








Preview text:
Đường lối
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh
a) Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, qui luật của chiến tranh, tác
động của chiến tranh đến đời sống xã hội -
Khi nói về bản chất của đế quốc, Hồ Chí Minh đã khái quát hình ảnh con
đỉa hai vòi, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu
nhân dân lao động ở thuộc địa. -
Trong hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, bộ mặt thật
của sự xâm lược thuộc địa và chiến tranh cướp bóc của chủ nghĩa thực dân
Pháp, “chúng khai hóa văn minh bằng rượu cồn và thuốc phiện”. -
Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng
định: “Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống
nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cướp
nước ta, mong bắt dân ta làm nô lệ”.
b) Xác định tính chất chính trị, xã hội của chiến tranh -
Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định
tính chất xã hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh
chống xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ
chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Nhận định về thực dân Pháp, trong “Tuyên ngôn độc lập” đọc tại Quảng trường
Ba Đình ngày 2/9/1945 do Bác Hồ trực tiếp soạn thảo, Người khẳng định: “Bọn
thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp
bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở
Trung, Bắc, Nam để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản
dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhiều nhà tù hơn trường học… Về kinh tế,
chúng bóc lột nhân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu
thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều… Chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”. -
Kế thừa và phát triển tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin về bạo lực cách
mạng, HồChí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng
Việt Nam, Người khẳng định: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành
động bạo lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có được, phải dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của toàn
dân, bằng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. -
Hồ Chí Minh khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân là chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con
người là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh, Người chủ trương phải
dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh. Tư tưởng của Người
được thể hiện rõ trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (19/12/1946).
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong
đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, kháng chiến toàn dân phải đi đôi
với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh của toàn dân, đánh địch trên tất
cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa… Đây là sự phát triển sâu
sắc làm phong phú thêm lý luận mác xít về chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội
a) Sự ra đời của quân đội là một tất yếu khách quan -
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu
khách quan, là vấn đề có tính qui luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc Việt Nam. -
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của
quân đội với sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Người viết:
“dân tộc Việt Nam nhất đinh phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có
lực lượng quân sự, phải có tổ chức”; Chính cương sách lược năm 1930, Người
đã xác định: Lập ra chính phủ công, nông, binh. -
Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời là
xuất phát từ chính yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để
áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, chúng ta phải tổ chức bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
b) Bản chất của giai cấp công nhân của quân đội
Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện quân đội ta, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất công nhân cho quân đội. Bản
chất công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh
nhân dân chống thực dân, đế quốc xâm lược. Người hết sức quan tâm đến giáo
dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sở,
nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện.
Trong buổi lễ phong quân hàm cho các cán bộ cao cấp của quân đội nhân dân
Việt Nam ngày 22/12/1958, Người vừa biểu dương vừa căn dặn: “Quân đội ta
đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ
vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, công
tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn, giản dị, đoàn kết nội bộ,
đồng cam chịu khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ”.
Kỉ niệm 20 thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1964), Người khen
tặng “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. c) Mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân -
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. -
Chủ tịch Hồ Chí Minh lập luận, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân
dân của quân đội là một thể thống nhất, xem đó như là biểu hiện tính qui luật
của quá trình hình thành, phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô
sản. Người viết: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt
của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo
vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta
không có lợi ích nào khác”.
Khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, Người cũng chỉ
thị và phê duyệt 10 lời thề danh dự của Đội do đ.c Võ Nguyên Giáp soạn thảo,
trong đó có lời thề thể hiện và khẳng định quân đội ta là quân đội của nhân dân:
“Khi tiếp xúc với nhân dân làm đúng ba điều nên: Kính trọng dân; Giúp đỡ
dân; Bảo vệ dân và ba điều răn: Không lấy của dân; Không dọa nạt dân Không
quấy nhiễu dân. Để gây lòng tin cậy, yêu mến của nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí”.
d) Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội -
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt đối với quân đội là một nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, quân
đội của giai cấp vô sản
Bắt nguồn từ nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới
của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
đặc biệt quan tâm, chăm lo đến quân đội. Điều này được thể hiện rõ nét trong cơ
chế lãnh đạo: tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong
thực hiện chế độ công tác đảng, công tác chính trị, nhờ đó Quân đội nhân dân
Việt Nam trở thành quân đội kiểu mới mang bản chất của giai cấp công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một
quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục. e)
Nhiệm vụ và chức năng của quân đội
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ
chính: Một là xây dựng một đội quân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến
đấu; Hai là thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”. -
Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. -
Là đội quân sản xuất: Tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, là lực
lượngnòng cốt xung kích trong xây dựng kinh tế quốc phòng ở các địa bàn
chiến lược, nhất là ở biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó
khăn gian khổ và ở những địa bàn có tình hình phức tạp nảy sinh. -
Là đội quân công tác: Quân đội tham gia vận động quần chúng nhân dân
xây dựng cơ sở chính trị xã hội vững mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết
giữa Đảng với nhân dân, giúp nhân dân phòng chống thiên tai, tuyên truyền vận
động nhân dân chấp hành đúng đường lối, chủ trương, quan điểm, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn hơn 76 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân đội đã
chứng minh: quân đội đã thực hiện đầy đủ và thực hiện xuất sắc ba chức năng
trên, cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến
tranh giải phóng. Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội có vai trò
hết sức nặng nề. Quân đội luôn phải là đội quân cách mạng, lực lượng chính trị,
công cụ vũ trang sắc bén của Đảng, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi
kẻ thù, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ… Để thực hiện vai trò đó, cần đổi
mới nhận thức về các chức năng của quân đội cho phù hợp với tình hình mới. CÔNG TÁC
Đề lẻ: Chiến lược “DBHB” là gì? Thủ đoạn tư tưởng, văn hóa của các thế
lực thù địch có tác động gì đến sinh viên Việt Nam? Theo em cần làm gì để phòng, chống? Khái niệm “DBHB”
DBHB là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ,
trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự
do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.
Nội dung của DBHB là kẻ địch sử dụng mọi thủ đoạn về kinh tế, chính trị, văn
hóa, đối ngoại an ninh... để phá hoại làm suy yếu từ bên trong các nước xã hội
chủ nghĩa(XHCN). Kích động mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng
chính trị đối lập, núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc
tộc; gây mất ổn định, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nói đến DBHB,
tự chuyển hóa, tự diễn biến ở những điều kiện khác nhau thì các vấn đề này có
rất nhiều khác sự nhau nhưng tựu chung lại nó đều thống nhất là chống phá hoại
CNXH, chống phá nhà nước đối địch bằng thủ đoạn hòa bình.
Tác động đến sinh viên VN:
Sau thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, các nước đế quốc chưa bao
giờ từ bỏ âm mưu và hoạt động chống phá Việt Nam. Âm mưu xuyên suốt và
mục tiêu cuối cùng không thay đổi của các nước đế quốc là xoá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
Việt Nam, biển Việt Nam thành một nước dân chủ tư sản kiểu phương Tây, đi
theo quỹ đạo và trở thành một nước phi xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ rõ: Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện
âm mưu “diễn biển hòa bình” (DBHB), gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu
bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”...hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Từ sau Đại hội XII của Đảng, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh
chóng, diễn biến phức tạp. Cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hoá
diễn ra mạnh mẽ; hoà bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố quốc tế, bất ổn chính trị - xã hội,
tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ giữa một số nước tiếp tục diễn biến phức tạp.
Một mặt, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế vẫn tiếp tục đẩy mạnh
các hoạt động DBHB nhằm chuyển hóa chế độ XHCN ở các nước còn lại. Đối
với Việt Nam, “các thế lực thù địch tiếp tục chống phá và can thiệp vào công
việc nội bộ nước ta, kích động bạo loạn, lật đổ và đẩy mạnh hoạt động
“DBHB”, thúc đẩy “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Mặt khác,
các tổ chức phản động bên ngoài triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại
chúng, đặc biệt là mạng internet, triệt để lợi dụng những tiêu cực, tham nhũng.
Để tuyên truyền xuyên tạc nhằm hạ uy tín của Đảng và Nhà nước ta
Thực tế hiện nay cho thấy, số lượng người đọc báo mạng, nhất là học sinh, sinh
viên (gọi chung là thanh niên hoặc sinh viên) đang có xu thế tăng nhanh đột
biến so với một vài năm trước đây; trong số những người thường xuyên truy cập
mạng Internet đa số là sinh viên, đây là một thực tiễn rất đáng chú ý trên cả hai
mặt tích cực và tiêu cực, trong đó có vấn đề “tư tưởng chính trị”.
