VỊ TRÍ ĐỊA TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN CỦA NỘI
Nội nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên cho phát triển kinh tế,
hội văn hoá:
1. Vị trí địa của Nội :
Nội - Thủ đô ngàn năm tuổi của đất nước, vị thế “rồng cuộn, hổ ngồi”,
nằm trung tâm châu thổ sông Hồng.
Nội Nội diện tích tự nhiên 3324 km2, trải dài theo chiều Bắc - Nam
khoảng 91km theo chiều Tây Đông khoảng 77km, phía bắc giáp Vĩnh Phúc
Thái Nguyên, phía tây bắc giáp Phú Thọ, phía tây nam giáp Hoà Bình, phía đông bắc
giáp Hưng Yên phía nam giáp Nam.
Nội vị trí địa - chính trị quan trọng, đầu não chính trị - hành chính
Quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế giao dịch quốc tế;
đầu mối giao thương bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không đường sông
tỏa đi các vùng khác trong cả nước đi quốc tế.
2. Tài nguyên thiên nhiên :
Tài nguyên thiên nhiên nguồn lực quan trọng cho việc phát triển kinh tế
hội của Thủ đô.
Đặc điểm địa nh
Nhìn chung, địa hình Nội khá đa dạng với núi thấp, đồi đồng bằng. Trong
đó phần lớn diện tích của Thành phố vùng đồng bằng, thấp dần từ Tây Bắc xuống
Đông Nam theo hướng dòng chảy của sông Hồng. Khu vực nội Thành phụ cận
vùng trũng thấp trên nền đất yếu. Nội nhiều hồ, đầm thuận lợi cho phát triển
Thủy sản du lịch, nhưng do thấp trũng nên khó khăn trong việc tiêu thoát nước
nhanh, gây úng ngập cục bộ thường xuyên vào mùa mưa. Nội 2 khối núi cao
trung bình Sóc Sơn phía bắc Ba phía tây. Vùng đồi núi thấp trung bình
phía Bắc Nội thuận lợi cho xây dựng, phát triển công nghiệp, lâm nghiệp tổ
chức nhiều loại hình du lịch.
Tài nguyên khí hậu
Tài nguyên khí hậu Nội được hình Thành tồn tại nhờ chế nhiệt đới
gió mùa, mùa đông lạnh ít mưa, mùa nóng nhiều mưa. Lượng bức xạ tổng cộng
năm đạt 122,8 kcal/cm2, hàng năm chịu ảnh hưởng của khoảng 25 - 30 đợt front lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm không dưới 23 độ C, biên độ năm của nhiệt độ trên 12 độC.
Mùa mưa kéo dài t tháng 5 đến tháng 10 chiếm khoảng 80% lượng a
toàn năm. Mùa ít mưa ch yếu mưa nhỏ mưa phùn kéo dài từ tháng 11 đến tháng
4 năm sau, trong đó tháng 12 hoặc tháng 01 lượng mưa ít nhất.
Nội mùa đông lạnh rệt so với các địa phương khác phía Nam: Tần số
front lạnh cao hơn, số ngày nhiệt độ thấp đáng kể, nhất số ngày rét đậm, rét hại
nhiều hơn, mùa lạnh kéo dài hơn mưa phùn cũng nhiều hơn. Nhờ mùa đông lạnh
trong cấu cây trồng của Nội cũng như đồng bằng Bắc Bộ, cả một vụ đông
độc đáo miền nhiệt đới.
Tài nguyên nước mặt
Hệ thống sông, hồ Hà Nội thuộc hệ thống sông Hồng sông Thái Bình, phân
bố không đều giữa c vùng. Một trong những nét đặc trưng của địa hình Nội
nhiều hồ, đầm tự nhiên. Tuy nhiên, do yêu cầu đô thị hóa cũng do thiếu quy hoạch,
quản kém nên nhiều ao hồ đã bị san lấp để lấy đất xây dựng. Diện tích ao, hồ, đầm
của Nội hiện còn lại vào khoảng 3.600 ha. thể nói, hiếm một Thành phố nào
trên thế giới nhiều hồ, đầm như Nội. Hồ, đầm của Nội đã tạo nên nhiều
cảnh quan sinh thái đẹp cho Thành phố, điều hòa tiểu khí hậu khu vực, rất giá trị
đối với du lịch, giải trí nghỉ dưỡng, bên cạnh đó còn mang tâm tình cảm tinh
thần, đời sống tâm linh của người dân Việt.
