhất, tạo sức mạnh lãnh đạo.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Đảng lãnh đạo theo phương thức tập thể bàn bạc, quyết
định, sau đó phân công một người hoặc một nhóm người phụ trách rõ ràng. Lãnh đạo tập thể
tránh độc đoán chủ quan; cá nhân phụ trách để công việc hiệu quả, tránh đùn đẩy trách nhiệm.
Tự phê bình và phê bình: Đây là quy luật phát triển của Đảng. Hồ Chí Minh coi “phê bình như
thuốc chữa bệnh”, giúp sửa chữa khuyết điểm, “làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình sẽ
tăng cường đoàn kết và tiến bộ trong Đảng.
Kỷ luật nghiêm minh và tự giác: Mỗi đảng viên vừa phải chấp hành kỷ luật chung của Đảng một
cách nghiêm túc, vừa tự giác tuân thủ kỷ luật. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật sắt nhưng trên cơ sở tự
nguyện, tự giác. Sức mạnh Đảng bắt nguồn từ ý thức kỷ luật tự giác của mọi đảng viên kết hợp
với kỷ luật nghiêm minh của tổ chức.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đoàn kết nội bộ, coi đó là cội
nguồn sức mạnh của Đảng. Người dạy phải giữ gìn sự đoàn kết “như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”. Muốn vậy, Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình,
nêu cao đạo đức cách mạng để củng cố sự thống nhất, đồng lòng.
Nguyên tắc quan trọng nhất: Trong các nguyên tắc trên, tập trung dân chủ được Hồ Chí Minh và
Đảng ta xác định là nguyên tắc quan trọng nhất, nền tảng cho tổ chức và sinh hoạt Đảng. Bởi lẽ,
tập trung dân chủ kết hợp hài hòa sự tập trung lãnh đạo với dân chủ rộng rãi trong Đảng, giúp
phát huy trí tuệ tập thể của đông đảo đảng viên, đồng thời đảm bảo Đảng thống nhất ý chí và
hành động. Nếu không giữ vững nguyên tắc này, Đảng có thể rơi vào tản mạn ý kiến hoặc độc
đoán chuyên quyền, đều nguy hiểm. Nhờ tập trung dân chủ, Đảng “tuy đông người nhưng tiến
hành chỉ như một người” – tạo nên sức mạnh đoàn kết chặt chẽ và hiệu lực lãnh đạo cao. Do đó,
tập trung dân chủ được coi là nguyên tắc sống còn, chi phối mọi hoạt động khác của Đảng.
Câu 4: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về những biện pháp xây dựng nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Liên hệ với Việt Nam hiện nay.
Trả lời: Để xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều biện
pháp toàn diện, tập trung vào phòng chống những nguy cơ làm suy thoái bộ máy và nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước. Những biện pháp chính gồm:
Kiểm soát quyền lực nhà nước: Theo Hồ Chí Minh, quyền lực dễ có xu hướng tha hóa, do đó
phải được kiểm soát chặt chẽ. Người chỉ rõ quyền lực nhà nước là do dân ủy thác, “dân ủy quyền
nhưng không mất quyền”, vì vậy phải có cơ chế để nhân dân kiểm soát và Đảng giám sát hoạt
động của các cơ quan công quyền. Cụ thể, Đảng Cộng sản với vai trò lãnh đạo có trách nhiệm
kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước; bản thân bộ máy nhà nước phải có cơ chế kiểm soát nội
bộ (phân công, phân cấp rõ ràng, có chế độ thanh tra, giám sát); đồng thời phải phát huy sự giám
sát của nhân dân (qua Quốc hội, Mặt trận, báo chí, khiếu nại tố cáo…). Kiểm soát quyền lực
nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, đảm bảo quyền lực thật sự thuộc về nhân dân.
Chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực: Hồ Chí Minh từ rất sớm cảnh
báo các căn bệnh quan liêu, hủ hóa trong bộ máy chính quyền. Chỉ một tháng sau ngày độc lập,
trong thư gửi các Ủy ban nhân dân (10/1945), Người đã liệt kê 6 căn bệnh nguy hiểm: “Trái
phép, Cậy thế, Hủ hóa, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo”, coi đó là những thói xấu làm nhân dân oán
hận. Người phê phán kịch liệt cán bộ “cậy thế” làm quan cách mạng, xa rời nhân dân, tham ô của
công, bè phái kéo người nhà vào chức vụ, quan liêu chia rẽ quần chúng... Hồ Chí Minh xem
tham ô, lãng phí, quan liêu như những kẻ “giặc nội xâm” cực kỳ nguy hại, cần kiên quyết trừng
trị như đánh giặc. Người viết: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu... cũng là bạn đồng minh của
thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”. Do đó, phải “thẳng
tay trừng trị những kẻ bất liêm” và bất kỳ ai có hành vi xâm phạm của công, hại đến lợi ích nhân
dân. Đồng thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh cán bộ làm sai phải nhận lỗi và sửa chữa triệt để, ai
không tự sửa thì Đảng và Chính phủ kiên quyết loại bỏ. Những biện pháp này nhằm giữ cho bộ
máy nhà nước liêm chính, được nhân dân tin yêu.
Xây dựng hệ thống pháp luật nghiêm minh và đề cao đạo đức công vụ: Hồ Chí Minh chủ trương
xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng đồng thời kết
hợp chặt chẽ với giáo dục đạo đức. Người yêu cầu Nhà nước sớm ban hành Hiến pháp, luật lệ
đầy đủ, mọi công dân và công chức đều phải chấp hành pháp luật một cách gương mẫu. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: ban hành pháp luật đã khó, nhưng đưa pháp luật vào đời sống còn khó hơn;
phải làm cho dân hiểu luật và tuân thủ luật. Bản thân Người nêu gương chấp hành pháp luật rất
nghiêm túc. Đối với cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm;
việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, mọi cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều là “đày tớ”
của nhân dân. Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh nêu cao tính “pháp trị nhân nghĩa”: pháp luật phải
đi đôi với nhân đạo. Người chỉ rõ xây dựng pháp quyền ở Việt Nam cần kết hợp đức trị với pháp
trị một cách hài hòa. Pháp luật phải nghiêm minh, công bằng nhưng cũng phải thấu tình đạt lý,
lấy mục đích giáo dục cảm hóa con người làm gốc. Do dân ta chịu ảnh hưởng sâu của đạo lý
truyền thống, Hồ Chí Minh yêu cầu tăng cường pháp luật song song với đẩy mạnh giáo dục đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ. Sự kết hợp giữa kỷ cương pháp luật và phẩm chất đạo đức sẽ
tạo nên một bộ máy vừa nghiêm về kỷ luật, vừa sáng về đạo đức, “vừa hồng, vừa chuyên”, hết
lòng phụng sự nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức đủ tài: Nhà nước muốn vững mạnh phải có đội ngũ cán bộ,
công chức “vừa hồng vừa chuyên”. Hồ Chí Minh coi cán bộ là gốc của mọi công việc, quyết
định thành bại của chính sách. Người đòi hỏi cán bộ phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận
tụy phục vụ nhân dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có năng lực và tinh thần trách nhiệm
cao. Đồng thời, phải thường xuyên nâng cao dân trí cho nhân dân, bởi “dân trí cao thì dân mới
hiểu luật, biết dùng quyền dân chủ” – đây là cơ sở để dân tham gia giám sát, xây dựng chính quyền.
