



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601435
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI HỌC KÌ 1 Môn: Triết Học Năm học: 2022-2023
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: Lý luận và vận dụng (Trang 90,91,92,93,94,95)
- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
+ Vật chất có trước , ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong bộ não con người:
Việc quyết định nguồn gốc của ý thức: không có sự tác động của thế giới khách quan vào
trong bộ não người thì sẽ không có ý thức. Ý thức là sản phẩm của 1 dạng việc có tổ chức cao
là bộ não người. Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.
Việc quyết định nội dung của ý thức: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định.
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức:
Vật chất quyết định phương hướng, kết cấu của ý thức.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người.
+ Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động, phát triển của những điều kiện vật chất
ở những mức độ nhất định:
Nếu ý thức phản ánh phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm thúc đẩy sự phát triển của các điều kiện vật chất.
Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm kìm hãm sự phát triển của
các điều kiện vật chất. Song sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm thời, bởi vì sự vật bao giờ cũng
vận động theo các quy luật khách quan vốn có của nó, nên nhất định phải có ý thức tiến bộ,
phù hợp, thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn phải
dựa trên cơ sở phản ánh thế giới vật chất.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; đồng thời ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như chủ thể và khách
thể, lý luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan,…
- Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoAR cPSD| 61601435
+ Vật chất quyết định ý thức, nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng nguyên tắc
tính khách quan: trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
+ Vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính tích cực, năng
động, sáng tạo của ý thức.
+ Cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí.
+ Chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ
+ Khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện chủ quan lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện chủ quan lẫn nhân tố khách quan. - Vận dụng
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải xuất
phát từ thực tế khách quan. Đầu tiên, bản thân mỗi người phải tự xác định được các điều
kiện khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản thân. Là sinh viên năm nhất đại
học Sư Phạm, học theo học chế tín chỉ, sống trong đất nước Việt Nam- một đất nước đang
phát triển nằm trên bán đảo Đông Dương, tôi tự nhận thức được rằng điều kiện của đất nước
còn khó khăn, cơ sở vật chất vẫn chưa hoàn thiện và hiện đại để đáp ứng nhu cầu của sinh
viên. Ví dụ như trong trường Đại Học Sư Phạm TPHCM vì lý do thiếu giảng viên nên một số
tiết học phải lùi vào buổi chiều tối để tiện cho việc giảng dạy hay đối với những bộ môn chuyên
ngành ở khoa Anh như Nghe – Nói – Đọc – Viết, do thiếu thốn về trang thiết bị nên quá trình
giảng dạy của giảng viên và quá trình học tập của học sinh đều bị ảnh hưởng.
Mặt khác, mỗi người cần phải đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo
các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như: tuân thủ theo
thời khóa biểu mà mỗi khoa đã giao cho học sinh để đi học đúng giờ, tham dự các tiết học
đầy đủ đồng thời làm theo những lời mà giảng viên hướng dẫn. Ngoài ra, cần phải tuân
thủ theo đúng nội quy nhà trường, chấp hành đúng kỷ luật đặc biệt là những qui chế về cấm thi, học lại…
Câu 2: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Lý luận và vận dụng (Trang 100)
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ
- Quan điểm siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau, cô lập
nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có thì chỉ là những
mối liên hệ giản đơn, hời hợt bên ngoài. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận mà không
thấy toàn thể, ‘’ chỉ thấy cây mà không thấy rừng’’.
- Do đó, quan điểm siêu hình không thể vạch ra được bản chất của các sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 61601435
Quan điểm biện chứng về mối liên hệ Khái
niệm mối liên hệ:
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, khái niệm mối liên hệ bao gồm hai phương diện sau:
+ Một là, mối liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc quy luật lẫn nhau, điều này quyết định sự tồn tại
của sự vật, hiện tượng.
+ Hai là, mối liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, điều này quyết định sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vậy, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự
biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
Tính chất của mối liên hệ:
-Mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất của mối liên hệ
phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
-Thứ nhất, tính khách quan:
+ Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo đó,
các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, muôn hình muôn vẻ như thế nào đi chăng nữa
thì chúng cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nội dung
của ý thức cũng chỉ là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người.
+ Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ
bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân
các sự vật, hiện tượng luôn luôn chứa đựng các mối liên hệ.
-Thứ hai, tính phổ biến:
+ Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới vật chất. Mỗi
sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại
một cách cô lập, biệt lập với các sự vật, hiện tượng khác; cũng như không thể có yếu tố hay bộ
phận nào tồn tại tách biệt với các yếu tố hay bộ phận khác. Bản thân sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất.
+ Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy con người. -Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
+ Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình muôn vẻ của
thế giới vật chất. Trong thế giới có nhiều kiểu mối liên hệ, mà mỗi kiểu mối liên hệ có đặc điểm
riêng, có vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 61601435
+ Song, thực chất của khoa học là nhận thức các mối liên hệ, vì thông qua các mối liên hệ mà sự
vật, hiện tượng mới bộc lộ các thuộc tính và thông qua các thuộc tính ấy mới nắm bắt được bản
chất của các sự vật, hiện tượng.
+ Có mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài; có mối liện hệ cơ bản – mối liên hệ không cơ
bản; có mối liên hệ chủ yếu; có mối liên hệ bản chất – mối liên hệ ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực
tiếp – mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ diễn ra rất phức tạp trong đời sống xã hội, vì ở đó có sự
tham gia của con người có ý thức, nhưng tổng hợp các mối liên hệ trong đời sống xã hội vạch ra
đường đi cho mình theo những xu hướng nhất định, đó là các quy luật xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo quan
điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
-Quan điểm toàn diện theo yêu cầu:
+Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể
cả những khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
+Hai là, trong vô vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, tức
là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng.
+Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối chiếu với các mối
liên hệ còn lại để tránh mắc sai lầm trong nhận thức.
+Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một mặt mà không thấy
nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
+Năm là, chống lại cách xem xét cao bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như nhau), có nghĩa là
chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
+Sáu là, chống lại thuật ngụy biện ( quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành
cái cơ bản; bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý, nhưng thật chất là vô lý).
-Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
+Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh lịch sử -
cụ thể; trong điều kiện, môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định;
trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng
hệ tọa độ nhất định…
+Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau
phải giải quyết trong thực tiễn.
+Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể
nhất định, như theo V.I. LÊ nin, “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”, đó là ‘’ bản chất ‘’ và ‘’
linh hồn sống’’ của chủ nghĩa Mác. lOMoAR cPSD| 61601435
Nguyên lý về sự phát triển
Quan điểm siêu hình về sự phát triển:
-Thứ nhất, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển.
Quan điểm siêu hình cho rằng, thế giới được sinh ra một lần rồi mãi mãi cứ như vậy
-Thứ hai, nếu có phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay đổi về chất.
Quan điểm siêu hình không thừa nhận bước nhảy vọt về chất; phát triển chỉ là quá trình vận động tịnh tiến đi lên.
-Thứ ba, sự phát triển diễn ra theo đường thẳng hoặc theo đường tròn khép kín.
Vì phát triển chỉ là quá trình vận động tịnh tiến đi lên nên phát triển diễn ra theo đường thẳng,
hoặc phát triển là một chu kỳ lặp lại hoàn toàn cái cũ.
-Thứ tư, phát triển chẳng qua chỉ là sự vận động đi tới ‘’cõi chết’’ mà thôi.
Đây là quan điểm của một lực lượng bi quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó cho rằng, trong
chủ nghĩa tư bản, kinh tế phát triển nhưng các vấn đề xã hội nan giải không giải quyết được.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển
Khái niêm phát triển
-Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
-Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ mật
thiết với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì mới có vận động, phát triển.
Tính chất của sự phát triển:
-Sự phát triển có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất đó của sự phát
triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
-Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào
ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn nằm
trong quá trình phát triển.
-Thứ hai, tính phổ biến:
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn,
phù hợp với quy luật khách quan. lOMoAR cPSD| 61601435
-Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
+Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những điều
kiện không gian và thời gian khác nhau, trong lĩnh vực hiện thực khác nhau. Chẳng hạn:
-Trong giới tự nhiên, sự phát triển thể hiện ở mức độ hoàn thiện của tổ chức vật chất; ở sự xuất
hiện của những giống loài mới ngày càng phức tạp hơn…
-Trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển thể hiện ở trình độ của nền sản xuất xã hội; ở khả năng chinh
phục giới tự nhiên của con người; ở quá trình nhân tạo hóa đời sống xã hội loài người và hoàn
thiện bản chất con người…
-Trong tư duy, sự phát triển thể hiện ở trình độ nhận thức của con người; ở trình độ tư duy
logic; ở khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa… +Phát triển là khuynh hướng
chung của sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, có thể trải qua những khâu trung gian, thậm chí
có những bước lùi tạm thời, nhưng chính sự thụt lùi ấy lại đóng vai trò là tiền đề, điều kiện cho một vận động đi lên.
+Quan điểm biện chứng về sự phát triển còn chỉ ra rằng:
Cách thức của sự phát triển là từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của bản thân các sự vật, hiện tượng,
là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Khuynh hướng của sự phát triển là phủ định của phủ định, sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định,
cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo quan điểm
phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể.
+Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi không
ngừng. V.I.Lê nin viết: “Logic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển trong “Sự tự
vận động” trong sự biến đổi của nó”.