Nội không phải vùng dồi dào nước mặt, nhưng lượng nước chảy qua
khổng lồ của sông Hồng, sông Cầu, sông Lồ thể khai thác sử dụng.
Tài nguyên nước ngm
Gồm 2 tầng chứa nước: Holocen (qh) Pleistocen (qp). Tầng chứa qh
nguồn cung cấp nước nước a, nước tưới, riêng dải ven sông về mùa thì nước
sông nguồn cung cấp chính. Tầng chứa nước này chỉ ý nghĩa cung cấp nhỏ,
dễ bị nhiễm bẩn nhiều nơi đã bị nhiễm bẩn.
Tầng chứa nước qp nguồn cung cấp chủ yếu nước sông, nước mưa thấm
qua tầng chứa qh bên trên, một phần thoát ra sông, còn lại cung cấp cho tầng chứa
nước bên dưới. Tầng chứa nước này trữ lượng nước lớn nên rất ý nghĩa trong
việc cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố.
Đây nguồn tài nguyên quan trọng của thành phố tuy nhiên việc khai thác
chưa được quản chặt chẽ, còn ng phí nhiều.
Tài nguyên đất
Nội tổng diện tích đất t nhiên 92.097 ha trong đó diện ch đất nông
nghiệp chiếm 47,4%, diện tích đất m nghiệp chiếm 8,6%, đất chiếm 19,26%.
Xuất phát từ yêu cầu sử dụng đất của Thủ đô Nội, 2 nhóm đất ý nghĩa
lớn nhất đối với phát triển kinh tế - hội, đó đất nông lâm nghiệp đất xây dựng.
Phần lớn diện tích đất đai nội Thành Nội được đánh giá không thuận lợi cho
xây dựng do hiện tượng tích nước ngầm, nước mặt, sụt lún, nứt đất, sạt lở, trôi
trượt dọc sông, cấu tạo nền đất yếu.
Tài nguyên sinh vật
Nội một số kiểu hệ sinh thái đặc trưng như hệ sinh thái vùng đồi Sóc
Sơn hệ sinh thái hồ, điển hình hồ y, hệ sinh thái nông nghiệp, hệ sinh thái đô
thị... Trong đó, c kiểu hệ sinh thái rừng vùng đồi hồ tính đa dạng sinh học
cao hơn cả.
Khu hệ thực vật, động vật trong các hệ sinh thái đặc trưng của Nội khá
phong phú đa dạng. Cho đến nay, đã thống xác định 655 loài thực vật bậc
cao, 569 loài nấm lớn (thực vật bậc thấp), 595 loài côn trùng, 61 loài động vật đất, 33
loài sát-ếch nhái, 103 loài chim, 40 loài thú, 476 loài thực vật nổi, 125 loài động
vật thủy sinh, 118 loài cá, 48 loài cảnh nhập nội. Trong s các loài sinh vật, nhiều
loài có giá trị kinh tế, một số loài quý hiếm tên trong Sách Đỏ Việt Nam.
Khoáng sản
Khoáng sản thành phố Nội tương đối phong phú về chủng loại ,tuy một số
khoáng sản kim loại, nhưng còn hạn chế về trữ lượng, ít có giá trị thực tế khai thác.
Phong phú nhất vật liệu xây dựng như than đá, cát,sỏi,các loại đá vôi ,sét, gạch ngói
đá tổ ong. Ngoài ra nội còn các loại nhiên liệu than đá than bùn; khoáng
sản công nghiệp như pyiyrit, kaolin, asbest; nước khoáng các tỉnh Mỹ Khê, Sóc
Sơn, Định Công.