Liên hệ thực tiễn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh vẫn giữ
nguyên giá trị chỉ dẫn cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện
nay. Đảng và Nhà nước ta đang quyết liệt thực hiện các biện pháp chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu – coi đó là “giặc nội xâm” cần đẩy lùi, minh chứng qua các chiến dịch xử lý cán bộ sai
phạm gần đây. Công tác cải cách hành chính, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình
được đẩy mạnh nhằm kiểm soát chặt chẽ quyền lực, ngăn ngừa lạm quyền. Hệ thống pháp luật
ngày càng được hoàn thiện, tinh thần thượng tôn pháp luật được đề cao song song với việc giáo
dục đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh giúp chấn chỉnh tác phong, lối sống cán bộ, xây dựng nền hành
chính phục vụ nhân dân. Những nỗ lực đó thể hiện sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng một nhà nước ngày càng liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn mới.
Câu 5: Phân tích những điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trả lời: Hồ Chí Minh có nhiều đóng góp sáng tạo trong lý luận về Đảng Cộng sản phù hợp với
hoàn cảnh Việt Nam. Trước hết, Người xác định quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam có
nét đặc thù: Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc. Đây là điểm sáng tạo so với công
thức chung (Mác – Lênin nhấn mạnh sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào
công nhân). Hồ Chí Minh thấy rằng ở một nước thuộc địa như Việt Nam, tinh thần yêu nước, dân
tộc là động lực to lớn, vì vậy việc gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với lý luận cách mạng vô
sản là điều kiện ra đời một đảng cộng sản phù hợp thực tiễn. Nhờ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
ngay từ khi thành lập đã mang trong mình sứ mệnh vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
vừa đại biểu cho lợi ích của toàn dân tộc. Thứ hai, Hồ Chí Minh có những sáng tạo trong quan
niệm về vai trò, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền. Người cho rằng Đảng không chỉ lãnh đạo giành
chính quyền mà quan trọng hơn là lãnh đạo xây dựng xã hội mới sau khi có chính quyền. Đảng
cầm quyền phải luôn tự chỉnh đốn, giữ vững bản chất cách mạng và đạo đức, xứng đáng là
“người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây là tư tưởng mới mẻ, vì các
nhà kinh điển trước đó chủ yếu đề cập Đảng ở giai đoạn giành chính quyền. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh là điều kiện quyết định thành công của
chủ nghĩa xã hội. Người viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947) để chỉnh đốn Đảng khi
Đảng đã cầm quyền, coi chống quan liêu, tham ô, tự mãn trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng để
Đảng xứng đáng lãnh đạo. Thứ ba, về phương thức lãnh đạo, Hồ Chí Minh sáng tạo khi đề cao
vai trò nêu gương và thuyết phục quần chúng của Đảng. Người chỉ rõ Đảng lãnh đạo Mặt trận và
toàn dân không bằng mệnh lệnh áp đặt, mà bằng uy tín, gương mẫu, “lấy lòng chân thành đối
xử” để cảm hóa, tập hợp mọi người. Quan điểm này nhấn mạnh tính nhân văn và linh hoạt trong
phương pháp lãnh đạo, khác với kiểu “Đảng trị” quan liêu. Nhìn chung, những sáng tạo của Hồ
Chí Minh về Đảng đã bổ sung và phát triển lý luận Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Người kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố giai cấp và dân tộc, nhấn mạnh yêu cầu đạo đức của
Đảng cầm quyền, và đưa ra phương thức lãnh đạo mềm dẻo, vì dân. Chính nhờ đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam trở thành đội tiên phong gắn bó máu thịt với dân tộc, lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Câu 6: Trình bày khái niệm và vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trả lời: Khái niệm: Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tập hợp mọi lực lượng
người Việt Nam yêu nước vào một khối thống nhất, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc,
tôn giáo, đảng phái, quá khứ... miễn là cùng chung mục tiêu vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của
nhân dân. Hồ Chí Minh mở rộng phạm vi khối đoàn kết đến mức cao nhất: từ trong nước đến
ngoài nước, từ hiện tại đến cả những người Việt xa xứ, “không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”, tất cả “đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”. Người chỉ
loại trừ những ai cố tình phản bội Tổ quốc, làm tay sai cho ngoại bang chống lại lợi ích dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh bao hàm một hệ thống luận điểm, nguyên tắc, phương
pháp vận động quần chúng hết sức rộng rãi nhằm huy động tối đa sức mạnh của toàn dân tộc
phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Vai trò (tầm quan trọng): Hồ Chí Minh coi đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương
tiện chiến lược quyết định thành công của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết là nguồn sức mạnh
vô địch giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, đánh thắng mọi kẻ thù. Lịch sử cách mạng cho
thấy phong trào đấu tranh nào tập hợp được lực lượng toàn dân thì thắng lợi; ngược lại, chia rẽ,
cô lập sẽ dẫn đến thất bại. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa sống
còn, quyết định sự thành bại của cách mạng, là “điểm mẹ” – điểm gốc để thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ khác. Đoàn kết không chỉ là sách lược nhất thời mà là chiến lược lâu dài xuyên suốt
tiến trình cách mạng. Người còn chỉ rõ: cách mạng muốn thắng lợi phải có lực lượng, và lực
lượng đó chính là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, xây dựng đại đoàn kết dân tộc trở thành
mục tiêu hàng đầu và nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng và nhân dân ta trong mọi giai đoạn cách mạng.
Câu 7: Hồ Chí Minh đã xác định những lực lượng nào cần tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc?
Trả lời: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết dân tộc là khối đoàn kết toàn dân, bao
gồm tất cả người Việt Nam không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, đảng phái, độ tuổi, giới
tính,… miễn là có lòng yêu nước, có thiện chí xây dựng đất nước. Khái niệm “Dân” theo Người
rất rộng: “Dân là tất cả những ai thừa nhận mình là con dân nước Việt”, từ công nhân, nông dân,
trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, đến đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào theo các tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài… tất thảy đều là máu đỏ da vàng, con Lạc cháu
Hồng. Mọi người “đều là anh em ruột thịt”, cùng chung vận mệnh quốc gia. Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh đoàn kết cả những nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc, những người từng phục vụ
chế độ cũ hay thậm chí “cả những vị đại thần của triều cũ, cựu hoàng Bảo Đại” – miễn là họ hồi
tâm yêu nước, sẵn sàng góp sức cho dân tộc. Người chủ trương “thêm bạn bớt thù”: cố gắng lôi
kéo tối đa những ai có thể đoàn kết, trung lập tạm thời những đối tượng chưa ủng hộ, chỉ kiên
quyết loại trừ thiểu số phản quốc, Việt gian cố ý chống lại Tổ quốc. Như vậy, lực lượng của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh, bao trùm mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu
nước, không bỏ sót một ai, từ cụ già đến em nhỏ, từ miền ngược đến miền xuôi, từ trong nước
đến kiều bào xa xứ, cùng chung một chí hướng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Câu 8: Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Vì sao?