Sự phát triển nhanh của mạng internet và dịch vụ viễn thông cũng đang đặt ra
những thách thức mới đối với công tác tư tưởng. Các quan điểm sai trái trên
mạng thường được in ấn, nhân bản với số lượng lớn nên phát tán rất nhanh
trong xã hội, do đó cũng tác động đến một bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên.
Với lượng thông tin sai trái, thù địch trên mạng lớn gấp rất nhiều lần so với cách
truyền bá thủ công trước đây, lại được tuyên truyền hằng ngày hằng giờ, đã thực
sự tác động mạnh mẽ đối với cộng đồng cư dân mạng. Thực tế cho thấy một bộ
phận cư dân mạng, nhất là “học sinh, sinh viên, đã và đang chịu tác động tiêu
cực của mặt trái công nghệ thông tin, bị mê hoặc, lung lạc bởi những “điều phi
lý” trên mạng internet, trở thành nạn nhân “một cách rất tự nhiên”.
Những thông tin sai trái, thù địch trên mạng phát tán rộng rãi, thường xuyên đã
và đang gây phân tâm, lo lắng trong một bộ phận lớn cư dân mạng nói chung và
học sinh, sinh viên nói riêng. Điều đáng ngại là, trong khi tuyệt đại đa số cán
bộ, đảng viên, nhân dân ta vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, thì có một số người, do những hoàn
cảnh, động cơ khác nhau, hoặc vô tình hoặc cố ý, đã “sập bẫy” cuộc chiến tranh
tâm lý – thông tin. Đây đó đã xuất hiện sự dao động, hoài nghi, thậm chí có
người phản bội sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Hiện tượng phai nhạt lý
tưởng cách mạng; hoài nghi, phủ nhận quan điểm, đường lối của Đảng và thành
quả cách mạng; tuyên bố “sám hối”, ly khai học thuyết Mác – Lênin và con
đường đi lên CNXH do Đảng ta lãnh đạo, chạy theo những học thuyết, trào lưu,
trường phái học thuật, văn nghệ tư sản vốn đã và đang bị chính học giả các nước
tư bản đào thải, phê phán – sa vào chủ nghĩa giáo điều mới; đề cao cái tôi cá
nhân và lối sống vị kỷ, ích kỷ...
Các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc về tư tưởng chính trị trên mạng
internet lan truyền trong xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt
là trong một bộ phận thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ, tri thức.
Một số thanh niên, sinh viên phai nhạt lý tưởng, mắc căn bệnh “nhạt Đảng, khô
Đoàn, chán chính trị”. Một số sinh viên đề cao quan điểm “dân chủ tư sản”;
sống thực dụng, ích kỷ, cá biệt có hiện tượng tha hoá về nhân cách; một số viết
bài cho đài nước ngoài nói xấu chế độ ta để xin học bổng. Giải pháp phòng, chống:
Do đó, để tăng cường và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng tính đồng thuận xã hội, huy động đông đảo
lực lượng học sinh sinh viên góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng, thời gian tới
cần thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, đưa vào nội dung giảng dạy những tri thức cơ bản giúp học sinh, sinh
viên nhận thức rõ con đường đi lên CNXH và góp phần đấu tranh với các quan điểm sai trái.
Với mưu đồ hình thành lực lượng lâu dài về sau, nên các thế lực thù địch đã tập
trung tác động vào thế hệ trẻ, họ xem đây như chiến lược con người nhằm
chuyển hóa tư tưởng của học sinh, sinh viên, phai nhạt dần lý tưởng cộng sản.
Học sinh, sinh viên là những lực lượng trẻ, có tri thức lại nhanh nhạy với cái
mới và là đối tượng của DBHB. Kinh nghiệm thế giới cho biết, các cuộc biểu
tình, đấu tranh, gây sức ép đối với chính quyền đương nhiệm diễn ra ở các nước
thời gian qua, dù được tổ chức, chỉ đạo của lực lượng nào thì học sinh, sinh
viên, thanh niên luôn là lực lượng nòng cốt.