+Hai là, cần vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, phát hiện ra những nhân tố mới tiến bộ đang
tiềm ẩn trong cái cũ, chỉ rõ tính chất đứng im tương đối, tạm thời của cái cũ; vạch ra xu hướng
phát triển của cái mới và tạo mọi điều kiện cho cái mới tiến bộ được ra đời. Cái mới lúc đầu được
ra đời có thể còn non yếu, mỏng manh, nhưng nhất định sẽ trở thành vững chắc; còn cái cũ cho
dù có bền vững đến mấy thì nhất định cũng sẽ bị phá vỡ và được thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn. lOMoAR cPSD| 61601435
+Ba là, cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, nghiên cứu để vạch ra đặc điểm,
nội dung của từng giai đoạn. Từ đó, đề ra các giải pháp, biện pháp tác động một cách phù hợp
nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, hiện tượng, tùy theo sự phát triển đó có
lợi hay có hại cho đời sống của con người và xã hội.
+Bốn là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vội vàng xóa bỏ
cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa có đầy đủ điều kiện chín muồi.
+Năm là, quan điểm phát triển chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, gây cản trở sự phát triển, cứ
giữ khăng khăng cái cũ, không chịu tạo ra cái mới khi đã hội đủ điều kiện chín muồi. -Vận dụng
Khi khẳng định vai trò của tư duy (ý thức) đối với nhận thức và cải tạo thế giới, V.I.Lênin đã khẳng
định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới
khách quan” [8, tr. 228]. Điều này cho thấy, một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con người có
thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan; mặt khác, thông qua hoạt động thực tiễn, con
người có thể cải biến hiện thực khách quan theo những lợi ích của mình. Cũng từ đó, có thể khẳng
định tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng đối với cả hoạt động nhận
thức lẫn hoạt động thực tiễn.
Năng lực tư duy biện chứng sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong quá trình học tập cũng như công tác sau này:
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Tư duy biện chứng sẽ giúp sinh
viên cái nhìn toàn diện, phân biệt tri thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định,
phát triển tri thức đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa ra
những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không còn phải học vẹt, học tủ;
mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới. Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu
hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ...
Câu 3: Quy luật lượng – chất: Lý luận và vận dụng (trang 127)
Quy luật lượng – chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật lượng – chất vạch ra cách thức của sự phát triển.
Nội dung quy luật: Khái niệm chất, lượng Khái niệm chất:
Chất là một phạm trù dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự
thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác. -Đặc điểm
+Thể hiện tính tương đối ổn định của sự vật hiện tượng. Nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành
sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. lOMoAR cPSD| 61601435
+Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn, trong mỗi giai
đoạn ấy nó lại có chất riêng.
+Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất. Nhờ đó, con người
có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật , hiện tượng khác.
+Mối quan hệ giữa chất và sự vật.
-Có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự
vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Biểu hiện của chất:
=>Thuộc tính của sự vật là những tinh chất, những trạng thái, những yếu tố kết cấu thành sự vật.
Đó là những cái của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và
phát triển của sự vật.
-Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện 1 chất của sự vật.
-Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
+Thuộc tính cơ bản: là những thuộc tính quyết định chất của sự vật, hiện tượng, nghĩa là khi nó
thay đổi thì chất của sự vật, hiện tượng sẽ thay đổi.
+Thuộc tính không cơ bản là những thuộc tính không quyết định chất của sự vật, hiện tượng,
nghĩa là khi nó thay đổi thì chất của sự vật, hiện tượng vẫn chưa thay đổi.
Tổng hợp các thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản, còn tổng hợp các thuộc tính không cơ bản
tạo thành chất không cơ bản của sự vật, hiện tượng.
+Chất cơ bản là một loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó báo hiệu sự tồn tại hay mất đi của
bản thân sự vật, hiện tượng. Do đó, muốn thay đổi căn bản sự vật, hiện tượng thì phải thay đổi chất cơ bản của nó.
+Chất không cơ bản là một loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó không quyết định sự tồn tại
hay mất đi của bản thân sự vật, hiện tượng. Khái niệm lượng
-Lượng là một phạm trù dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về
các phương diện số lượng các yếu tố cấu thành; quy mô của sự tồn tại; tốc độ, nhịp điệu vận động và phát triển của nó.
-Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật không phụ
thuộc vào ý chí, ý thức của con người.
+Biểu hiện của lượng. Lượng của sự vật biểu hiện kích thước dài hay ngắn, số lượng ít hay nhiều,
quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm. Bên cạnh đó, lượng chỉ
có thể biểu thị dưới dạng trìu tượng và khái quát.
+Lượng còn biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật ( số lượng nguyên tử hợp thành nguyên
tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) hoặc có những lượng còn vạch ra yếu lOMoAR cPSD| 61601435
tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật). +Phân biệt lượng
và chất: chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể xác định. Có
những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại
biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
-Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Thứ nhất, từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất.
+Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng. Chúng
tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có
tính quy định về chất và ngược lại.
+Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, sự thay đổi về chất chỉ
xảy ra khi sự vật hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đến một ngưỡng nhất định.
+Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, cho thấy sự thay đổi về lượng
của sự vật hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự
vật hiện tượng vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có những bước tiến đột phá.
-Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
+Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng bởi vì mỗi sự vật
hiện tượng đều phải có tính quy định về chất lại vừa có tính quy định về lượng, nên không có chất
thiếu lượng và ngược lại.
+Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một
giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay
đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất
giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn
bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó,
chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.) -Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất.
+Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng
thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó
chính là Điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất
yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước
nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
+Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển
của sự vật hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau,
được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy:
nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,… Bước nhảy là sự kết thúc một
giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự
gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
-Các hình thức của bước nhảy: lOMoAR cPSD| 61601435
+Bước nhảy đột biến: là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả các bộ
phận cấu thành sự vật.
+Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
+Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận các yếu
tố cấu thành nên sự vật.
+Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật.
-Thứ hai, sự tác động trở lại của chất đối với lượng
+Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của
sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
=>Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và
lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông
qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng
của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến
của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội tư duy.
Ý nghĩa phương pháp luận
-Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai mặt chất và lượng.
-Hai là, cần chú ý khâu tích lũy về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín muồi sẽ làm thay đổi
chất của sự vật, hiện tượng.
-Ba là, chống lại bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút mà đã
vội vàng thực hiện bước nhảy.
-Bốn là, chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không chịu thực hiện bước nhảy.
-Năm là, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và tạo mọi điều kiện
cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời.
-Sáu là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết
mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật, hiện tượng.
-Bảy là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng:
+Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
+Thay đổi chất lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng
+Thay đổi cơ chế tác động giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng
+Thay đổi trật tự sắp xếp giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng (thay đổi cấu trúc của sự vật, hiện tượng). lOMoAR cPSD| 61601435
+Thay đổi chức năng của các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng và chức năng của toàn bộ sự vật, hiện tượng.
+Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật, hiện tượng Vận dụng:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng
đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên
cũng không nằm ngoài điều đó. Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số
lượng các tín chỉ của các môn học. Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy kiến thức đã đủ
dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên
phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy
luật. Cần học tập đều đặn hàng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh gấp rút mỗi
khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận thức được trong quá trình học tập. Tránh
tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày.
Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới và
lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm việc ngay được vì kiến thức
mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh
viên học tập và rèn luyện chăm chỉ để tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua
những lần đi thực tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên môn
cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
Câu 4 : Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. (trang 131)
-Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản và là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật.
-Theo đánh giá của V.I.Lenin, quy luật mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng. V.I.Lenin viết:
‘’có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập”.
-Và:’’Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó…,-V.I.Lenin
khẳng định-đó là thực chất…của phép biện chứng .
-Quy luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Nội dung quy luật
Khái niệm mâu thuẫn, mặt đối lập:
-Mâu thuẫn là một phạm trù dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối
lập trong cùng một sự vật, hiện tượng.
-Như vậy, thực chất mâu thuẫn cũng là mối liên hệ, nhưng không phải bất kỳ mối liên hệ nào mà
chỉ là mối liên hệ giữa các mặt đối lập. lOMoAR cPSD| 61601435
-Mặt đối lập là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng
vận động trái ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
-Như vậy, hai mặt đối lập phải thỏa mãn đầy đủ hai điều kiện sau mới tạo thành mâu thuẫn:
+Thứ nhất, có xu hướng vận động trái ngược nhau.
+Thứ hai, làm nên chỉnh thể một sự vật, hiện tượng.
Hai mặt đối lập như vậy gọi là hai mặt đối lập biện chứng, chúng liên hệ với nhau hình thành nên mâu thuẫn biện chứng.
Tính chất chung của mâu thuẫn:
Vì mâu thuẫn cũng là mối liên hệ, nhưng không phải bất kỳ các mối liên hệ nào mà chỉ là mối liên
hệ giữa các mặt đối lập, nên mâu thuẫn cũng có đầy đủ các tính chất chung của mối liên hệ: tính
khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. Một là, tính khách quan:
Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ không phải do sự áp đặt từ bên
ngoài. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn này
mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành, sự vật, hiện tượng vừa là nó, vừa là cái khác với bản thân nó. Hai là, tính phổ biến:
Mâu thuẫn có ở trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình; mâu thuẫn có cả
trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Ba là, tính đa dạng, phong phú:
Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng, có cách
thức giải quyết riêng. Cụ thể là: Có mâu thuẫn bên trong – mâu thuẫn bên ngoài, có mâu thuẫn
cơ bản – mâu thuẫn không cơ bản, có mâu thuẫn chủ yếu – mâu thuẫn thứ yếu, có mâu thuẫn
đối kháng – mâu thuẫn không đối kháng…
+Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng và quyết
định sự vận động, phát triển của chúng.
+Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng với nhau và ảnh hưởng đến sự
vận động, phát triển của chúng.
=>Tuy nhiên, sự phân biệt giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài cũng chỉ mang tính
tương đối , tùy vào các mối quan hệ, hệ quy chiếu nhất định.
+Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quyết định sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng trong
suốt quá trình tồn tại của chúng.
+Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong suốt quá trình tồn tại của chúng. lOMoAR cPSD| 61601435
+Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu và quyết định sự vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng trong từng giai đoạn nhất định.
+Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không nổi bật lên hàng đầu và ảnh hưởng đến sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng trong từng giai đoạn nhất định.
+Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp mà lợi ích của
chúng trái ngược nhau, không thể điều hòa với nhau được.
+Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp mà lợi
ích của chúng về cơ bản thống nhất với nhau và có thể điều hòa với nhau được.
+Mâu thuẫn có đầy dủ tính chất chung của mối liên hệ, nhưng mặt khác, nó còn có những tính
chất riêng, đặc thù mà không phải bất kỳ mối liên hệ nào cũng có. Cụ thể là
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau:
Sự thống nhất của các mặt đối lập:
+Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau giữa các
mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại, nếu không có mặt đối lập này sẽ không có
mặt đối lập kia và ngược lại.
+Là sự đồng nhất của các mặt đối lập, bởi vì các mặt đối lập, bởi vì các mặt đối lập cho dù có khác
nhau nhưng bao giờ cũng có những yếu tố giống nhau, tương tự nhau, nghĩa là chúng đồng nhất với nhau.
+Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập khi các mặt đối lập có lực lượng ngang bằng nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Thực chất của sự đấu tranh của các mặt đối
lập gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn:
-Giai đoạn hình thành mâu thuẫn
+Đồng nhất nhưng đồng thời bao hàm sự khác nhau. +Khác nhau bề ngoài.
+Khác nhau bản chất, khi ấy mâu thuẫn được hình thành.
-Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn +Các
mặt đối lập xung đột với nhau.
+Các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, khi ấy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm.
-Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn
+Sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn được giải quyết, đồng thời bước nhảy được thực
hiện, chất mới được ra đời; sự vật, hiện tượng mới được ra đời thay thế cho sự vật, hiện tượng lOMoAR cPSD| 61601435
cũ. Ở sự vật, hiện tượng mới này lại xuất hiện mâu thuẫn mới, rồi mâu thuẫn tiếp tục lại được
triển khai, rồi lại được giải quyết…Cứ như vậy, sự vật, hiện tượng không tồn tại vĩnh viễn và quá
trình vận động, phát triển của thế giới là vô tận.
+Sự chuyển hóa của các mặt đối lập có thể được diễn ra theo hai cách: một là , các mặt đối lập
chuyển hóa cho nhau; hai là, cả hai đều trở thành những chất mới
Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
+Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với nhau: Nếu không có thống nhất
sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh; đấu tranh là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
+Mặc dù vậy, chúng có sự khác biệt: sự thống nhất phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng
im tương đối; còn sự đấu tranh phản ánh trạng thái vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng.
Nhờ có thống nhất, sự vật, hiện tượng mới tồn tại; còn nhờ có đấu tranh, sự vật, hiện tượng mới phát triển.
=>Tóm lại, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận
-Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất và
nhận thức các mặt đối lập của nó”. “Phân đôi’’ ở đây không phải là phân chia theo kiểu số học
thành hai phần bằng nhau, mà là phân đôi cái chỉnh thể thống nhất thành hai mặt đối lập biện
chứng ấy. Nghĩa là, cần phải xác định mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn, nghiên cứu các mặt đối
lập tạo thành mâu thuẫn.
-Hai là, cần phải có những biện pháp phù hợp trong việc giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn.
-Ba là, việc xem xét và giải quyết mâu thuẫn cần phải tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể.
-Bốn là, cần vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn tồn tại dưới dạng antinomie.
Antinomie là một loại mâu thuẫn đặc biệt xuất hiện trong quá trình nhận thức. Nó được hình
thành từ các luận đề đối lập nhau và chúng cùng đúng. Nhưng vấn đề là ở chỗ, chỉ được phép
chọn một trong các luận đề ấy. Phương pháp giải quyết là cần thiết lập nên một luận đề mới,
trong đó các luận đề ban đầu chỉ là những bộ phận của nó.
-Năm là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết
mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập. Vận dụng:
Mâu thuẫn tồn tại ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Bản thân em đang học
tập tại trường Đại học Sư Phạm TP.HCM, khách quan xung quanh môi trường học tập của
em tồn tại rất nhiều mâu thuẫn. Em xin phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến việc lOMoAR cPSD| 61601435
học tập của em trong môi trường học tập.