Trả lời: Hồ Chí Minh xác định nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là
liên minh bền chặt giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Người viết: “Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công-nông và trí thức
làm trụ cột để đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất”. Sở dĩ phải lấy ba lực lượng này làm nền tảng vì:
Công nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo nhất và có tinh thần cách mạng triệt để nhất ở
nước ta. Họ là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, lại bị áp bức nặng nề nhất, nên
có quyết tâm đấu tranh kiên cường cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Tầng lớp trí thức Việt Nam tuy không đông bằng nhưng phần lớn đều yêu nước, có kiến thức và
tinh thần dân tộc, cũng từng chịu cảnh mất nước nên cùng chung khát vọng độc lập, hạnh phúc
với nhân dân. Trí thức đóng vai trò cầu nối về trí tuệ, văn hóa, khoa học kỹ thuật cho cách mạng.
Ba lực lượng công – nông – trí đoàn kết với nhau tạo thành nòng cốt vững chắc nhất về cả số
lượng và chất lượng cho cách mạng. Hồ Chí Minh lưu ý mối quan hệ biện chứng: liên minh
công-nông-trí thức được củng cố thì Mặt trận dân tộc thống nhất mới mạnh; ngược lại, Mặt trận
đoàn kết càng mở rộng thì liên minh cơ bản kia càng có điều kiện phát huy vai trò. Ngoài ra,
Người còn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong khối đại đoàn kết – Đảng vừa là
một thành viên, vừa là “linh hồn” dẫn dắt khối đoàn kết. Đảng phải dựa chắc vào liên minh công-
nông-trí thức, đồng thời đại diện cho lợi ích chung của dân tộc thì mới quy tụ được các lực lượng khác.
Tóm lại, liên minh công – nông – trí dưới sự lãnh đạo của Đảng là nền tảng vì đây là lực lượng
cách mạng chủ lực, đảm bảo cho khối đại đoàn kết có tính thống nhất về mục tiêu và sức mạnh
lâu bền. Nền tảng vững chắc này giúp đoàn kết rộng rãi các tầng lớp khác mà không chệch
hướng cách mạng. Nhờ liên minh nền tảng, khối đại đoàn kết dân tộc có sức mạnh to lớn và bền
vững để lãnh đạo nhân dân đi đến thắng lợi cuối cùng.
Câu 9: Hồ Chí Minh nêu những điều kiện nào để xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân tộc?
Trả lời: Để đại đoàn kết dân tộc trở nên hiện thực và vững chắc, Hồ Chí Minh cho rằng phải thỏa
mãn một số điều kiện căn cốt sau:
Kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc: Người nhấn mạnh dân tộc ta
có truyền thống ngàn đời về đoàn kết chống ngoại xâm và tinh thần nhân ái, “nhiễu điều phủ lấy
giá gương”. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch giúp toàn dân chung sức vượt qua
mọi thử thách lịch sử. Do vậy, xây dựng đoàn kết phải dựa trên nền tảng tình cảm dân tộc thiêng
liêng và tinh thần nhân nghĩa bao dung đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi người Việt. Hồ Chí Minh
thường nhắc nhở: nhớ lấy lời dạy “nước ta nước dân, đoàn kết muôn năm” của cha ông, coi đoàn
kết dân tộc là di sản quý báu cần giữ gìn.
Có tấm lòng khoan dung, độ lượng đối với con người: Đây là điều kiện cực kỳ quan trọng. Hồ
Chí Minh chỉ rõ, do lịch sử để lại nhiều rạn nứt, nếu không có lòng bao dung thì không thể xóa
bỏ mặc cảm, định kiến để tập hợp mọi người. Người yêu cầu phải biết “khép lại quá khứ, hướng
tới tương lai”, phải trọng nhân tài, đại xá cho những người lầm lỡ, miễn họ thật tâm quay về với
cách mạng. Bản thân Hồ Chí Minh nêu tấm gương đại lượng: Người tha thứ, trọng dụng cả cựu
hoàng, quan lại cũ từng đối nghịch với mình. Tấm lòng “độ lượng rộng như biển cả” của Bác đã
cảm hóa được nhiều nhân vật, khiến họ quy tụ dưới ngọn cờ đoàn kết dân tộc. Nhờ thực hành
khoan dung, chúng ta mới xóa bỏ được hiềm khích, hòa hợp dân tộc để cùng tiến bộ.
Có niềm tin mạnh mẽ vào nhân dân: Hồ Chí Minh khẳng định, muốn đoàn kết rộng rãi phải tuyệt
đối tin yêu nhân dân, dựa vào dân. Người coi “dân là gốc” của nước: “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân”; “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Người tán thành câu tục
ngữ Quảng Bình: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Theo Hồ
Chí Minh, Đảng phải phấn đấu vì hạnh phúc của dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục đích
tối cao. Khi quần chúng thấy Đảng, Chính phủ hết lòng vì mình, họ sẽ tự nguyện đoàn kết dưới
ngọn cờ cách mạng. Do đó, yêu dân, tin dân, dựa vào dân là nguyên tắc tối cao chi phối mọi suy
nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh và cũng là điều kiện quyết định để củng cố khối đoàn kết.
Phân định rõ bạn – thù, mở rộng tối đa mặt trận dân tộc: Hồ Chí Minh lưu ý phải đoàn kết trên
lập trường có nguyên tắc, nghĩa là nhận thức đúng ai là bạn, ai là thù của dân tộc. Có như vậy
mới “thêm nhiều bạn, bớt kẻ thù”, tập hợp được nhiều lực lượng nhất để chống kẻ thù chung.
Người chỉ ra âm mưu “chia để trị” của thực dân đế quốc và luôn cảnh giác với luận điệu gây chia
rẽ khối đoàn kết. Vì thế, Đảng phải khôn khéo tranh thủ những người tuy khác biệt nhưng không
phải kẻ thù trực tiếp, cô lập bọn phản động ngoan cố đến mức cao nhất, chỉ kiên quyết với những
kẻ đối địch nguy hiểm nhất. Như vậy, điều kiện để đoàn kết thành công là phải mềm dẻo, linh
hoạt trong sách lược: rộng rãi với quần chúng, phân hóa cô lập kẻ thù.
Tựu trung, các điều kiện mà Hồ Chí Minh đề ra – kế thừa truyền thống, thực hành khoan dung và
củng cố niềm tin vào dân – chính là những yếu tố cảm hóa lòng người và định hướng chính trị
đúng đắn để xây dựng khối đại đoàn kết ngày càng mở rộng mà vẫn vững chắc. Nhờ đó, toàn dân
tộc có thể chung sức đồng lòng vì mục tiêu chung, bất chấp khác biệt về quá khứ hay thành phần.