Câu 2. Đặc trưng thành tựu của Thăng Long thời Lý-Trần:
Năm 1009 Công Uẩn lên ngôi Thiên tử, nhận thấy Đại La: “Ở trung tâm bờ
cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi; vị trí giữa bốn phương Đông, Tây,
Nam, Bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. đó địa thế rộng bằng phẳng, vùng
đất cao sáng sủa, dân không kh về ngập lụt, muôn vật rất phong phú tốt
tươi...thật chỗ hội họp của bốn phương, nơi đô thành bậc nhất của đế vương
muôn đời”, năm 1010 dời đô ra thành Đại La, đổi tên Thăng Long.
Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế-hành chính: Thăng Long thời được
quy hoạch rộng rãi, định hình quy của một đô thị-kinh với “thành” là nơi
định đô, “thị với bến sông, chợ búa, nơi sinh sống buôn bán của thị dân, 4 cửa
mở ra 4 hướng vừa cửa thành vừa là cửa chợ.
Kinh thành được xây dựng với hình “tam trùng thành quách”: vòng ngoài
cùng La thành hay Kinh thành nơi sinh sống của n, vòng giữa Hoàng
thành khu triều chính, nơi làm việc của các quan lại trong triều, vòng trong
cùng Tử Cấm thành hay Long Phượng thành nơi dành cho vua, hoàng hậu các
thành viên trong hoàng tộc.
61 phường tập hợp các thợ thủ công, vùng rừng rậm đầm lầy phía tây
kinh thành, ven sông Nhĩ Hà được khai phá, lập nên “Thập tam trại” gồm 13 các làng
nghề.
Trở thành trung tâm văn hoá, giáo dục với nhiều công trình kiến trúc:
Thời - Trần tồn tại hiện tượng Tam giáo đồng nguyên, Tam giáo tịnh tồn”
(Phật, Đạo, Nho) trong đó Phật giáo tôn giáo thịnh đạt nhất. Thăng Long trung
tâm Phật giáo thời do nội dung giáo phù hợp với lối sống trọng tình của người
Việt chùa cũng nơi cất giữ nhiều vốn văn hoá cổ. Nhiều chùa được cho xây dựng
như Chùa Một Cột (1049), chùa Láng, chùa Kim Liên 2 trong số 4 An Nam tứ đại
khí tháp Báo Thiên chuông Quy Điền.
Về giáo dục: năm 1070 Văn Miếu được xây dựng để thờ Chu Công, Khổng Tử
các vị tiên hiền, làm nơi dạy học Hoàng Thái tử, năm 1075 nhà mở khoa thi
Thái học sinh đầu tiên, năm 1076 Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt
Nam được thành lập, năm 1246 nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi gồm trạng nguyên,
bảng nhãn thám hoa.
Các công trình xây dựng kinh thành Thăng Long mang đậm dấu ấn Chăm-pa
như hình ảnh đầu rồng trên nắp mái, hoa văn trang trí gạch lát chữ Chăm hoặc các
vu nữ trên đề, vị thần trong Ấn Độ giáo.
Thời - Trần đã diễn ra nhiều cuộc kháng chiến quan trọng:
Trận Như Nguyệt chống Tống năm 1077 do Thường Kiệt dẫn đầu: Nhà
chọn xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt để chặn mọi đường bộ tiến vào
Thăng Long. Sau nhiều lần quân Tống tấn công, nhà bất ngờ vượt sông tấn công,
quân của Triệu Tiết bị đánh bại hoàn toàn.
Cuộc chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất với chiến thắng Đông Bộ đầu
năm 1258: Khi quân Mông Cổ với tướng Ngột Lương Hợp kéo 4 vạn kỵ binh vào
nước ta năm 1957, nhà Trần đã rút khỏi kinh đô Thăng Long khiến khi chúng tiến vào
chỉ thấy một kinh thành trống không. Chúng không lương thảo kế hoạch cướp
lương thảo cũng thất bại, nhân hội đó vua Trần Thái Tông Thái Trần Thủ Độ
cùng các tướng đã đánh úp giặc khiến cho chúng bị bất ngờ, cuống cuồng tháo chạy
nhưng đã thất bại hoàn toàn.
Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai với trận Chương Dương
Thăng Long (6-1285): Tháng 1-1285 Thoát Hoan cùng 60 vạn quân Nguyên tiến vào
nước ta. Nhà Trần lại dùng kế “vườn không nhà trống” làm chúng thiếu lương thảo.