Trong quá trình học tập bao giờ cũng chứa đựng trong nó rất nhiều mâu thuẫn như: mâu thuẫn
giữa giảng viên và sinh viên, mâu thuẫn giữa sinh viên năm nhất với sinh viên năm tư, mâu thuẫn
giữa lý thuyết và kinh nghiệm cá nhân, mâu thuẫn giữa kiến thức và thực hành… Em xin được
phân tích mối quan hệ mâu thuẫn giữa kiến thức sinh viên tích lũy được và khả năng áp dụng vào thực tiễn.
Như chúng ta đã biết, sinh viên dành ra bốn năm học tập ở trường Đại học để tích lũy kiến thức
với mục đích cuối cùng là áp dụng vào thực tiễn công việc sau này. Mối quan hệ giữa kiến thức và
thực tiễn là hai mặt của một vấn đề, cả hai luôn biện chứng nhau, thâm nhập vào nhau và chuyển
hóa nhau. Khi kết thúc bốn năm học Đại học thì sinh viên đã tích lũy đủ kiến thức, nền tảng về
chuyên môn một ngành nghề nhưng không có kinh nghiệm thực tiễn. Hoặc có kinh nghiệm thực
tiễn nhưng lại thiếu kiến thức chuyên môn, nền tảng. Mục đích cuối cùng của sinh viên là học Đại
học để làm một công việc nào đó. Để khắc phục tình trạng trên thì bản thân mỗi sinh viên phải
không ngừng học hỏi kiến thức mới cũng như áp dụng vào thực tiễn để tích lũy thêm kinh nghiệm.
Học đi đôi với hành, có kiến thức nhưng thiếu thực tiễn hoặc ngược lại thì đều không đạt được mục đích cuối cùng.
Câu 5: Quy luật phủ định của phủ định (trang 135)
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển.
Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng:
-Trong thế giới vật chất, mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình sinh ra, tồn tại, rồi lại bị mất đi
và được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới gọi là phủ định.
-Phủ định biện chứng không bao hàm mọi sự phủ định nói chung, mà nó chỉ bao hàm những phủ
định là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, tạo ra bước nhảy
về chất, tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Đặc điểm của phủ định biện chứng:
-Thứ nhất, tính khách quan:
Nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay bên trong của bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết
quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, là kết quả của quá trình tích
lũy dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Như vậy, phủ định biện
chứng là sự tự thân phủ định.
-Thứ hai, tính kế thừa:
+ Phủ định biện chứng là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của bản thân sự vật,
hiện tượng và của quá trình tích lũy về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất, cho nên cái mới ra đời
không thể là sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn, đoạn tuyệt siêu hình với cái cũ, mà là sự phủ định có kế thừa. lOMoAR cPSD| 61601435
+ Cái mới được ra đời trên cơ sở cái cũ, chứ không phải từ hư vô, cái mới không xóa bỏ hoàn toàn
cái cũ, nó chỉ gạt bỏ những yếu tố lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp ở cái cũ; đồng thời giữ lại
những yếu tố tích cực, tiến bộ, còn phù hợp ở cái cũ dưới dạng ‘’ lọc bỏ”, cải tạo cho phù hợp với
điều kiện mới. Vì vậy, phủ định biện chứng đồng thời là sự khẳng định.
Ý nghĩa của quan điểm phủ định biện chứng:
-Quan điểm phủ định biện chứng chống lại quan điểm siêu hình về phủ định.
-Quan điểm siêu hình khi phủ định thì phủ định sạch trơn, xóa bỏ hoàn toàn cái cũ để xây dựng
lại toàn bộ cái mới , không gắn liền cái mới với cái cũ, chấm dứt sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
-Quan điểm siêu hình khi kế thừa thì lại kế thừa một cách nguyên xi, lắp ráp rập khuôn toàn bộ
cái cũ vào cái mới, không phê phán, không cải tạo cái cũ, không tạo ra những nhân tố mới tiến bộ hơn so với cái cũ.
-Do đó, quan điểm siêu hình không thấy được tiền đề của sự nảy sinh cái mới hoặc không thấy
được khuynh hướng phát triển của cái mới. Trái lại, quan điểm phủ định biện chứng đã nối liền
cái mới với cái cũ, thấy được khuynh hướng phát triển của cái mới.
=> Kết quả của phủ định biện chứng là cái mới ra đời thay thế cho cái cũ, nhưng rồi cái mới này
lại trở nên cũ và chứa đựng yếu tố nội sinh để dẫn đến khuynh hướng phủ định lần thứ hai. Đó
là phủ định của phủ định. Nội dung quy luật:
-Thứ nhất, trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, sợi dây chuyền của những lần phủ
định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định.
