-
Thông tin
-
Quiz
Đề Cương Ôn Tập Thi Học Kì Kinh tế chính trị Mác – Lênin | Đại học Y Dược Thái Bình
Mục đích nghiên cứu của KTCT Mác – Lênin:- Mục đích nghiên cứu ở cấp độ cao nhất của kinh tế chính trị Mác - Lênin là nhằm
phát hiện ra các quy luật chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuấtvà trao đổi.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem
Kinh tế chính trị (ytb) 2 tài liệu
Đại Học Y Dược Thái Bình 100 tài liệu
Đề Cương Ôn Tập Thi Học Kì Kinh tế chính trị Mác – Lênin | Đại học Y Dược Thái Bình
Mục đích nghiên cứu của KTCT Mác – Lênin:- Mục đích nghiên cứu ở cấp độ cao nhất của kinh tế chính trị Mác - Lênin là nhằm
phát hiện ra các quy luật chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuấtvà trao đổi.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem
Môn: Kinh tế chính trị (ytb) 2 tài liệu
Trường: Đại Học Y Dược Thái Bình 100 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45764710
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP THI HỌC KÌ KTCT MÁC – LÊNIN Câu 1:
Mục đích nghiên cứu của KTCT Mác – Lênin:
- Mục đích nghiên cứu ở cấp độ cao nhất của kinh tế chính trị Mác - Lênin là nhằm
phát hiện ra các quy luật chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuất
và trao đổi. Từ đó, giúp cho các chủ thể trong xã hội vận dụng các quy luật ấy, tạo
động lực để không ngừng sáng tạo, góp phần thúc đẩy văn minh và sự phát triển
toàn diện của xã hội thông qua việc giải quyết các quan hệ lợi ích.
- Mục đích xuyên suốt của Kinh tế chính trị Mác - Lênin không chỉ hướng đến việc
thúc đẩy sự giàu có mà hơn thế, kinh tế chính trị Mác - Lênin còn hướng tới cung
cấp cơ sở khoa học góp phần thúc đấy trình độ văn minh và phát triền toàn diện
của xã hội. Kinh tế chính trị Mác - Lênin không phải là khoa học về kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Chức năng của KTCT Mác – Lênin:
Kinh tế chính trị Mác – Lênin có những chức năng sau đây:
o Thứ nhất: Chức năng nhận thức:
Kinh tế chính trị Mác Lênin cũng giống các ngành khoa học khác, đưa đến những vấn
đề về nhận thức, khám phá. Chức năng này của kinh tế chính trị được thể hiện ở chỗ nó
cần phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế của đời sống xã hội, tìm ra
quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các quy luật kinh tế
một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
o Thứ hai: Chức năng thực tiễn: lOMoAR cPSD| 45764710
Giống như các môn khoa học khác, chức năng nhận thức của kinh tế chính trị không
có mục đích tự thân. Nhận thức không chỉ để nhận thức mà nhận thức còn để phục vụ cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đó là chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị.
Hai chức năng trên của kinh tế chính trị Mác Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đường lối, chính sách và biện pháp kinh tế dựa trên những luận cứ khoa học đúng đắn
của các chính sách, biện pháp kinh tế và kiểm nghiệm những kết luận mà kinh tế chính trị
đã cung cấp trước đó. Thực tiễn vừa là nơi xuất phát vừa là nơi kiểm nghiệm tính đúng
đắn của lý luận kinh tế. Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận kinh tế là sự phát
triển của nền sản xuất xã hội, tính đúng đắn của lý luận kinh tế là ở sự phát triển của nền
sản xuất xã hội, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế.
o Thứ ba: Chức năng tư tưởng:
Trong các xã hội có giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ
các quan điểm lý luận của nó xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi ích của các giai cấp hoặc
các tầng lớp xã hội nhất định. Lý luận kinh tế Chính trị của giai cấp tư sản đều phục vụ
cho việc củng cố sự thống trị của giai cấp tư sản, biện hộ cho sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
o Thứ tư: Chức năng phương pháp luận:
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết luận
của kinh tế chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật kinh tế có tính chất chung là cơ
sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành và các môn kinh tế chức năng. Đồng thời,
kinh tế chính trị cũng là cơ sở lý luận cho một số các môn học khác như: địa lý kinh tế,
dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân, lý thuyết quản lý,… Câu 2: lOMoAR cPSD| 45764710
Thế nào là hàng hóa:
Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá,
đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên
thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi hay mua bán.