Câu 10: Hình thức tổ chức cụ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo Hồ Chí Minh là gì?
Trả lời: Hồ Chí Minh xác định Mặt trận Dân tộc Thống nhất chính là hình thức tổ chức phù hợp
nhất để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngay từ những năm 1930, Đảng ta dưới sự chỉ đạo
của Nguyễn Ái Quốc đã chủ trương thành lập các Mặt trận tập hợp mọi lực lượng yêu nước qua
từng giai đoạn cách mạng: từ Hội Phản đế Đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ Đông Dương
(1936), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1946) đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
sau này. Mặc dù tên gọi và đối tượng cụ thể có thay đổi, nhưng Hồ Chí Minh khẳng định thực
chất các tổ chức đó chỉ là một – đều là hình thức tập hợp rộng rãi mọi giai cấp, tầng lớp, đảng
phái, tôn giáo, dân tộc… phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Mặt
trận Dân tộc Thống nhất là một tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của toàn thể nhân dân Việt
Nam, trong đó Đảng Cộng sản vừa là lực lượng lãnh đạo, vừa là một thành viên bình đẳng. Mặt
trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy cương lĩnh chung làm nền tảng đoàn
kết. Dưới mái nhà Mặt trận, tất cả các lực lượng yêu nước, dù khác nhau về ý thức hệ hay lợi ích
bộ phận, đều tìm thấy tiếng nói chung và mục tiêu chung để phấn đấu. Hồ Chí Minh ví Mặt trận
như nơi “quy tụ tất cả các đảng phái, giai cấp, tầng lớp, cá nhân yêu nước”, cùng chung một
“mẫu số chung” là độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Có thể nói, bằng việc kiên trì xây dựng
Mặt trận Dân tộc Thống nhất qua các thời kỳ, Hồ Chí Minh đã thể chế hóa tư tưởng đại đoàn kết
thành tổ chức cụ thể, tạo ra công cụ chính trị to lớn để tập hợp sức mạnh toàn dân. Mặt trận là
chỗ dựa vững chắc, góp phần quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như
thành công của các cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước sau này. Đến nay, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục đóng vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, kế thừa
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong giai đoạn mới.
Câu 11: Các nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của Mặt trận Dân tộc Thống nhất
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trả lời: Hồ Chí Minh yêu cầu Mặt trận Dân tộc Thống nhất phải được xây dựng và hoạt động
trên một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
Đoàn kết trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng: Đây là
nguyên tắc nền tảng. Mặt trận phải lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng vững chắc, đồng thời tất cả đều thống nhất dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Đảng lãnh đạo Mặt trận nhưng không áp đặt mệnh lệnh, mà bằng uy tín, thuyết phục
và nêu gương để giữ vững sự đoàn kết tự nguyện. Nguyên tắc này đảm bảo Mặt trận vừa rộng rãi
nhưng không chệch hướng, luôn phục vụ lợi ích chung của cách mạng.
Đảm bảo mục tiêu, lợi ích tối cao của dân tộc: Mặt trận phải hoạt động trên cơ sở đặt lợi ích
chung của dân tộc lên trên hết, đồng thời tôn trọng những quyền lợi chính đáng của các giai cấp,
tầng lớp. Hồ Chí Minh nhấn mạnh chỉ có đoàn kết bền chặt nếu các thành viên có mục đích
chung. Mục đích bất biến của Mặt trận ta qua các thời kỳ là độc lập dân tộc và hạnh phúc nhân
dân – đó là “mẫu số chung” để quy tụ mọi người. Mọi chương trình, hành động của Mặt trận
phải nhằm phục vụ Tổ quốc, đáp ứng nguyện vọng cơ bản của nhân dân; không một lợi ích cục
bộ nào được phép đi ngược lại lợi ích dân tộc.
Hiệp thương dân chủ, đoàn kết chân thành, lâu dài: Đây là nguyên tắc phương thức. Hiệp thương
dân chủ nghĩa là mọi vấn đề trong Mặt trận đều được thảo luận công khai, các thành viên tôn
trọng lẫn nhau, bàn bạc tìm tiếng nói chung. Đảng Cộng sản tuy lãnh đạo nhưng cũng là một
thành viên, nên mọi chủ trương của Đảng liên quan Mặt trận đều phải đưa ra trao đổi dân chủ với
các tổ chức, đoàn thể trong Mặt trận. Nhờ hiệp thương, các ý kiến khác biệt được lắng nghe, các
điểm tương đồng được mở rộng, thu hẹp tối đa những bất đồng, từ đó thống nhất hành động. Hồ
Chí Minh còn nhắc nhở đoàn kết phải thật sự chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ,
đoàn kết lâu dài, chứ không nhất thời. Nguyên tắc này nhằm giữ cho khối đoàn kết ngày càng mở
rộng mà vẫn bền chặt.
Tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng giữa các thành viên: Mọi tổ chức, cá nhân trong Mặt trận đều có
vị trí và tiếng nói được tôn trọng. Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhưng không đứng trên,
mà đứng cùng hàng với các tổ chức khác trong Mặt trận trên tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là
anh em” thân thiết. Đảng phải tôn trọng nguyên tắc, điều lệ của Mặt trận, không dùng địa vị lãnh
đạo để áp đặt, mà phải “lấy lòng chân thành đối xử” với đồng minh. Các bên đều bình đẳng
hướng tới mục tiêu chung.
Kết hợp hài hòa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc: Hồ Chí Minh lưu ý Đảng vừa phải kiên định
lập trường giai cấp công nhân, vừa phải khéo léo giải quyết hài hòa quan hệ giữa các giai cấp
trong khối đoàn kết. Phải biết đặt lợi ích chung của dân tộc lên trên lợi ích riêng, đồng thời chăm
lo những quyền lợi thiết thân của mỗi tầng lớp để ai cũng thấy mình có phần trong khối đoàn kết.
Có như vậy, đoàn kết mới rộng rãi và bền vững.
Đảng Cộng sản vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận: Đảng tham gia Mặt trận
với hai tư cách: là một thành viên bình đẳng, Đảng tuân thủ các nguyên tắc chung; là người lãnh
đạo, Đảng phải đủ uy tín, năng lực đề ra đường lối đúng đắn dẫn dắt Mặt trận. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh, để làm tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo khối đoàn kết, Đảng phải thật sự trong sạch, vững
mạnh, “vừa trí tuệ, vừa đạo đức, vừa văn minh, thống nhất”. Đảng phải phấn đấu cho lợi ích
chung của dân tộc, có tầm nhìn xa, hành động mẫu mực thì các thành viên mới tin tưởng, đoàn kết theo.