=>Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ
định, từ thấp đến cao một cách vô tận, sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra
đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
-Thứ hai, phủ định của phủ định là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật,
hiện tượng. Mỗi lần phủ định đều là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau giữa các
mặt đối lập – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Qua sự phủ định lần thứ nhất tạo ra cái phủ
định đối lập với cái khẳng định ban đầu. Qua sự phủ định lần thứ hai, sự vật, hiện tượng mới với
tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và dường như lặp lại cái khẳng định
ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
-Thứ ba, phủ định của phủ định là kết quả của sự tổng hợp các giai đoạn đã qua, vì vậy về nguyên
tắc, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn so với cái khẳng định ban đầu, cái phủ định
lần thứ nhất và các giai đoạn trước đó.
-Thứ tư, phủ định của phủ định đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ vận động, phát triển mới tiếp theo. lOMoAR cPSD| 61601435
-Thứ năm, không nên hiểu một cách máy móc, giản đơn rằng, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng
trải qua hai lần phủ định thì hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều hơn hai lần phủ định, tùy theo tính chất của một
quá trình phát triển cụ thể. Song về nguyên tắc, vẫn có thể quy về hai lần phủ định: Phủ định lần
thứ nhất chuyển cái khẳng định thành cái đối lập với mình, phủ định lần thứ hai là loại phủ định
trải qua một số khâu trung gian để chuyển thành cái đối lập với cái phủ định lần thứ nhất.
-Thứ sáu, phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển, sự phát triển diễn ra
theo đường ‘’xoáy ốc’’. Mô hình đường ‘’xoáy ốc’’ biểu thị tính vô tận, tiến lên và lặp lại của sự phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận:
-Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần tuân theo quan điểm phủ định biện chứng, chống lại
quan điểm siêu hình về phủ định.
-Hai là, trong giới tự nhiên, phủ định của phủ định được diễn ra một cách tự động, còn trong lĩnh
vực xã hội có sự tham gia của con người có ý thức. Vì vậy, cần nắm bắt điều kiện khách quan
thuận lợi, phát huy nhân tố chủ quan tích cực để tạo ra cái mới phù hợp với yêu cầu tiến bộ xã hội.
-Ba là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp Logic của tiến
trình phủ định biện chứng , đó là phủ định về tư tưởng sau đó tiến hành phủ định trong thực tiễn.
Cụ thể là: xuất phát từ thực trạng xã hội để tiến hành phê phán mang tính xây dựng đối với cái cũ
cần phủ định. Trên cơ sở đó, thiết lập nên mô hình lý luận mới thay thế cho mô hình lý luận cũ
(phủ định về tư tưởng), sau đó tiến hành hiện thực hóa mô hình lý luận ấy trong đời sống xã hội
(phủ định trong thực tiễn) . Vận dụng
Câu 6: Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức Thực
tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức.
-Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, buộc chúng
phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn cung cấp
những tài liệu, vật liệu cho nhận thức của con người. Không có thực tiễn thì không có nhận thức,
không có khoa học, không có lý luận, bởi lẽ tri thức của con người xét đến cùng là được nảy sinh từ thực tiễn.
-Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó
luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn có tác dụng rèn luyện các giác
quan của con người, làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, trên cơ sở đó giúp
quá trình nhận thức của con người tốt hơn. Vì vậy, Ph.Ăng ghen đã khẳng định: “Chính việc người lOMoAR cPSD| 61601435
ta biến đổi tự nhiên…là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ con
người đã phát triển song song với việc người ta đã học cách cải biến tự nhiên’’.
-Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc hỗ trợ con người
trong quá trình nhận thức, chẳng hạn như kính hiển vi, kính thiên văn, máy vi tính… đã mở rộng
khả năng của các khí quan nhận thức của con người. Như vậy, thực tiễn chính là nền tảng, cơ sở
để nhận thức của con người nảy sinh, tồn tại, phát triển. Không những vậy, thực tiễn còn là động
lực thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Nhận thức của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người
đã bị quy định bởi những nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ, muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản
xuất và cải tạo xã hội. Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo xã hội buộc con người phải nhận
thức thế giới xung quanh. Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn
dắt, chỉ đạo thực tiễn chứ không phải để trang trí, hay phục vụ cho những ý tưởng viễn vong. Nếu
không vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học – kết quả của
nhận thức chỉ có ý nghĩa khi nó được áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp hay gián
tiếp để phục vụ con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
-Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc
không đúng hiện thực. Không thể lấy tri thức để kiểm tra tri thức, cũng không thể lấy sự hiển
nhiên, hay sự tán thành của số đông hoặc sự có lợi, có ích để kiểm tra sự đúng, sai của tri thức.
Theo triết học Mác – Lê nin, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Dựa
vào thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm nghiệm chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có
thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân
lý hoặc phủ định một sai lầm nào đó.