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất khác
nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai
thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa ⮚
Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người. Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết
bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất… Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều
thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác
nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong
ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
Đối với giá trị sử dụng, hàng hóa có các đặc điểm như sau:
o Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định
o Hàng hóa không nhất thiết chỉ có một giá trị sử dụng duy nhất. Khi khoa học kỹ
thuật càng phát triển người ta càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của hàng hóa
và sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau.
o Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc
mọi kiểu tổ chức sản xuất.
o Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà cho người
tiêu dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng hàng hóa lOMoAR cPSD| 45764710
theo mục đích của họ. Hay nói cách khác, sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của xã hội.
=> Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải
bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn, không khí rất cần cho
cuộc sống con người. nhưng không phải là hàng hóa. Nước suối, quả dại cũng có giá trị
sử dụng, nhưng cũng không phải là hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa
thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa
là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. ⮚
Giá trị hàng hóa:
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Các Mác viết: “Giá trị
trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những
giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác”.
Trước tiên, để bạn đọc có thể hình dung rõ hơn về khái niệm này, chúng ta sẽ cùng
xét một ví dụ đơn giản như sau:
Giả sử một con gà có thể được đổi lấy 10kg táo. Có nghĩa là gà và táo là vật mang
giá trị trao đổi. Trong trường hợp này, có hai câu hỏi đặt ra:
Thứ nhất: Tại sao gà và táo là hai loại hàng hóa khác nhau, có giá trị sử dụng khác nhau
lại có thể trao đổi với nhau?
Thứ hai: Tại sao chúng ta lại trao đổi theo tỷ lệ nhất định 1:10
Cụ thể trong ví dụ này, hao phí lao động của người nuôi gà sẽ bằng với hao phí lao động
của người trồng táo. Hay nói cách khác thời gian lao động xã hội cần thiết để nuôi một
con gà sẽ bằng với thời gian lao động xã hội cần thiết để trồng được 10kg táo => 1 con gà
có giá trị bằng 10kg táo. lOMoAR cPSD| 45764710
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Vấn đề đặt ra là, tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại
có thể trao đổi được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
Khi hai hàng hóa khác nhau là vải và thóc có thể trao đổi được với nhau, thì phải
có một cơ sở chung nào đó: Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, tuy sự khác nhau
về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Song, cái chung đó
phải nằm ở cả hai hàng hóa. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa
chúng chỉ có một cái chung: chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và
thóc, nguời thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động để sản xuất ra
chúng. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa chúng với nhau.
Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1m vải = 10kg thóc), vì người ta cho
rằng lao động hao phí sản xuất ra lm vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 10kg thóc.
Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng
hóa. Từ sự phân tích trên, rút ra kết luận: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
=> Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh bên trong
hàng hóa. Giá trị là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra bên ngoài
bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Giá trị hàng hóa có những đặc trưng cơ bản như sau:
• Biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
• Là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại ở kinh tế hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa
mâu thuẫn với nhau. - Thống nhất: lOMoAR cPSD| 45764710
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có giá trị
sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng không có giá
trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì
sẽ không phải là hàng hoá. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng
không có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội)
cũng không trở thành hàng hoá. - Đối lập:
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải mặc,
sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất
về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều là sự kết
tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do
lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian.
• Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.
• Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ
cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị sử
dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu không
thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng
hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. Câu 3:
• Tiền tệ là gì? lOMoAR cPSD| 45764710
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa,
sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị, đồng thời cũng là sản phẩm của sự
phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa.
Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Theo Mác, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng
hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực
tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp
nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
• Chức năng của tiền tệ
Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ,
phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới:
o Tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của
các hàng hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một
lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống
xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn bằng giá trị.
Ví dụ về thước do giá trị tiền tệ: Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và
được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 5
xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1
đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10 lOMoAR cPSD| 45764710
xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh
hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.
o Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một
phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức
H – T – H’. Đây là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng
này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thỏi, bạc nén, tiền đúc và cuối
cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc
XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật
liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình
mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách rời
nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
VD: Ngày xưa Nước Ta lưu hành những đồng xu tiền làm bằng nhôm. Để
thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng xu tiền để tiện tàng trữ và đếm.