Những nguyên tắc trên đảm bảo cho Mặt trận Dân tộc Thống nhất hoạt động đúng hướng, hiệu
quả, thực sự phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Nhờ tuân thủ các nguyên tắc
này trong thực tiễn, Mặt trận do Hồ Chí Minh xây dựng đã quy tụ được mọi giai tầng xã hội, trở
thành nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Câu 12: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Trả lời: Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế, coi đó là hai mặt bổ sung cho nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Theo
Người, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, do đó phải vừa dựa vào sức
mạnh dân tộc mình, vừa tranh thủ sức mạnh của thời đại (tức sức mạnh của phong trào cách
mạng thế giới). Nhu cầu đoàn kết quốc tế: Hồ Chí Minh chỉ rõ hai mục tiêu lớn của đoàn kết quốc tế:
Thứ nhất, đoàn kết quốc tế nhằm phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình. Trong
hoàn cảnh Việt Nam, muốn đánh thắng thực dân đế quốc, ngoài lực lượng trong nước còn cần
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới. Đó chính là kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Người nói: “Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế… Đoàn kết quốc tế là nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam thắng
lợi”. Nhờ tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế (vũ khí, hậu cần, dư luận ủng hộ…), cuộc kháng chiến của
ta mới thêm sức mạnh. Chẳng hạn, sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và bạn bè quốc tế trong
kháng chiến chống Mỹ đã góp phần vào chiến thắng của ta. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh lưu ý:
muốn người giúp, trước hết mình phải tự giúp mình – tức phải tự lực tự cường làm gốc. Người
nêu cao tinh thần độc lập tự chủ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng được độc lập”. Do đó, đoàn kết quốc tế chỉ phát
huy tác dụng khi ta giữ vững đường lối độc lập, tự chủ. Sức mạnh bên ngoài (viện trợ, hỗ trợ) chỉ
có ý nghĩa khi kết hợp với sức mạnh nội lực của chính dân tộc mình. Đây cũng là nguyên tắc Hồ
Chí Minh luôn nhắc: “muốn người khác giúp mình thì trước hết tự mình phải giúp lấy mình”.
Thứ hai, đoàn kết quốc tế nhằm đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân loại. Hồ Chí
Minh khẳng định, Việt Nam chiến đấu không chỉ vì độc lập tự do của dân tộc mình, mà còn vì
độc lập, tự do của các dân tộc khác và hòa bình, dân chủ, tiến bộ trên toàn thế giới. Người xem
việc một dân tộc thuộc địa giành thắng lợi cũng chính là góp phần thúc đẩy thắng lợi của phong
trào cách mạng thế giới. Người nêu luận điểm: “chủ nghĩa yêu nước triệt để không tách rời chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong sáng”, yêu nước tức là góp phần bảo vệ hòa bình thế giới và ngược
lại, đấu tranh cho mục tiêu chung của nhân loại cũng chính là bảo vệ lợi ích dân tộc mình. Do đó,
Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết quốc tế không chỉ vì thắng lợi của riêng Việt Nam, mà vì “sự
nghiệp chung của nhân loại” – những mục tiêu cao cả như hòa bình, độc lập dân tộc, chủ nghĩa
xã hội. Người kịch liệt phản đối chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tư tưởng “coi mình là trung tâm”
hoặc bất kỳ biểu hiện cơ hội nào đi ngược lý tưởng đoàn kết quốc tế. Theo Hồ Chí Minh, muốn
đoàn kết quốc tế bền vững phải chân thành vì nhau, tránh thái độ ích kỷ, sô-vanh. Việt Nam sẵn
sàng làm bạn, làm anh em tốt của các dân tộc trên thế giới.
Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại: Đây là tư tưởng nổi bật của Hồ Chí Minh. Sức
mạnh dân tộc bao gồm những yếu tố nội sinh như chủ nghĩa yêu nước, ý chí quật cường, tinh
thần đoàn kết và truyền thống văn hóa của nhân dân ta. Sức mạnh thời đại là sức mạnh của các
trào lưu cách mạng thế giới: phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp vô
sản quốc tế, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào hòa bình dân chủ tiến bộ, v.v.. Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thấy trong thời đại mới, nếu biết kết hợp hai nguồn sức mạnh này sẽ tạo
nên sức mạnh tổng hợp vô cùng to lớn. Người đã đưa cách mạng Việt Nam “hòa vào dòng thác
cách mạng thế giới”, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, đồng thời luôn chủ động đóng góp
khi thời cơ cho phép. Thực tiễn chứng minh tư tưởng đó đúng đắn: nhờ có hậu thuẫn quốc tế,
cách mạng Việt Nam thêm sức mạnh; và thắng lợi của ta (như Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại
thắng 1975) cũng là đóng góp quan trọng vào phong trào chung của thế giới thuộc địa. Tư tưởng
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Hồ Chí Minh đến nay vẫn là kim chỉ nam
cho đường lối đối ngoại của Việt Nam.
Câu 13: Hồ Chí Minh đã đoàn kết quốc tế với những lực lượng nào trên thế giới?
Trả lời: Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, được Người xác
định trên nguyên tắc “có thể tranh thủ ai, đoàn kết ai có lợi cho cách mạng Việt Nam và cách
mạng chung thì cố gắng đoàn kết”. Cụ thể, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết với ba bộ phận lực
lượng cách mạng chủ yếu trên thế giới:
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: Đây là lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế theo
Hồ Chí Minh. Bao gồm tất cả các Đảng Cộng sản, Đảng công nhân, giai cấp vô sản và nhân dân
lao động ở các nước. Trong đó Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Quốc
tế Cộng sản (Quốc tế III) và sau này là các tổ chức liên minh của phong trào cộng sản được xem
là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng các nước thuộc địa. Hồ Chí Minh tin rằng chủ nghĩa đế
quốc là kẻ thù chung của vô sản toàn thế giới, nên vô sản các nước phải liên hiệp lại (“Bốn
phương vô sản đều là anh em”). Người cũng nhìn nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó đoàn kết quốc tế trước hết phải là sự liên minh
chặt chẽ giữa các Đảng Cộng sản, giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa: Là lực lượng mà Hồ Chí Minh hết sức gắn bó.
Người xuất phát từ một người dân mất nước nên thấu hiểu nỗi đau chung của các dân tộc thuộc
địa. Ngay từ rất sớm, Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi liên minh các dân tộc bị áp bức chống chủ
nghĩa đế quốc thực dân. Người tích cực hoạt động trong Hội Liên hiệp Thuộc địa ở Paris, tham
gia Quốc tế Cộng sản để kết nối phong trào các dân tộc thuộc địa với phong trào vô sản chính
quốc. Hồ Chí Minh vạch rõ âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù, do đó phải làm cho các dân tộc
thuộc địa “hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau” để hợp tác chống kẻ thù chung. Trên cương vị
lãnh đạo, Người đã thành lập Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào, giúp đỡ phong trào cách
mạng Lào, Campuchia trong kháng chiến; đồng thời luôn bênh vực các cuộc đấu tranh giải
phóng ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh. Nói chung, Hồ Chí Minh xem thắng lợi của cách mạng Việt
Nam là một phần thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc thế giới và ngược lại.
Các lực lượng tiến bộ, hòa bình, dân chủ trên toàn thế giới: Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết
rộng rãi với tất cả những ai yêu chuộng hòa bình, công lý, tự do dân chủ dù họ ở bất kỳ quốc gia,
chế độ nào. Người hiểu rằng bên cạnh các chính phủ thực dân hiếu chiến, vẫn có nhân dân và
nhiều nhân sĩ trí thức tiến bộ ngay trong lòng các nước đế quốc phản đối chiến tranh xâm lược.