-Có nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, do vậy cũng có nhiều hình thức kiểm tra chận lý khác
nhau, có thể bằng thực nghiệm khoa học, có thể áp dụng lý luận xã hội vào quá trình cải biến xã
hội,…Tuy nhiên thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính chất
tương đối. Tính tuyệt đối của thực tiễn với tư cách tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn là
tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể
sẽ chứng minh được chân lý , bác bỏ được sai lầm. Tính tương đối của thực tiễn với tư cách tiêu
chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ thực tiễn có quá trình vận động, biến đổi, phát triển, do đó “không
bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người,
dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa. Vì vậy, nếu xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng,
trong thời gian càng dài, trong chỉnh thể thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Triết học Mác-
Lê nin yêu cầu quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức và khẳng định “con người chứng minh bằng thực tiễn của mình sự đóng dấu
khách quan của những ý niệm, khái niệm tri thức của mình, của khoa học, của mình”. lOMoAR cPSD| 61601435
-Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chúng ta nhận thấy cần phải quán triệt quan điểm
thực tiễn trong nhận thức và hoạt động. Quan điểm thực tiễn yêu cầu, nhận thức sự vật phải gắn
với nhu cầu thực tiễn; phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của kết quả nhận
thức; tăng cường tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận góp phần bổ sung, hoàn thiện, phát
triển nhận thức, lý luận..
Vận dụng( giống vận dung 4)
Câu 7: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. (Trang 162)
Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất:
-Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, khẳng định khả năng
chinh phục giới tự nhiên của con người.
-Lực lượng sản xuất là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá
trình sản xuất vật chất, tức là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của
giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
-Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất; trong tư liệu sản xuất gồm có tư
liệu lao động và đối tượng lao động; trong tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và phương tiện lao động.
-Người lao động thể hiện ở ý thức, phẩm chất và trình độ về trí tuệ, chuyên môn, tay nghề, kỹ
năng, kinh nghiệm…của mình.
-Đối tượng lao động là một phần của giới tự nhiên được con người tác động tới trong quá trình
lao động. Đối tượng lao động bao gồm đối tượng lao động có sẵn và đối tượng lao động nhân
tạo. Đối tượng lao động có sẵn là những đối tượng tự có trong giới tự nhiên; còn đối tượng lao
động nhân tạo là những đối tượng được con người tạo ra trong quá trình sản xuất, nó biểu hiện
dưới dạng nguyên, nhiên, vật liệu, bán sản phẩm.
-Trong tư liệu lao động thì phương tiện lao động là những phương tiện dùng để vận chuyển và
bảo quản sản phẩm; còn công cụ lao động là những vật thể được con người sử dụng để tác động
vào đối tượng lao động, nó đóng vai trò là “sợi dây nối’’ giữa con người và đối tượng lao động.
-Để làm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, đối tượng lao động ngày càng được mở
rộng và công cụ lao động ngày càng được cải tiến, hoàn thiện hơn. Do đó, công cụ lao động đã
trở thành yếu tố năng động nhất trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động, theo Ph. Ăng ghen là
“khí quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “nối
dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Trình độ của công cụ lao động là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế với nhau.
-Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định sự
phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Trong quá trình sản xuất, lOMoAR cPSD| 61601435
như V.I.Lê nin nói: “lực lượng lao động hàng đầu của nhân loại là những người công nhân, người lao động”.
-Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội.
-Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển sản xuất, khoa học ngày càng có
vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa
học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất và trong đời sống. C. Mác dự báo rằng, khoa học sẽ trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”.
-Quả thật, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội, những thành
tựu của khoa học được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi vào sản xuất, có tác động thúc đẩy mạnh
mẽ sản xuất phát triển. Nền sản xuất đã được khoa học hóa, khoa học đã thâm nhập vào từng
ngõ ngách, từng “tế bào” của quá trình sản xuất. Ngược lại, khoa học thì đã được vật chất hóa,
nghĩa là nó trở thành lực lượng vật chất, khoa học làm thay đổi tính chất của lao động, khoa học
đã tạo ra những vật liệu mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và đời sống xã hội.
-Tóm lại, trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở những yếu tố cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, trình độ trí tuệ, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động.
+Thứ hai, trình độ ứng dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất.
+Thứ ba, trình độ tổ chức, quản lý sản xuất.
+Thứ tư, trình độ phân công lao động.
+Thứ năm, trình độ của các công cụ lao động.
Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất:
-Quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất( sản xuất
và tái sản xuất xã hội ).
-Quan hệ sản xuất là “bộ sườn”, “bộ khung” của hình thái kinh tế - xã hội, là quan hệ kinh tế cơ
bản, quyết định tất cả các mối quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
chế độ xã hội với nhau.
-Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức và
quản lý sản xuất; quan hệ trong phân phối sản phẩm.
-Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh
thần xã hội. Ba mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau tạo thành một hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất, trong đó
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định, còn các mặt còn lại cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.
-Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất