lOMoARcPSD| 48541417
ĐỀ KIỂM TRA TỰ LUẬN
HỌC PHẦN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Hà Huy Nhật Anh
Lớp : 0723.HDNP520A
Đề bài: Số 4:
Dựa trên nội dung của Đại cương văn hóa Việt Nam, Anh (Chị) hãy
cho biết: Những luận điểm sau đúng hay sai? Tại sao?
Luận điểm 1 (2,5 điểm). Văn vật là khái niệm dùng để chỉ các giá trị
văn hóa vật chất và tinh thần.
Luận điểm 2 (2,5 điểm). Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp
với Nho giáo và Đạo giáo.
Luận điểm 3 (2,5 điểm). Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng
xã Việt Nam truyền thống là lợi ích của họ.
Luận điểm 4 (2,5 điểm). Sự ra đời của các trường học, viện nghiên
cứu ở Việt Nam là kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa
Trung Hoa.
Bài Làm:
Luận điểm 1: Văn vật là khái niệm dùng để chỉ các giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần là sai.
- Vì văn vật chỉ dùng để chỉ các giá trị văn hoá vật chất.Văn vật theo
nghĩa rộng, là khái niệm dùng để chỉ truyền thống văn hóa tốt đẹp của
một vùng đất hay dân tộc, được biểu hiện rõ nét nhất qua sự xuất hiện
của nhiều nhân tài và di tích lịch sử. Còn theo nghĩa hẹp, đó là các công
trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử. Vd: phở Hà Nội, gốm Bát
Tràng…
lOMoARcPSD| 48541417
Luận điểm 2: Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp với Nho giáo
và Đạo giáo là đúng.
Vì:
- Trong phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp Tổng hợp giữa Phật giáo với
các tôn giáo khác. tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay
từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống
tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam
giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng
quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích).
- Không chỉ thế phật giáo ở việt nam còn: Tổng hợp giữa Phật giáo và tín
ngưỡng truyền thống. Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam là thờ Thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị
thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên
bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Người Việt Nam đưa các vị Thần,
Thánh, Mẫu, Thành Hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong
chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã
khuất.
- Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo, các tông phái Phật giáo Đại thừa
sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ-ni-
đalưu-chi pha trn với Mật tông. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn
Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có
tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là
trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Luận điểm 3: Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng xã Việt Nam
truyền thống là lợi ích của họ là sai.
Vì :
- Làng xã Việt Nam vốn bắt nguồn từ công xã nông thôn, ra đời vào thời
kỳ tan rã của công xã nguyên thuỷ, tức là vảo khoảng thiên niên kỷ thứ
nhất trước công nguyên. Từ thế kỷ thứ X trở đi, cùng với sự hưng thịnh
lOMoARcPSD| 48541417
2
của chế độ phong kiến, các công xã nông thôn dần dần bị phong kiến
hoá và trở thành các đơn vị hành chính cơ bản của chính quyền phong
kiến với tên gọi chung là xã, cũng có khi gọi là thôn hay làng.
- Làng xã giữ vai trò nối các cá thể với nhà nước. Tất cả các chỉ thị từ
chính quyền trung ương đến với người dân, đều phải thông qua “bộ lọc”
làng xã và do đó mà bị khúc xạ, tán sắc đi rất nhiều.
- Làng xã là một thể chế bền vững, tồn tại hầu như xuyên suốt chiều dài
lịch sử dân tộc. Làng xã cổ truyền là đơn vị tụ cư, là cộng đồng dựa trên
quan hệ láng giếng kết hợp với quan hệ huyết thống, là môi trường sinh
hoạt văn hoá xã hội của người Việt Nam.
- Làng xã là đơn vị xã hội mà người nông dân Việt Nam tập hợp lại để tạo
nên sức mạnh cộng đồng trong khai phá đất hoang, đắp đê, đào kênh
làm thuỷ lợi. Đây là những côngtrình lao động rất quan trọng trong yêu
cầu phát triển của nền nông nghiệp trồng lúa nước, thường bị nạn lụt đe
dọa mà đơn vị sản xuất nhỏ là gia đình không thể đảm đương được.
Luận điểm 4: Sự ra đời của các trường học, viện nghiên cứu ở Việt
Nam là kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa
là sai.