Thứ hai, các Bộ, ban ngành hữu quan (Bộ Giáo dục – Đào tạo, Bộ Công An,
Ban Tuyên giáo Trung ương...) cần phối hợp, kết hợp trong xây dựng, triển khai
và áp dụng các nội dung về âm mưu DBHB của lực lượng thù địch, về con đường
đi lên CNXH ở nước ta trong sách giáo khoa ở các cấp học, bậc học, nhất là cấp
phổ thông theo hướng phong phú về nội dung, đa dạng về phương pháp và phù
hợp với đối tượng tác động, giúp họ hiểu được âm mưu, hành động phản động
của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thứ ba, cần giải quyết dứt điểm, nhanh gọn, không để lan rộng những vấn đề
phức tạp nảy sinh trong nhà trường phổ thông và đại học, không để các lực
lượng thù địch, phản động lợi dụng vào tuyên truyền phá hoại tư tưởng, lôi kéo,
tập hợp lực lượng đối lập trong học sinh, sinh viên.
Hiện nay vấn đề lối sống, quan niệm sống, cách nhìn nhận về những vấn đề
chính trị - xã hội của đất nước trong học sinh, sinh viên rất đáng báo động: tình
trạng xem nhẹ những vấn đề thuộc chính trị, khoa học xã hội nhân văn, khuynh
hướng thương mại hóa các lĩnh vực nhất là giáo dục, đào tạo, xem đồng tiền là
qui chuẩn để định giá trị đang diễn ra khá phổ biến trong lực lượng trẻ. Cần có
biện pháp giải quyết những khó khăn, bức xúc trong học tập, sinh hoạt đời sống
của học sinh, sinh viên, có chủ trương, phương án giải quyết kịp thời những vấn
đề nhạy cảm liên quan như: chính sách về học phí, học bổng, việc làm nhất là
việc làm đối với những học sinh, sinh viên chọn nghề theo khoa học Mác –
Lênin, khoa học xã hội nhân văn...
Thứ tư, phối hợp giữa các cơ quan chức năng với lãnh đạo nhà trường ngăn
chặn và đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, tăng cường giáo
dục đạo đức lối sống trong học sinh, sinh viên. Giáo dục lòng yêu nước, tự hào
dân tộc, giáo dục giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nêu cao tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay – chủ nhân tương lai
của đất nước trong tiếp bước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo con đường
XHCN. Và dĩ nhiên, con đường nhanh nhất đạt được mục đích đó là tuyên
truyền, giáo dục, quán triệt những nội dung liên quan đến con đường đi lên
CNXH và sự cảnh giác với âm mưu phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giáo dục đối với học
sinh, sinh viên, nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy, học tập các môn học
thuộc khoa học MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Bộ Giáo dục cần xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, trong đó chú ý xem xét đến vấn đề an ninh chính trị quốc gia trong quá
trình hợp tác giáo dục và đào tạo, qua đó tăng cường giáo dục chính trị - tư
tưởng trong đội ngũ trí thức trẻ, học sinh, sinh viên nhằm nâng cao nhận thức về
lập trưởng, quan điểm chính trị, chống lại mọi biểu hiện sai lệch về nhận thức và hành động sai trái.
Đề chẵn: Làm rõ luận điểm “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” của Chủ
tịch HCM trong việc giải quyết vấn đề dân tộc? Theo em tư tưởng này còn
có ý nghĩa với CM Việt Nam hiện nay không? Vì sao?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc
Trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin, bám sát thực tiễn cách mạng Việt Nam,
đặc điểm các dân tộc Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm đúng
đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc; 3 xây
dựng và củng cố mối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc
Việt Nam. Tư tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh là
nội dung toàn diện, phong phú, sâu sắc, khoa học, và cách mạng. Đó là những
luận điểm khoa học chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp
Giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc; xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các
dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam và giữa dân tộc Việt Nam với
các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Khi tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, người ra đi tìm đường cứu nước, thành
lập Đảng cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc,
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Khi đất nước độc lập tự do, người đã củng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân xây
dựng mối quan hệ mới tốt đẹp giữa các dân tộc. Người rất quan tâm chăm sóc
xây dựng đời sống vật chất tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng
đội ngũ làm công tác dân tộc, lên án vạch trần mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng
vấn đề dân tộc để chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Theo em tư tưởng này còn có ý nghĩa với CM Việt Nam hiện nay không?
Ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, tư tưởng “không có gì quý
hơn độc lập tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống của nó. Bởi vì, tinh hình
quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển
vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố quốc
tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học
công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nước phát triển, nhưng cạnh tranh,
tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học
công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các
quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát triển trước những thách thức gay
gắt. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa
chọn duy nhất đúng của Việt Nam.