Những đồng xu tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày
đó .Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có
thực trạng này vì tiền làm phương tiện đi lại lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát.
o Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền
bạc, các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng
lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là
dự trữ tiền cho lưu thông.
VD: Người giàu thời xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong
rương. Bạn thuận tiện nhìn thấy trong những phim truyền hình xưa, cổ tích.
Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng
nhà nước. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc . lOMoAR cPSD| 45764710
o Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của
người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ
tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá
trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất
hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.
VD: Hiện nay ngân hàng nhà nước điều cho vay tín dụng thanh toán. Bạn
thuận tiện trở thành con nợ của ngân hàng nhà nước nếu tiêu xài không đúng cách .
o Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện
khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước.
Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị,
phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải
từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng
hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc
trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối
đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.
VD: Hiện nay ngành du lịch tăng trưởng, mọi người thuận tiện du lịch quốc
tế. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tý giá
hối đoái dự vào nền kinh tế tài chính của những nước nên có giá trị khác
nhau. Hiện tại 1 USD = 23.000 VNĐ Câu 4:
1. Người sản xuất: lOMoAR cPSD| 45764710
- Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ
ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm
các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ...
- Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội, mà còn
tạora và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối
đa trong điều kiện nguồn lực có hạn.
- Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối
với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ không làm tổn hại
tớisức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
2. Người tiêu dùng
- Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đề thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người
tiêudùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất.
3. Các chủ thể trung gian trong thị trường
• Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các
chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường..-Hoạt động của các
trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực hiện giá trị củahàng hóa cũng như
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. -Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường không phải chỉ có các trung
gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể trung gian phong phú trên tất cả
các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới chứng khoán, trung gian môi giới nhà
đất, trung gian môi giới khoa học công nghệ... Bên cạnh đó cũng có nhiều loại
hình trung gian khồng phù hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo, môi giới bất
hợp pháp...). Những trung gian này cần được loại trừ. lOMoAR cPSD| 45764710 4. Nhà nước
• Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh té đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục
những khuyết tật của thị trường. Câu 5:
• Giá trị hàng hoá sức lao động
Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức co động củng do thời gian lao
động xã hội cần thiết để xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.
Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sông của con người. Muốn tái sản xuất ra năng
lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để mặc, ở,
học nghề. V.V.. Ngoài ra người lao động còn phải thoả mãn những nhu cầu của gia đình và
con cái anh nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên tục.
Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nuôi sống
bản thân người công nhân và gia đình anh ta; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao
động được đo gián tiếp rằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.
Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở
chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những
nhu cầu về tinh thần, văn hoá...
Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước
ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điểu kiện địa lý, khí hậu của nước đó. lOMoAR cPSD| 45764710
Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi một nước nhất định
và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao
động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao
động do những bộ phận sau đây hợp thành:
1. Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái
sảnxuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân;
2. Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân;
3. Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái
vàgia đình người công nhân.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.
Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức động khác với quá trình tiêu dùng hàng
hoá thông thường ở chỗ:
Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá
trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.
Đối với hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình sản xuất ra một
loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá của
bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà
tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có chất
đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn
giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa
sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản. lOMoAR cPSD| 45764710 Câu 6:
1. Tư bản bất biến
Để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động.
Trong quá trình sản xuất , giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công
nhân chuyển vào sản phẩm mới, lượng giá trị của chúng không đổi. Bộ phận tư bản ấy
được gọi là tư bản bất biến .
2. Tư bản khả biến
Nhưng đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì trong quá trình sản xuất,
bằng lao động trừu tượng của mình, người công nhân tạo ra một giá trị mới không chỉ bù
đắp đủ giá trị sức lao động của công nhân mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Như vậy, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng và được gọi là tư bản khả biến
3. Tư bản cố định
Tư bản cố định là bộ phận chủ yếu của tư bản sản xuất (máy móc, nhà xưởng) tham gia
toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản
phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.
Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình (hao mòn về vật chất, hao mòn về giá trị sử
dụng do tác động của tự nhiên) và hao mòn vô hình (hao mòn tuần tuý về mặt giá trị do
xuất hiện những máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có công suất lớn hơn).
4. Tư bản lưu động
Còn tư bản lưu động là một bộ phận của tư bản sản xuất (nguyên nhiên liệu, sức lao
động) được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển
toàn bộ vào sản phẩm trong quá trình sản xuất. Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn
tư bản cố định và việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động cóý nghĩaquan trọng.
Nó giúp cho việc tiết kiệm được tư bản ứng trước cũng như làm tăng tỷ suất giá trị thặng dư trong năm. lOMoAR cPSD| 45764710
Việc phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến là dựa vào vai trò của từng bộ
phận tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư còn việc phân chia tư bản cố định
và tư bản lưu động là dựa vào phương thức chuyển dịch giá trị của chúng vào sản phẩm
trong quá trình sản xuất hay dựa vào tính chất chu chuyển của tư bản.
Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến phản ánh được
nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư. Trong quá trình sản xuất, tư bản bất biến chỉ là điều
kiện để sinh ra giá trị thặng dư còn tư bản khả biến mới là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động tuy không phản ánh nguồn gốc
sinh ra giá trị thặng dư nhưng lại có ý nghĩa quan trong trong việc quản lý kinh tế. Nó là
cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu động một cách có hiệu quả cao. Ví dụ:
C1 là giá trị máy móc, thiết bị, nhà xưởng
C2 là giá trị nguyên, nhiên, vật liệu
V là tư bản khả biến
Vậy, tư bản bất biến = C1 + C2; tư bản khả biến = V;
tư bản cố định = C1; tư bản lưu động = C2 + V. Câu 7:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản
dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dưtuyệt
đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
a) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối lOMoAR cPSD| 45764710
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn
thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo
dài ngày lao động của công nhân.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được trên cơ sở kéo dài tuyệt đối
ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4
giờlà thời gian lao động thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 4h / 4h x 100% = 100%
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu
không thay đổi, vẫn là 4 gịờ. Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 6h / 4h x 100% = 150%
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động
tấtyếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị
thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.
Về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng
không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Vì công
nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo
dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới
hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời
gian lao động thặng dư bằng không.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không
cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu
tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng
quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn,
ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ. lOMoAR cPSD| 45764710
b) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ
khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các
nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn
thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động
thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao
động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 4h / 4h x 100% = 100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ
cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao
động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian
lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Bây giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: m’ = 5h / 3h x 100% = 166%
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.Thời gian lao
động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động
tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Để hạ thấp được giá trị sức lao động thì
phải giảm được giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức
lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. lOMoAR cPSD| 45764710
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội
dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ
công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá
trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử
dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy
móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo
điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho
cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần
kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp. Câu 8:
1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn là chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và
chủ nghĩa tư bản độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước. Trong suốt quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản cũng có những mặt tích cực
đối với phát triển sản xuất. Đó là:
a) Chuyền nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đó giải phóng loài người khỏi nền kinh tế tự nhiên,
tự túc, tự cấp; chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất
nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Dưới tác động của quy luật giá trị thăng dư và các quy
luật kinh tế của sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa tư bản đó làm tăng năng suất lao động, tạo
ra khối lượng của cải khổng lồ hơn nhiều xã hội trước cộng lại
b) Phát triển lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD| 45764710
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao; từ kỹ thuật thủ công lên lên
kỹ thuật cơ khí, sang tự động hoá, tin học hoá và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát
triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả
khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
c) Thực hiện xã hội hoá sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản đó thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh và đạt tới
mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều
rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung
với quy mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc, mối liên hệ
kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ v.v làm cho các quá
trình sản xuất được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành
một quá trình sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu chủ nghĩa tư bản đạt được trong sự vận động đầy mâu
thuẫn. Điều đó thể hiện ở hai xu hướng trái ngược nhau là xu thế phát triển nhanh và xu
thế trì trệ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
V.I.Lênin nhận xét, sự phát triển nhanh chóng và sự trì trệ thối nát là hai xu thế
cựng song song tồn tại trong nền kinh tế của chủ nghĩa đế quốc. Đó chính là một biểu
hiện quan trọng thuộc bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ngày nay, bản
chất này biểu hiện rất nổi bật.