Vì:
- Trước thời nhà Lý, lịch sử gần như không có ghi chép về hệ thống
trường học. Nhưng chúng ta biết rằng, vẫn rất nhiều người biết chữ và
thậm chí có những người tài năng uyên bác. Điều đó có thể đưa ra hình
dung, giáo dục thời đó có thể theo cách “cha truyền con nối”, cha dạy
con, anh dạy em. Hoặc cũng có thể có những trường lớp nhỏ, học tại
nhà…
- Từ khi chữ Hán du nhập vào nước ta, Thái thú Sĩ Nhiếp được hậu thế
tôn làm “Nam Giao họ tổ”. Hiện, ở khu vực Thuận Thành (Bắc Ninh) –
nơi có thành Luy Lâu thuở ấy vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện về việc
học chữ, dạy chữ của Sĩ Nhiếp.
lOMoARcPSD| 48541417
- Nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Nước ta
thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ
Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi
đời sau…”.
- Tuy nhiên trong thực tế, đất Âu Lạc đã từng có những người đỗ Mậu tài,
Hiếu liêm, làm quan nhà Hán. Điều này bác bỏ luận điểm của các nhà sử
học Trung Quốc cho rằng đất Giao Chỉ từ khi Sĩ Nhiếp (187 - 226) sang
làm Thái thú, vǎn hóa mới phát triển, nền giáo dục mới được mở mang
là không đúng.
- Nền giáo dục Nho học của nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI
trải qua các thời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Sự ra đời và
sử dụng rộng rãi chữ quốc ngữ theo bảng chữ La tinh trong nhà trường
từ cuối năm 1919 đã báo hiệu sự chấm dứt nền cựu học truyền thống
Nho giáo để thay thế bằng hệ thống tân học của chủ nghĩa thực dân
Pháp.
- Cũng trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trào lưu giáo dục
Duy Tân yêu nước của Phan Bội Châu và Lương Văn Can, Nguyễn
Quyền đã khởi xướng cho khuynh hướng thực học, sử dụng chữ quốc
ngữ trong dạy và học, tiếp cận với các khoa học tự nhiên và kỹ nghệ, từ
bỏ lối học từ chương khoa cử.
lOMoARcPSD| 48541417
4

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48541417
ĐỀ KIỂM TRA TỰ LUẬN
HỌC PHẦN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Hà Huy Nhật Anh Lớp : 0723.HDNP520A Đề bài: Số 4:
Dựa trên nội dung của Đại cương văn hóa Việt Nam, Anh (Chị) hãy
cho biết: Những luận điểm sau đúng hay sai? Tại sao?
Luận điểm 1 (2,5 điểm). Văn vật là khái niệm dùng để chỉ các giá trị
văn hóa vật chất và tinh thần.
Luận điểm 2 (2,5 điểm). Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp
với Nho giáo và Đạo giáo.
Luận điểm 3 (2,5 điểm). Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng
xã Việt Nam truyền thống là lợi ích của họ.
Luận điểm 4 (2,5 điểm). Sự ra đời của các trường học, viện nghiên
cứu ở Việt Nam là kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Bài Làm:
Luận điểm 1: Văn vật là khái niệm dùng để chỉ các giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần là sai.
- Vì văn vật chỉ dùng để chỉ các giá trị văn hoá vật chất.Văn vật theo
nghĩa rộng, là khái niệm dùng để chỉ truyền thống văn hóa tốt đẹp của
một vùng đất hay dân tộc, được biểu hiện rõ nét nhất qua sự xuất hiện
của nhiều nhân tài và di tích lịch sử. Còn theo nghĩa hẹp, đó là các công
trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử. Vd: phở Hà Nội, gốm Bát Tràng… lOMoAR cPSD| 48541417
Luận điểm 2: Văn hóa Phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo là đúng. Vì:
- Trong phật giáo ở Việt Nam có sự kết hợp Tổng hợp giữa Phật giáo với
các tôn giáo khác. tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay
từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống
tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam
giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng
quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích).