Vì vậy, Người tìm cách “kêu gọi lương tri nhân loại”, tranh thủ sự đồng tình của phong trào hòa
bình thế giới, các tổ chức quốc tế, thậm chí cả những người dân thường tại Pháp, Mỹ… Hồ Chí
Minh từng nói ta chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ nhưng “không chống người Pháp, người
Mỹ” nói chung. Việt Nam luôn phân biệt rõ: kẻ thù là giới cầm quyền xâm lược, còn nhân dân
Pháp, Mỹ cũng là bạn nếu họ ủng hộ hòa bình. Nhờ đường lối đó, ta đã nhận được sự ủng hộ
mạnh mẽ của phong trào phản chiến ở chính quốc, của các lực lượng dân chủ trên thế giới trong kháng chiến.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã xây dựng một chiến lược đoàn kết quốc tế hết sức linh hoạt và rộng
mở. Người tranh thủ cả “ba dòng thác cách mạng”: phong trào vô sản, phong trào giải phóng dân
tộc và phong trào hòa bình, dân chủ. Sự kết hợp lực lượng rộng khắp đó tạo nên mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam, góp phần quan trọng đưa sự nghiệp cách mạng của ta đến thắng
lợi và đồng thời đóng góp cho phong trào đấu tranh chung của nhân loại.
Câu 14: Những nguyên tắc chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn
kết quốc tế là gì?
Trả lời: Hồ Chí Minh đã đề ra một số nguyên tắc cơ bản để xây dựng khối đoàn kết quốc tế vững chắc, tiêu biểu gồm:
Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình: Đây là nguyên tắc hàng đầu.
Các nước, các dân tộc chỉ có thể đoàn kết lâu dài khi cùng chung mục tiêu và hiểu rõ lợi ích hài
hòa. Hồ Chí Minh yêu cầu đoàn kết quốc tế phải dựa trên mục đích chung là hòa bình, độc lập,
tiến bộ; đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của mỗi bên. Người nói: chỉ khi có chung một số
phận, cùng chung mục đích thì mới thực hiện được đoàn kết chân chính. Sự giúp đỡ lẫn nhau
phải xuất phát từ tinh thần “có trước có sau”, “hữu ái giai cấp” – tức là vừa có lý (công bằng)
vừa có tình (nhân ái). Việt Nam đoàn kết với bạn bè quốc tế trên tinh thần không vụ lợi, giúp bạn
cũng là giúp mình. Người phản đối mọi biểu hiện lợi dụng, thực dụng trong quan hệ quốc tế.
Tôn trọng độc lập, chủ quyền và tự chủ của các dân tộc: Hồ Chí Minh nhấn mạnh đoàn kết phải
đi đôi với tôn trọng lẫn nhau. Mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền tự quyết; đoàn kết quốc tế
không có nghĩa là can thiệp vào nội bộ của nhau. Người luôn giữ vững lập trường độc lập, tự chủ
trong quan hệ quốc tế. Việt Nam nhận viện trợ nhưng không để bị lệ thuộc, và ngược lại khi giúp
bạn cũng tôn trọng quyền tự quyết của bạn. Người từng lưu ý: “muốn người ta tôn trọng mình,
mình phải tôn trọng người ta”. Đây chính là nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia
trong đoàn kết quốc tế.
Chân thành, tin cậy, đoàn kết lâu dài: Hồ Chí Minh yêu cầu đoàn kết quốc tế phải thật sự chân
thành trên tinh thần đồng chí anh em. Các bên cần tin tưởng lẫn nhau, thẳng thắn góp ý giúp
nhau cùng tiến bộ, tránh thái độ hoài nghi, cơ hội. Người phê phán chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và
tư tưởng sô-vanh nước lớn, vì những thứ đó phá hoại đoàn kết. Thay vào đó, các nước xã hội chủ
nghĩa, các dân tộc bị áp bức phải đối xử với nhau có tình có nghĩa, lúc hoạn nạn cũng như lúc
thành công đều kề vai sát cánh. Đoàn kết quốc tế theo Hồ Chí Minh không phải là liên minh tạm
bợ, mà là mối tình chiến đấu lâu dài vì lý tưởng chung.
Kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế: Hồ Chí Minh nêu một nguyên tắc
quan trọng: yêu nước phải đi đôi với yêu nhân loại tiến bộ. Người khẳng định chủ nghĩa yêu
nước chân chính không mâu thuẫn mà còn gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong
sáng. Do đó, khi tham gia đoàn kết quốc tế, mỗi quốc gia vừa phải hoàn thành tốt nhiệm vụ cứu
nước của mình, vừa ý thức được trách nhiệm đóng góp vào sự nghiệp chung. Hồ Chí Minh đòi
hỏi Đảng ta phải chứng minh bằng hành động rằng mình vừa trung thành với Tổ quốc, vừa tận
tụy với cách mạng thế giới. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo đoàn kết quốc tế được xây dựng trên
nền tảng lý tưởng cao cả, tránh rơi vào liên minh vụ lợi.
Độc lập, tự lực kết hợp viện trợ quốc tế: Như đã phân tích, Hồ Chí Minh chủ trương phải tự lực
cánh sinh làm gốc, đồng thời tích cực tranh thủ sự ủng hộ bên ngoài. Điều này cũng được xem là
một nguyên tắc trong quan hệ đoàn kết: tức là “dựa vào sức mình là chính”, không ỷ lại, nhưng
“có bạn thì thắng lợi càng mau”. Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ tránh cho quan hệ quốc tế rơi
vào cảnh nước lớn bảo hộ nước nhỏ, đảm bảo đoàn kết bình đẳng, hiệu quả. Việt Nam thời
kháng chiến tuân thủ nguyên tắc này nên vừa giữ được độc lập tự quyết, vừa nhận được nhiều sự
giúp đỡ quý báu từ các nước anh em.
Tóm lại, những nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đề ra – mục tiêu chung, tôn trọng chủ quyền, chân
thành tin cậy, kết hợp độc lập tự chủ với tinh thần quốc tế vô sản – đã định hướng cho việc xây
dựng khối đoàn kết quốc tế rộng rãi mà vững bền. Nhờ tuân theo các nguyên tắc đó, Việt Nam
vừa tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế to lớn, vừa giữ vững độc lập tự chủ trong mọi giai đoạn
cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi cả nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.
Câu 15: Hồ Chí Minh đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế như thế nào trong thực tiễn?