Xu thế phát triển nhanh của nền kinh tế biểu hiện ở chỗ, sau chiến tranh thế giới
thứ II, đặc biệt là vào những năm 50, 60 thế kỷ XX, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
thế giới đó xuất hiện thời kỳ tăng trưởng với tốc độ cao hiếm thấy. Trong thời gian từ
1948-1970, Mỹ, Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Canađa, Nhật bản v.v tỷ suất tăng trưởng lOMoAR cPSD| 45764710
bình quân trong tổng giá trị thu nhập quốc dân đạt 5,1%. Đồng thời, việc nâng cao hiệu
quả lao động sản xuất cũng rất rõ rệt.
Xu thế trì trệ của nền kinh tế mà VI.Lênin đó chỉ ra, có nguyên nhân cơ bản là do
sự thống trị của độc quyền. Độc quyền tạo ra những yếu tố ngăn cản sự tiến bộ kỹ thuật
và phát triển sản xuất như quy định giá cả độc quyền, hạn chế sản lượng và mua phát
minh kỹ thuật. Ngày nay, các yếu tố gây trì trệ vẫn còn và tiếp tục tác động.
Sự tồn tại song song của hai xu thế trên trong chủ nghĩa tư bản một mặt nói lên
rằng chủ nghĩa tư bản vẫn còn sức sống, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn có thể tự
điều chỉnh và trong giới hạn nhất định còn có thể thích ứng với nhu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất và thúc đẩy xã hội tư bản chủ nghĩa; đồng thời chủ nghĩa tư bản cũng
đang vấp phải những giới hạn nhất định, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn chưa giải quyết được.
2. Giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản
Giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư
bản; đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mặc dù chủ nghĩa tư bản đó
có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng không thể
khắc phục được mâu thuẫn này.
Mâu thuẫn cơ bản nói trên biểu hiện thành những mâu thuẫn cụ thể sau đây:
• Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động thể hiện sự phân hóa giàu-nghèo và tình trạng
bất công trong xã hội tăng. Sự bần cùng hoá tuyệt đối lẫn tương đối của giai cấp
công nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ phần tầng lớp trí thức và lao động có kỹ lOMoAR cPSD| 45764710
năng được cải thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn
không xoá được sự phân hoá giàu-nghèo sâu sắc. Thu nhập của 358 người giàu
nhất thế giới lớn hơn thu nhập hàng năm của hơn 45% dân số thế giới. Tình trạng
công nhân, người lao động thất nghiệp ngày càng tăng. Trong xã hội tư bản, sự bất
bình đẳng và các tệ nạn xã hội vẫn tồn tại phổ biến, sự suy đồi về xã hội, văn hoá
và đạo đức ngày càng trầm trọng.
• Mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển, bị lệ thuộc với các nước đế quốc trở
thành mâu thuẫn giữa các nước và tầng lớp thượng lưu giàu có ở phương Bắc với
các nước và tầng lớn nghèo khổ ở phương Nam.
• Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung tâm
kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên
quốc gia. Mâu thuẫn này có phần dịu đi trong thời kỳ cũn tồn tại sự đối đầu giữa
hai hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nay có chiều hướng
phức tạp sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Một mặt, sự phát triển của xu thế toàn
cầu hoá và của cách mạng khoa học và công nghệ khiến các nước đó phải liên kết
với nhau. Mặt khác, do tác động của quy luật phát triển không đều và lợi ích cục
bộ của giai cấp thống trị ở mỗi nước, các nước đó đó trở thành đối thủ cạnh tranh
với nhau, tranh giành quyền lực và phạm vi ảnh hưởng trên thế giới, nhất là giữa
ba trung tâm Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu. Biểu hiện của mẫu thuẫn giữa các nước ấy
trước hết là cuộc chiến tranh thương mại, chiến tranh về đầu tư kỹ thuật, tài chính
cũng như sự cạnh tranh giữa TNCs dưới nhiều hình thức.
• Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn xuyên suốt
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trờn phạm vi toàn thế giới.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liờnxô và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm
thời lõm vào thoỏi trào, nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Loài người