- Không chỉ thế phật giáo ở việt nam còn: Tổng hợp giữa Phật giáo và tín
ngưỡng truyền thống. Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam là thờ Thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị
thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên
bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Người Việt Nam đưa các vị Thần,
Thánh, Mẫu, Thành Hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong
chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
- Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo, các tông phái Phật giáo Đại thừa
sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ-ni-
đalưu-chi pha trộn với Mật tông. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn
Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có
tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là
trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Luận điểm 3: Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng xã Việt Nam
truyền thống là lợi ích của họ là sai. Vì :
- Làng xã Việt Nam vốn bắt nguồn từ công xã nông thôn, ra đời vào thời
kỳ tan rã của công xã nguyên thuỷ, tức là vảo khoảng thiên niên kỷ thứ
nhất trước công nguyên. Từ thế kỷ thứ X trở đi, cùng với sự hưng thịnh lOMoAR cPSD| 48541417 2
của chế độ phong kiến, các công xã nông thôn dần dần bị phong kiến
hoá và trở thành các đơn vị hành chính cơ bản của chính quyền phong
kiến với tên gọi chung là xã, cũng có khi gọi là thôn hay làng.
- Làng xã giữ vai trò nối các cá thể với nhà nước. Tất cả các chỉ thị từ
chính quyền trung ương đến với người dân, đều phải thông qua “bộ lọc”
làng xã và do đó mà bị khúc xạ, tán sắc đi rất nhiều.
- Làng xã là một thể chế bền vững, tồn tại hầu như xuyên suốt chiều dài
lịch sử dân tộc. Làng xã cổ truyền là đơn vị tụ cư, là cộng đồng dựa trên
quan hệ láng giếng kết hợp với quan hệ huyết thống, là môi trường sinh
hoạt văn hoá xã hội của người Việt Nam.
- Làng xã là đơn vị xã hội mà người nông dân Việt Nam tập hợp lại để tạo
nên sức mạnh cộng đồng trong khai phá đất hoang, đắp đê, đào kênh
làm thuỷ lợi. Đây là những côngtrình lao động rất quan trọng trong yêu
cầu phát triển của nền nông nghiệp trồng lúa nước, thường bị nạn lụt đe
dọa mà đơn vị sản xuất nhỏ là gia đình không thể đảm đương được.
Luận điểm 4: Sự ra đời của các trường học, viện nghiên cứu ở Việt
Nam là kết quả giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sai. Vì:
- Trước thời nhà Lý, lịch sử gần như không có ghi chép về hệ thống
trường học. Nhưng chúng ta biết rằng, vẫn rất nhiều người biết chữ và
thậm chí có những người tài năng uyên bác. Điều đó có thể đưa ra hình
dung, giáo dục thời đó có thể theo cách “cha truyền con nối”, cha dạy
con, anh dạy em. Hoặc cũng có thể có những trường lớp nhỏ, học tại nhà…
- Từ khi chữ Hán du nhập vào nước ta, Thái thú Sĩ Nhiếp được hậu thế
tôn làm “Nam Giao họ tổ”. Hiện, ở khu vực Thuận Thành (Bắc Ninh) –
nơi có thành Luy Lâu thuở ấy vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện về việc
học chữ, dạy chữ của Sĩ Nhiếp. lOMoAR cPSD| 48541417
- Nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Nước ta
thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ
Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau…”.
- Tuy nhiên trong thực tế, đất Âu Lạc đã từng có những người đỗ Mậu tài,
Hiếu liêm, làm quan nhà Hán. Điều này bác bỏ luận điểm của các nhà sử
học Trung Quốc cho rằng đất Giao Chỉ từ khi Sĩ Nhiếp (187 - 226) sang
làm Thái thú, vǎn hóa mới phát triển, nền giáo dục mới được mở mang là không đúng.
- Nền giáo dục Nho học của nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI
trải qua các thời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Sự ra đời và
sử dụng rộng rãi chữ quốc ngữ theo bảng chữ La tinh trong nhà trường
từ cuối năm 1919 đã báo hiệu sự chấm dứt nền cựu học truyền thống
Nho giáo để thay thế bằng hệ thống tân học của chủ nghĩa thực dân Pháp.
- Cũng trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trào lưu giáo dục
Duy Tân yêu nước của Phan Bội Châu và Lương Văn Can, Nguyễn
Quyền đã khởi xướng cho khuynh hướng thực học, sử dụng chữ quốc
ngữ trong dạy và học, tiếp cận với các khoa học tự nhiên và kỹ nghệ, từ
bỏ lối học từ chương khoa cử. lOMoAR cPSD| 48541417 4