Trả lời: Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Người
mang theo lòng yêu nước nồng nàn, đồng thời sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành
chiến sĩ quốc tế. Trong tư tưởng và hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn thể hiện rằng yêu
nước và yêu nhân loại không tách rời. Người từng giải thích: “Tinh thần yêu nước là kiên quyết
giữ gìn độc lập, tự do và toàn vẹn đất đai của nước mình. Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các
nước bạn và nhân dân các nước để gìn giữ hòa bình thế giới…”. Như vậy, bảo vệ Tổ quốc mình
cũng chính là đóng góp vào hòa bình chung; ngược lại, giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ lợi
ích cho dân tộc ta. Trong thực tiễn lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã có nhiều quyết sách thể hiện sự kết
hợp đó. Người kiên quyết đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam, nhưng đồng thời tích cực kêu
gọi đoàn kết với nhân dân Pháp chống chủ nghĩa phát-xít, sau này đoàn kết với nhân dân Mỹ
chống chiến tranh Việt Nam. Người chủ trương gửi “Thư kêu gọi nhân dân Pháp” (1946) bày tỏ
thiện chí hòa bình, và sau này là “Thư gửi Liên Hợp Quốc” (1946) đề nghị công nhận độc lập
Việt Nam – cho thấy Người luôn tìm bạn bè quốc tế để vừa giúp mình vừa đóng góp vào ổn định
chung. Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh quyết định gia nhập hệ thống xã hội chủ nghĩa, dựa vào
viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc… nhưng Việt Nam không bao giờ là chư hầu lệ thuộc, mà
luôn giữ quyền tự chủ quyết định vận mệnh mình. Khi đất nước bị bao vây cấm vận, Hồ Chí
Minh vẫn tranh thủ sự đồng tình từ các lực lượng hòa bình trên thế giới, nhờ đó cuộc kháng
chiến chính nghĩa của ta được ủng hộ rộng rãi. Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú ý giáo dục cán bộ,
đảng viên về tinh thần quốc tế trong sáng. Người yêu cầu Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của
mình chứng minh rằng mình vừa trung thành với Tổ quốc, vừa tận tụy với cách mạng thế giới.
Chẳng hạn, Việt Nam sau khi giành độc lập đã sẵn sàng giúp đỡ các nước láng giềng Lào,
Campuchia trong đấu tranh chống thực dân. Bản thân Hồ Chí Minh từng nói: “Giúp bạn là tự
giúp mình”, thể hiện sự hy sinh lợi ích riêng vì nghĩa tình quốc tế. Người kiên quyết chống tư
tưởng dân tộc hẹp hòi hay “ta là nhất” trong cán bộ, vì coi đó là trở lực cho đoàn kết quốc tế.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước và quốc tế bằng chính cuộc đời hoạt động
phong phú của mình: một mặt đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập, tự do của dân tộc Việt
Nam; mặt khác luôn nêu cao lý tưởng giải phóng các dân tộc, giải phóng giai cấp vô sản toàn thế
giới. Người chính là hiện thân sinh động của sự gắn kết giữa dân tộc và thời đại, giữa lá cờ đỏ
sao vàng của Việt Nam với lá cờ đỏ búa liềm của phong trào cộng sản quốc tế. Nhờ đó, cách
mạng Việt Nam vừa mang tính dân tộc sâu sắc, vừa có tầm vóc quốc tế lớn lao, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ.
Câu 16: Mối quan hệ giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí
Minh được thể hiện như thế nào?
Trả lời: Hồ Chí Minh khẳng định đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế gắn bó chặt chẽ, hữu cơ
với nhau. Người viết: “Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho đoàn kết quốc tế. Đoàn kết quốc tế là
nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi”.
Điều này có nghĩa là: trước tiên, một dân tộc muốn được bạn bè quốc tế ủng hộ thì bản thân dân
tộc đó phải đoàn kết nội bộ vững chắc. Nếu trong nước chia rẽ, mất lòng dân thì khó tranh thủ
được sự đồng tình của thế giới. Ngược lại, khi khối đoàn kết dân tộc đã vững, có chính nghĩa rõ
ràng, thì việc mở rộng đoàn kết quốc tế sẽ nhân lên sức mạnh cho dân tộc. Đồng thời, Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh đoàn kết quốc tế không làm giảm ý nghĩa đoàn kết dân tộc mà còn bổ
sung, tăng cường cho nhau. Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, nếu chỉ đơn độc một dân tộc
thì khó thắng kẻ thù mạnh, nhưng khi biết kết hợp với các lực lượng cách mạng bên ngoài thì sức
mạnh tổng hợp sẽ lớn hơn nhiều lần. Ví như cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhờ đoàn kết được cả
dân tộc (Bắc – Nam chung một mặt trận) và đồng thời đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc, bạn bè
quốc tế, ta đã tạo nên sức mạnh vượt trội đánh thắng đế quốc Mỹ. Hồ Chí Minh so sánh mối
quan hệ này như chiếc chiêng và tiếng vang: dân tộc là chiêng, quốc tế là tiếng – chiêng có to,
tiếng mới lớn. Chiêng (sức mạnh dân tộc) vững, tiếng (ủng hộ quốc tế) mới vang xa; tiếng vang
lại cổ vũ thêm sức cho người cầm chiêng. Nhờ sự hỗ trợ của quốc tế, dân tộc ta trưởng thành
nhanh hơn; và thắng lợi của dân tộc ta lại cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc khác đứng lên, tức là đóng
góp cho đoàn kết quốc tế. Đây chính là sự kết hợp biện chứng giữa sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại, giữa đoàn kết trong nước và đoàn kết ngoài nước. Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đoàn kết dân tộc là nền tảng quyết định để thực hiện đoàn kết quốc tế; đồng thời đoàn kết
quốc tế là sự mở rộng cần thiết để củng cố và tăng cường sức mạnh cho đoàn kết dân tộc. Hai
yếu tố này quấn quýt nhau như hai mặt của một vấn đề – cùng thúc đẩy sự nghiệp cách mạng
phát triển và đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Câu 17: Nhà nước “của dân, do dân, vì dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhà nước phi
giai cấp, không mang tính giai cấp nào.
Trả lời: Sai. Hồ Chí Minh khẳng định nhà nước ta tuy là của toàn dân nhưng vẫn mang bản chất
giai cấp công nhân, không có nhà nước nào đứng ngoài các giai cấp. Nói “của dân, do dân, vì
dân” là nhấn mạnh tính nhân dân rộng rãi chứ không phải nhà nước phi giai cấp. Thực chất, đó là
nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân (thông qua Đảng Cộng sản), nhằm đem lại lợi
ích cho nhân dân lao động.
Câu 18: Hồ Chí Minh cho rằng “mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Trả lời: Đúng. Người nhiều lần khẳng định nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhân dân là chủ và
có quyền lực tối cao. Câu nói “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” chính là của Hồ Chí Minh, thể hiện rõ quan
điểm đề cao vai trò làm chủ của nhân dân.
Câu 19: “Tập trung dân chủ” được Hồ Chí Minh xác định là nguyên tắc quan trọng nhất
trong xây dựng Đảng.
Trả lời: Đúng. Hồ Chí Minh coi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng kiểu
mới và nhấn mạnh đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất đảm bảo sức mạnh của Đảng. Nguyên
tắc này giúp Đảng vừa phát huy dân chủ nội bộ, vừa đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động.