Ta lợi dụng thời ấy phản công đánh giặc nhiều nơi như A Lỗ, Tây Kết Hàm Tử
gắn với công lao của Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản...và đặc biệt trận Chương
Dương, với công lao của Trần Quang Khải.
Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba (1287-1288): Vua tôi nhà Trần
tiếp tục rút khỏi kinh thành Thăng Long như hai lần trước. Trần Khánh đã tổ chức
đánh bại đoàn lương thảo của giặc cho Trương Văn Hổ ch huy, chúng hoảng hốt rút
chạy về nước. Trên đường từ Vạn Kiếp rút về nước, hai cánh quân thuỷ - bộ của
Thoát Hoan bị quân dân Đại Việt chặn đánh. Đặc biệt trận đánh trên sông Bạch
Đằng, với sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương vừa kết hợp hoả công vừa lợi dụng thuỷ
triều lên, bên dưới i cọc nên đã tiêu diệt toàn bộ cánh quân thuỷ của địch. Thắng
lợi này đã thể hiện tài thao lược của Trần Hưng Đạo, sự sáng tạo của nhân n, luôn
biết kế thừa kinh nghiệm của cha ông trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân
tộc.
Câu 3: tín ngưỡng thờ tổ nghề :
Trong thực tế, sự tôn vinh những vị tổ nghề một việc làm phổ biến của người dân
các làng nghề Việt Nam, ca ngợi những anh hùng lao động giỏi, tri ân đến những
người đã công gây dựng, phát triển ngành nghề. Việc thần thánh hóa những người
thợ thủ công tài giỏi, những ông tổ các nghề vốn một đặc điểm phổ biến của
truyền thuyết nhiều nước.
Về ý nghĩa, thể hiện nguyện vọng của nhân dân muốn biểu dương, ca ngợi những
thành quả lao động, tưởng hóa, nâng lên thành những mẫu mực đẹp đẽ. Nhưng
riêng Việt Nam lại mang một màu sắc khác: đó biểu hiện cao đẹp của truyền
thống “tôn trọng đạo”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng y”, truyền
thống ghi nhớ công ơn của t tông, gần ông bà, cha mẹ mình, xa hơn chung hơn
tổ tiên của dân tộc mình” . Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề có ảnh hưởng to lớn tới đời
sống kinh tế hội, văn hóa của cộng đồng dân người Việt khu phố cổ Nội
trong hội truyền thống.
1. Trong đời sống kinh tế hi
Trong bảo vệ uy tín của ngh
Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề ảnh hưởng lớn đến những hoạt động buôn bán, kinh
doanh của phường nghề, như: tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu, kỹ thuật, mở mạng
lưới chợ để mua bán. Để giữ uy tín cho sản phẩm, mỗi nghề đều những quy định
riêng buộc các thành viên phải cam kết thực hiện. Mỗi thành viên trong nghề phải
trách nhiệm bảo vệ uy tín của phường nghề gi n chữ tín trong sản xuất kinh
doanh, bởi sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi nghề đều từ xuất phát chữ tín nên.
Thợ kim hoàn Châu Khê, phố Hàng Bạc đã xây dựng Điều lệ phố chợ kim ngân.
Điều 52, nêu rõ: “Nghề riêng của phố ta của báu quốc gia, từ trước đã thành khuôn
thước, phải giữ phép phụng sự việc công không thể xem nhẹ. Nếu ai nhộn nhạo,
xem thường phép tắc, bản phố tra t đúng thì sẽ bị phạt một con trâu giá 5 quan,
hoặc viên nào đi tra xét ý thiên lệch cũng bị phạt như trên” .
Để sự ràng buộc lẫn nhau, mỗi nghề đều bầu ra những ông trùm hoặc những người
đứng ra đăng cai nhận sản phẩm rồi giao lại cho từng hộ thể. Họ cũng đặt ra các
quy định bắt buộc các hộ làm nghề phải cam kết giữ chữ tín của nghề mình. Những
quy định chặt chẽ đều xuất phát từ uy n, chất lượng sản phẩm của mỗi phường nghề,
đòi hỏi mỗi người sản xuất kinh doanh phải luôn tâm trong nghề nghiệp để tạo
dựng lòng tin, cùng nhau xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của nghề mình. Đó
hình thức cam kết của người sản xuất với khách hàng nhằm tạo ra những sản phẩm
chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của hội.
