




Preview text:
lOMoAR cPSD| 61631027
Đề cương ôn thi Hình sự
1. so sánh cttp vc và cttp ht - về khái niệm
+ cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà trong đó có các dấu hiệu
thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại do hành vi gây ra.
+ cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm mà trong đó có dấu hiệu
thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan mà không có dấu
hiệu hậu quả thiệt hại - về dấu hiệu nhận biết
+ cấu thành tội phạm vật chất được xác định trong một tội phạm khi mà hành vi
đó có hậu quả thiệt hại. Còn nếu không thì đó là cấu thành tội phạm hình thức,
thường là những hành vi phạm tội với lỗi cố ý nhưng vì một lý do nào đó mà
không thể thực hiện đến cùng (gây ra hậu quả)
- về nguyên tắc xây dựng CTTP
+ nếu riêng hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính
nguy hiểm của tội phạm hoặc hậu quả của tội phạm là hậu quả khó xác định thì
CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.
+ nếu riêng hành vi có tính gây thiệt hại chưa thể hiện được hoặc chưa thể hiện
được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả hậu
quả của tội phạm thì CTTP thường được xây dựng là CTTP vật chất.
2. Phân biệt tội phạm với các vppl khác Căn cứ để phân biệt Tội phạm Các VPPL khác
Về mặt nội dung chính trị Là những hành vi có tính là những hành vi có tính - xã hội
nguy hiểm đáng kể cho nguy hiểm chưa đáng kể xã hội. cho xã hội.
Về mặt hình thức pháp lý Quy định trong BLHS Quy định trong các văn
bản của các ngành luật khác.
Về mặt hậu quả pháp lý Bị xử lý bằng hình phạt Bị xử lý bằng các biện và để lại án tích pháp cưỡng chế nhà
nước ít nghiêm khắc hơn
và không để lại an tích.
3. Phân biệt khách thể của tội phạm và đối tượng tác động của tội phạm lOMoAR cPSD| 61631027
-Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại
- Đối tượng tác động của tội phạm là những phần trong khách thể của tội phạm
mà khi tác động đến nó người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể.
Đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể của tội phạm
-Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ, có
tính trừu tượng. Việc quy định quan hệ xã hội nào là khách thể của tội phạm
tùy thuộc vào lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế khách thể tội phạm mang
tính chất giai cấp. Các tội phạm đều xâm phạm và gây thiệt hại cho khách thể,
tuy nhiên không phải tội phạm nào cũng gây thiệt hại cho đối tượng tác động,
như tội trộm cắp tài sản chỉ làm chuyển dịch quyền sở hữu từ người này sang
người khác, chứ tài sản không bị hư hỏng. Đối tượng tác động của tội phạm là
vật thể không mang tính giai cấp, nhưng quyền sở hữu tài sản ấy là sự thừa
nhận của Nhà nước với chủ sở hữu lại mang tính giai cấp.
4. Phân biệt đối tượng của tội phạm với công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm
Đối tượng tác động của tội phạm khác công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm là đối tượng chịu sự tác động của hành vi phạ
m tội, còn công cụ phương tiện phạm tội là những công cụ, phương tiện được
người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội, để tác động đến đối tượng tác động
của tội phạm. Công cụ, phương tiện của tội phạm có tác dụng hỗ trợ cho việc phạm tội thuận lợi.
5. So sánh sự cưỡng bức về thân thể so với tinh thần - Xét về khái niệm
+ Cưỡng bức về thân thể là trường hợp một người bị bạo lực vật chất tác động (
bị trói, bị giam giữ, bị bịt miệng) khiến họ không hành động được theo ý muốn
của mình mặc dù họ biết nếu làm như vậy sẽ gây thiệt hại đến người khác, người
bị cưỡng bức về thân thể không phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi.
+ cưỡng bức về tinh thần là trường hợp một người bị đe dọa uy hiếp gây thiệt hại
đến tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc những lợi ích khác. Người bị cưỡng bức vì
sợ bị thiệt hại nên đã hành động hoặc không hành động gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Về tính phải chịu TNHS lOMoAR cPSD| 61631027
+ cưỡng bức về thân thể : do chủ thể bị đe dọa đã hoàn toàn tê liệt về thân thể,
không còn cách nào khác để chống trả ngoài việc gây thiệt hại cho xã hội, hành
vi như vậy là không có lỗi do đó không phải chịu TNHS
+ cưỡng bức về tinh thần : tùy theo sự tê liệt về ý chí mà có thể xác định người
thực hiện hành vi có phải chịu TNHS hay không
• Nếu người bị cưỡng bức hoàn toàn bị tê liệt về ý chí, không còn cách nào
khác, buộc phải hành động theo ý muốn của kẻ cưỡng bức thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
• Tuy nhiên nếu hành vi cưỡng bức chưa làm người bị cưỡng bức tê liệt hoàn
toàn về ý chí thì họ vẫn phải chịu TNHS nhưng không phải là tội phạm do bị
tác động hay cưỡng bức, yếu tố bị cưỡng bức về tinh thần chỉ được coi là tình
tiết giảm nhẹ được Luật hình sự quy định.