Câu 20: Hồ Chí Minh không đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
Trả lời: Sai. Trái lại, Người rất coi trọng tự phê bình và phê bình, xem đó là quy luật phát triển
của Đảng. Người ví phê bình như “thuốc đắng giã tật” và gọi đó là “vũ khí sắc bén” để xây dựng
Đảng. Nhờ phê bình, Đảng mới kịp thời sửa chữa khuyết điểm, giữ gìn đoàn kết. Vì vậy, tự phê
bình và phê bình luôn được Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải thực hiện thường xuyên, nghiêm túc trong Đảng.
Câu 21: Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm” cần kiên quyết tiêu diệt.
Trả lời: Đúng. Người xem những thói xấu này nguy hại như giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết:
“tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu... cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Tội
lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian”, phải “thẳng tay trừng trị” như đánh giặc. Người gọi đó là
“giặc ở trong lòng” làm suy yếu Đảng và Nhà nước, nên phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ.
Câu 22: Hồ Chí Minh chủ trương pháp luật phải thật nghiêm minh, còn đạo đức không
quan trọng trong quản lý nhà nước.
Trả lời: Sai. Hồ Chí Minh yêu cầu kết hợp chặt chẽ pháp luật với đạo đức. Người nhấn mạnh
Nhà nước phải thượng tôn pháp luật, nhưng đồng thời cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Người
đề ra phương châm “đức trị kết hợp pháp trị”, coi giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ là cách
tốt nhất để pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Do đó, đạo đức giữ vai trò rất quan trọng, bổ
sung cho pháp luật trong quản lý nhà nước.
Câu 23: Đại đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh chỉ giới hạn trong liên minh công nhân và nông dân.
Trả lời: Sai. Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân, trên nền liên minh
công-nông nhưng mở rộng tới mọi giai cấp, tầng lớp, kể cả trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc,
tôn giáo, dân tộc thiểu số, kiều bào… miễn là yêu nước. Người nhiều lần nhấn mạnh “đoàn kết
rộng rãi tất cả các tầng lớp nhân dân”, không bỏ sót một ai yêu nước, chứ không chỉ công – nông.
Câu 24: Hồ Chí Minh sẵn sàng hòa hợp, đoàn kết với những người từng ở phía bên kia
chiến tuyến nếu họ có lòng yêu nước.
Trả lời: Đúng. Người có tinh thần khoan dung, độ lượng rất lớn. Hồ Chí Minh đã quy tụ xung
quanh mình cả những nhân sĩ, quan chức chế độ cũ (như Cựu hoàng Bảo Đại, các vị từng làm
quan dưới triều Nguyễn…) khi họ tán thành độc lập dân tộc. Người chủ trương “đem đại nghĩa
để thắng hung tàn”, ai thực lòng vì nước thì dù quá khứ ra sao cũng đoàn kết, hợp tác. Thực tế,
Chính phủ liên hiệp kháng chiến của Người có thành phần rất rộng, kể cả những người khác
chính kiến, miễn là cùng chống thực dân.
Câu 25: Liên minh công – nông – trí thức là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trả lời: Đúng. Hồ Chí Minh khẳng định liên minh công-nông-trí dưới sự lãnh đạo của Đảng là
trụ cột đoàn kết toàn dân. Công nhân, nông dân và trí thức là lực lượng cách mạng chủ yếu, đông
đảo và tích cực nhất, do vậy sự liên hiệp ba lực lượng này tạo sức mạnh nòng cốt cho khối đoàn
kết dân tộc. Liên minh nền tảng được củng cố thì đoàn kết toàn dân mới vững chắc.
Câu 26: Trong Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng Cộng sản chỉ là một thành viên bình
đẳng, không giữ vai trò lãnh đạo.
Trả lời: Sai. Hồ Chí Minh xác định Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng
lãnh đạo Mặt trận. Đảng là “linh hồn” của khối đoàn kết dân tộc, giữ vai trò định hướng, tổ chức
và dẫn dắt Mặt trận thực hiện mục tiêu chung. Tuy nhiên, Đảng lãnh đạo bằng uy tín và thuyết
phục, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ, chứ không áp đặt mệnh lệnh. Như vậy nói Đảng
không lãnh đạo Mặt trận là sai; thật ra Đảng lãnh đạo hiệu quả khi tự gương mẫu và hòa mình
cùng các thành viên khác.
Câu 27: Hồ Chí Minh coi đại đoàn kết dân tộc là chiến lược lâu dài, quyết định thành công
của cách mạng, chứ không phải sách lược tạm thời.
Trả lời: Đúng. Người nhấn mạnh đoàn kết là vấn đề chiến lược, nhất quán, xuyên suốt tiến trình
cách mạng, có ý nghĩa sống còn quyết định thắng lợi. Hồ Chí Minh phê phán quan niệm coi đoàn
kết chỉ là thủ đoạn nhất thời. Đối với Người, đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu vừa là phương
tiện, phải được giữ vững lâu dài. Lịch sử đã chứng minh bài học đoàn kết mà Người đề ra luôn
đúng đắn qua mọi giai đoạn cách mạng.
Câu 28: Trong đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh chỉ chủ trương liên minh với các nước xã hội chủ nghĩa.
Trả lời: Sai. Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết quốc tế hết sức rộng rãi, không chỉ với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em, mà còn với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa, nhân dân các
nước tư bản tiến bộ, và mọi lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới. Người tranh thủ cả nhân
dân Pháp, Mỹ tiến bộ, các tổ chức quốc tế, chứ không giới hạn trong khối XHCN. Thực tế, ta
vừa liên minh chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc…, vừa kêu gọi được sự ủng hộ to lớn từ nhân
dân các nước phương Tây phản đối chiến tranh Việt Nam. Điều đó đúng với tinh thần đoàn kết
quốc tế của Hồ Chí Minh.
Câu 29: Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trả lời: Đúng. Theo Hồ Chí Minh, yêu nước một cách triệt để không thể tách rời tinh thần quốc
tế trong sáng. Người nêu rõ: “Tinh thần yêu nước… tinh thần quốc tế… Đó là lập trường quốc tế
cách mạng”. Người yêu cầu Đảng ta chứng minh rằng lòng yêu nước Việt Nam luôn đi đôi với
đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới. Bản thân Hồ Chí Minh là tấm
gương tiêu biểu kết hợp hài hòa hai tinh thần đó.
Câu 30: Nguyên tắc đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh là phải giữ vững độc lập, tự chủ và
có tinh thần tự lực cánh sinh.
Trả lời: Đúng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong quan hệ quốc tế phải độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường. Người cho rằng nội lực của dân tộc là quyết định, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ phát huy khi
ta tự lo liệu là chính. Người căn dặn: “muốn người khác giúp mình thì trước hết tự mình phải
giúp lấy mình”, dân tộc không tự lực mà chỉ chờ viện trợ thì không xứng đáng độc lập. Vì vậy,
Việt Nam luôn giữ nguyên tắc độc lập tự quyết trong khi tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Nguyên tắc
này đảm bảo đoàn kết quốc tế nhưng không lệ thuộc, phù hợp tư tưởng Hồ Chí Minh.