Trong mở mang mạng lưới ch
Do môi trường sản xuất, kinh doanh chật chội, mỗi gia đình hầu như vừa sản xuất, lại
vừa tận dụng mặt bằng phố để bán hàng. Điều này sẽ hạn chế việc tăng năng suất
tiêu thụ sản phẩm. Để thể giới thiệu, quảng những sản phẩm đến được với
người tiêu dùng, những người thợ thủ công Thăng Long đã liên kết lại lập những
khu phố riêng để bán hàng.
Ngoài những chợ tự phát như trên, để tận dụng công năng, mỗi phường nghề đều sử
dụng ngôi đình chung của phường (vừa nơi thờ cúng tổ nghề, vừa nơi họp chợ
vào những ngày phiên để bán những sản phẩm) như: chợ Đình bán đồ thêu của
dân Quất Động, chợ đình Đồng Lạc bán đồ lụa, cổ yếm (phố Hàng Đào),... Những
tấm bia hiện còn trong các di tích thờ tổ nghề đã minh chứng cho điều này. Bia Đan
Loan Hoa Lộc thị bi ký, tại đình Hoa Lộc cho biết: t thời Vĩnh Thịnh, những
người dân Đan Loan đã lập chợ Hoa Lộc để bán sản phẩm của nghề nhuộm. Bia
Đình trùng tu bi , niên hiệu Bảo Đại tại đình Thị cho biết những người thợ thêu
của làng Quất Động di ra Thăng Long đã lập ch Đình phố Hàng Mành để
bán sản phẩm thêu.
thể thấy, sản xuất thủ công của Thăng Long Nội vốn nhiều lẻ, manh mún
mang tính chất tự phát, không có sự can thiệp, hỗ trợ của Nhà nước. Muốn cho nghề
phát triển đứng được chốn kinh đô, đòi hỏi sự liên kết của từng phường thợ để
tạo đầu ra cho sản phẩm. Ngoài những phố hàng t những ngôi đình chợ chính địa
chỉ hữu hiệu cho các phường nghề, vừa mang chức ng thờ cúng, vừa mang chức
năng chợ bán hàng.
Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh
Trong sản xuất, kinh doanh, mỗi phường nghề đều những hoạt động nhằm giúp đỡ
lẫn nhau khi trong phường nghề người gặp khó khăn về nguồn vốn, nguyên vật
liệu, khách hàng, hoặc việc làm. Phường chạm bạc Đồng Xâm ra phố Hàng Bạc làm
nghề từ xưa quy định thành lệ: “Thợ Đồng Xâm hành nghề trong thiên hạ. Một
ngày nào đó, nếu thấy xuất hiện một người không quen biết, trên tay cầm một
chiếc lông hoặc hòn than, ấy dấu hiệu kêu cứu của thợ bạn đang gặp nạn. Nếu họ
cần tiền hãy giúp tiền, cần sức hãy giúp sức. Nếu họ chưa việc làm thì tạo công ăn
việc làm cho họ tùy khả năng mình .
Tinh thần tương trợ ấy xuất phát từ tình cảm gắn bó, ng buộc lẫn nhau của mỗi
phường thợ, tình đồng hương, tình làng nghĩa xóm của những người xa quê hay nói
khác đi chính tình người, tình cảm tốt đẹp của người Việt Nam từ ngàn đời nay
trong việc tương thân, tương ái…
Việc trao đổi kinh nghiệm sản xuất, buôn bán được các phường nghề gặp gỡ vào dịp
giỗ tổ nghề, hoặc lễ tế xuân thu nhị kỳ. Đối với mỗi phường nghề, lễ gi tổ ngày
quan trọng nhất (nếu phường nghề nào không ngày giỗ tổ thì lấy 2 kỳ l xuân thu
làm ngày lễ chính). Trong những ngày này, ngoài thể hiện lòng biết ơn, sự tri ân cũng
dịp đoàn viên của các phường nghề để ôn lại quá trình sản xuất trong một m, trao
đổi, phổ biến những kinh nghiệm hay, những quyết nghề để cải tiến chất lượng sản
phẩm. quan trọng n cả, trong những dịp lễ, các phường nghề thường lễ trình
nghề, một hình thức giới thiệu, tiếp thị những sản phẩm mới của nghề mình. Qua đó,
nhiều mối làm ăn, buôn bán được thiết lập, tạo dựng niềm tin, thương hiệu của mỗi
nghề.