6. Thời điểm tội phạm hoàn thành khác gì so với thời điểm tội phạm kết thúc
Thời điểm mà tội phạm được coi là tội phạm hoàn thành khác với thời điểm tội
phạm kết thúc. Tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm
dứt. Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm dùng để đánh giá về mặt pháp
lí còn thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm dùng để đánh giá về mặt thực tế.
Hành vi phạm tội có thể dừng lại (kết thúc) khi tội phạm chưa hoàn thành và
ngược lại tội phạm tuy đã được coi là tội phạm hoàn thành nhưng vẫn còn có thể
tiếp tục xảy ra (chưa kết thúc)
7. Người xúi giục khác gì so với người thực hành ở dạng 2 - Về mặt khái niệm
Theo khoản 3 điều 17 BLHS: “người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác thực hiện tội phạm”. Còn người thực hành ở dạng 2 là trường hợp
không tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong trong CTTP như không tự
mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác mà chỉ có hành động
(cố ý) tác động người khác để người này thực hiện hành vi được mô tả trong
CTTP nhưng họ lại không phải chịu TNHS cùng với người đã tác động
- Về tính thực tiễn của hành vi
Người xúi giục có thể thực hiện hoặc không thực hiện hành vi còn người thực
hành ở dạng chỉ có thể tồn tại ở dạng không thực hiện mà để cho một người khác
thực hiện hành vi theo ý chí của mình
- Về tính phải chịu TNHS lOMoAR cPSD| 61631027
Người thực hiện ở dạng 2 tác động lên chủ thể khác nhằm thực hiện hành vi phạm
tội thay cho mình thì chủ thể đó không phải chịu TNHS vì một trong số các lí do sau:
+ họ là người kh có năng lực TNHS
+ họ không có lỗi hoặc chỉ có lỗi vô ý do sai lầm
+ họ được loại trừ TNHS do bị cưỡng bức về tinh thần
Người bị xúi giục trong nhiều trường hợp được coi là đồng phạm nếu hành vi
thực tế khớp với ý chí của người xúi giục và cùng có sự tham gia của người xúi
giục. Người bị xúi giục có thể là người đủ 18 tuổi nếu dưới 18 tuổi thì được quy
định với tội danh khác là tội dụ dỗ, ép buộc,... người dưới 18 tuổi phạm pháp (điều 325 BLHS)
8. Phân biệt phòng vệ chính đáng với tình thế cấp thiết Phòng vệ chính đáng Tình thế cấp thiết Khái niệm
Là hành vi của người vì Là tình thế của người vì
bảo vệ lợi ích của Nhà muốn tránh một nguy cơ
nước, của tổ chức, bảo vệ đang thực tế đe doạ lợi ích
quyền, lợi ích chính đáng của Nhà nước, của tổ
của mình hoặc của người chức, quyền, lợi ích chính
khác, mà chống trả lại đáng của mình hoặc của
một cách cần thiết người người khác mà không còn
đang có hành vi xâm cách nào khác là phải gây
phạm các lợi ích nói trên một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Nguồn gây ra nguy hiểm Là hành vi của con người. Đa dạng, có thể là từ thiên
tai, sự cố kỹ thuật… và
cũng có thể là do hành vi của con người.
Phương pháp thực hiện Chống trả lại một cách cần Gây một thiệt hại khác. hành vi loại trừ nguồn thiết. nguy hiểm
Mức độ thiệt hại của
Thiệt hại gây ra không Nhỏ hơn thiệt hại cần hành vi
nhất thiết là phải nhỏ hơn lOMoAR cPSD| 61631027
thiệt hại cần ngăn ngừa. ngăn ngừa
Phạm vi để thực hiện
Chỉ được gây thiệt hại p Thiệt hại gây ra phải là hành vi cho người có hành vi
thiệt hại nhỏ hơn và không
xâm hại lợi ích hợp phá
được thực hiện hành vi
chứ không gây thiệt hại
gây tổn hại đến sức khỏe, cho người khác.
tính mạng của người khác. Ưu tiên lựa chọn khi
Không nhất thiết phải là Phải là lựa chọn cuối thực hiện hành vi.
lựa chọn cuối cùng của cùng, không còn cách người phòng vệ chính nào khác để ngăn ngừa đáng.
thiệt hại thì mới được
phép gây ra một thiệt hại khác nhỏ hơn để ngăn
ngừa thiệt hại cho xã hội
bởi thiên tai, súc vật… Căn cứ pháp lý Điều 22 BLHS Điều 23 BLHS