2. Trong đời sống văn hóa tinh thần
Trong giáo dục đạo đức truyền thống
Tín ngưỡng tổ nghề vai t nhất định trong đời sống văn hóa tinh thần, đặc biệt là
đối với nhóm hội nghề nghiệp. Trong quan niệm của mỗi người, bất cứ một nghề
nào đều những ông thày để làm điểm tựa tinh thần cho họ trong những lúc gặp khó
khăn, hoạn nạn. Hình tượng tổ sư/tổ nghề thể bằng xương bằng thịt, thể nhân
vật huyền thoại nhưng đều là những người học rộng tài cao, hiểu sâu biết rộng, thông
minh, thức thời, nhạy bén. bất cứ hoàn cảnh nào, họ cũng vượt qua thành công
trong sự nghiệp. Hơn thế, đa số c vị t nghề đều vai trò với đất nước. H vừa
tổ nghề, vừa là một viên quan mẫn cán, một trí thức bậc cao, cũng những vị tham
gia vào các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, dẹp lọan cứu dân… Người đời sau
thế tôn vinh, noi gương, lấy đó để phấn đấu, học tập. Bởi vậy thờ cúng tổ nghề
luôn vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho các thế hệ con cháu cách
ứng xử trong văn hóa, lòng tri ân, tự hào, ngưỡng mộ, tinh thần hướng về cội nguồn
dân tộc, ham học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, vượt mọi khó khăn để đi đến thành công.
Giáo dục đạo đức truyền thống trong thờ cúng tổ nghề còn là s nhắc nhở những
thành viên cùng trách nhiệm trong việc duy trì, thực hiện những nghi thức sinh
hoạt văn hóa m linh đối với t nghề như: ngày giỗ tổ, ngày tuần tiết, sóc vọng…
Bia Du Tiên bi ký, niên hiệu Gia Long 13 quy định Cứ đến ngày 12 6, thợ
thêu các làng sắm l vật, rước kiệu về làng Ngũ để tế tổ. Năm Cảnh Hưng (1740)
được nâng bậc trong bách thần, ghi vào điển lễ. Năm Bính Dần (1746) vâng chiếu chỉ
ban áo lễ của nhà vua, phong làm Thượng đẳng phúc thần, cho phép 5 tổng Du
quan Khang Công Phiên làm chủ tế lễ việc công”.
Trong sinh hoạt văn hóa tâm linh
Sinh hoạt văn hóa tâm linh vốn sợi dây cố kết những thành viên trong cộng đồng
làm nghề một cách chặt chẽ, hữu hiệu nhất. Mọi công việc lớn nhỏ của phường nghề
đều được họp bàn tại chốn đình chung của phường hội. Đối với mỗi phường nghề,
ngôi đình, đền hoặc nhà thờ tổ nghề vừa nơi thờ cúng tổ nghề nhưng cũng nơi
tất cả những thành viên đều được tham gia hội họp để bàn những công việc chung
trong sản xuất, kinh doanh, trong trùng tu, sửa chữa di tích cũng như những nghĩa vụ
của mỗi thành viên nhằm duy trì những tập tục của địa phương.
Sinh hoạt n hóa tâm linh được thể hiện nét nhất qua ngày giỗ tổ, ngày lễ xuân thu
nhị kỳ, những ngày tuần tiết, sóc vọng. Đây dịp để mỗi người thợ thể hiện lòng tri
ân với t nghề, đồng thời củng cố tính cộng đồng, xây dựng tình đoàn kết, tương trợ
lẫn nhau, tạo niềm tin trong làm ăn, buôn bán, cách ứng xử của mỗi thành viên trong
phường nghề. Những nghi thức thờ cúng, tế lễ… chính sự kết nối giữa con người
với thế giới thần linh để tạo nên sự thiêng hóa của vị t nghề.
Góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa Thăng Long Nội
Văn hóa kinh kỳ vốn sự hội tụ của nhiều nền văn hóa từ các địa phương khác để rồi
kết tinh, chọn lọc, kế thừa, giao lưu tỏa ng. Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề trong
khu phố cổ Nội từ khi ra đời, tồn tại đến nay cũng luôn phải vận động để thích
nghi với cuộc sống đô thị. Tuy là tín ngưỡng của một bộ phận người Việt (nhóm
hội nghề nghiệp) nhưng vai trò ảnh hưởng đến diện mạo văn hóa của Thăng
Long Nội, mang đặc trưng, sắc thái riêng biệt gắn với mỗi nghề truyền thống
trong khu 36 phố phường của Nội xưa.
Giá tr văn hóa của tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề còn thể hiện khía cạnh bản sắc tộc
người, thông qua các phong tục, tập quán, nghi lễ, lệ làng, hương ước được các cộng
đồng làm nghề mang từ nhiều vùng quê về Thăng Long Nội. Người ta đều thể
nhận ra, sau mỗi một tên phố chữ Hàng cả một hình tổ chức hội nông
thôn được những người thợ thủ công đưa t quê đến đây với đầy đủ các thiết chế văn
hóa truyền thống được duy trì, kết tinh qua hàng trăm năm để trở thành văn hóa đất
kinh kỳ thanh lịch hào hoa. Đó sự hội nhập của nhiều hình thái tôn giáo, tín
ngưỡng các tộc người trong một môi trường mới môi trường đô thị. Sự tồn tại của
tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề đã tạo nên chất hồn của khu 36 phố phường a, Kẻ
chợ buôn bán sầm uất với nhiều ngh thủ công. Nếu thiếu đi tín ngưỡng này những
di ch thờ cúng tổ nghề thì những chữ Hàng bắt đầu từ tên phố sẽ mất đi nguồn gốc
lịch sử giá trị văn hóa truyền thống lâu đời nơi phố cổ Nội.

Preview text:

VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN CỦA HÀ NỘI
Hà Nội có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên cho phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá:
1. Vị trí địa lý của Hà Nội :
Hà Nội - Thủ đô ngàn năm tuổi của đất nước, có vị thế “rồng cuộn, hổ ngồi”,
nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng.
Hà Nội Nội có diện tích tự nhiên 3324 km2, trải dài theo chiều Bắc - Nam
khoảng 91km và theo chiều Tây – Đông khoảng 77km, phía bắc giáp Vĩnh Phúc và
Thái Nguyên, phía tây bắc giáp Phú Thọ, phía tây nam giáp Hoà Bình, phía đông bắc
giáp Hưng Yên và phía nam giáp Hà Nam.
Hà Nội có vị trí địa lý - chính trị quan trọng, là đầu não chính trị - hành chính
Quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế;
là đầu mối giao thương bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường sông
tỏa đi các vùng khác trong cả nước và đi quốc tế.
2. Tài nguyên thiên nhiên :
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực quan trọng cho việc phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.
Đặc điểm địa hình
Nhìn chung, địa hình Hà Nội khá đa dạng với núi thấp, đồi và đồng bằng. Trong
đó phần lớn diện tích của Thành phố là vùng đồng bằng, thấp dần từ Tây Bắc xuống
Đông Nam theo hướng dòng chảy của sông Hồng. Khu vực nội Thành và phụ cận là
vùng trũng thấp trên nền đất yếu. Hà Nội có nhiều hồ, đầm thuận lợi cho phát triển
Thủy sản và du lịch, nhưng do thấp trũng nên khó khăn trong việc tiêu thoát nước
nhanh, gây úng ngập cục bộ thường xuyên vào mùa mưa. Hà Nội có 2 khối núi cao
trung bình là Sóc Sơn ở phía bắc và Ba Vì ở phía tây. Vùng đồi núi thấp và trung bình
ở phía Bắc Hà Nội thuận lợi cho xây dựng, phát triển công nghiệp, lâm nghiệp và tổ
chức nhiều loại hình du lịch. Tài nguyên khí hậu
Tài nguyên khí hậu ở Hà Nội được hình Thành và tồn tại nhờ cơ chế nhiệt đới
gió mùa, mùa đông lạnh ít mưa, mùa hè nóng nhiều mưa. Lượng bức xạ tổng cộng
năm đạt 122,8 kcal/cm2, hàng năm chịu ảnh hưởng của khoảng 25 - 30 đợt front lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm không dưới 23 độ C, biên độ năm của nhiệt độ trên 12 độC.
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và chiếm khoảng 80% lượng mưa
toàn năm. Mùa ít mưa chủ yếu là mưa nhỏ và mưa phùn kéo dài từ tháng 11 đến tháng
4 năm sau, trong đó tháng 12 hoặc tháng 01 có lượng mưa ít nhất.
Hà Nội có mùa đông lạnh rõ rệt so với các địa phương khác ở phía Nam: Tần số
front lạnh cao hơn, số ngày nhiệt độ thấp đáng kể, nhất là số ngày rét đậm, rét hại
nhiều hơn, mùa lạnh kéo dài hơn và mưa phùn cũng nhiều hơn. Nhờ mùa đông lạnh
trong cơ cấu cây trồng của Hà Nội cũng như đồng bằng Bắc Bộ, có cả một vụ đông
độc đáo ở miền nhiệt đới.
Tài nguyên nước mặt
Hệ thống sông, hồ Hà Nội thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, phân
bố không đều giữa các vùng. Một trong những nét đặc trưng của địa hình Hà Nội là có
nhiều hồ, đầm tự nhiên. Tuy nhiên, do yêu cầu đô thị hóa và cũng do thiếu quy hoạch,
quản lý kém nên nhiều ao hồ đã bị san lấp để lấy đất xây dựng. Diện tích ao, hồ, đầm
của Hà Nội hiện còn lại vào khoảng 3.600 ha. Có thể nói, hiếm có một Thành phố nào
trên thế giới có nhiều hồ, đầm như ở Hà Nội. Hồ, đầm của Hà Nội đã tạo nên nhiều
cảnh quan sinh thái đẹp cho Thành phố, điều hòa tiểu khí hậu khu vực, rất có giá trị
đối với du lịch, giải trí và nghỉ dưỡng, bên cạnh đó còn mang tâm tư tình cảm tinh
thần, đời sống tâm linh của người dân Việt.
Hà Nội không phải là vùng dồi dào nước mặt, nhưng có lượng nước chảy qua
khổng lồ của sông Hồng, sông Cầu, sông Cà Lồ có thể khai thác sử dụng.
Tài nguyên nước ngầm
Gồm 2 tầng chứa nước: Holocen (qh) và Pleistocen (qp). Tầng chứa qh có
nguồn cung cấp nước là nước mưa, nước tưới, riêng dải ven sông về mùa lũ thì nước
sông là nguồn cung cấp chính. Tầng chứa nước này chỉ có ý nghĩa cung cấp nhỏ, nó
dễ bị nhiễm bẩn và nhiều nơi đã bị nhiễm bẩn.
Tầng chứa nước qp có nguồn cung cấp chủ yếu là nước sông, nước mưa thấm
qua tầng chứa qh bên trên, một phần thoát ra sông, còn lại cung cấp cho tầng chứa
nước bên dưới. Tầng chứa nước này có trữ lượng nước lớn nên rất có ý nghĩa trong
việc cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố.
Đây là nguồn tài nguyên quan trọng của thành phố tuy nhiên việc khai thác nó
chưa được quản lí chặt chẽ, còn lãng phí nhiều. Tài nguyên đất
Hà Nội có tổng diện tích đất tự nhiên 92.097 ha trong đó diện tích đất nông
nghiệp chiếm 47,4%, diện tích đất lâm nghiệp chiếm 8,6%, đất ở chiếm 19,26%.
Xuất phát từ yêu cầu sử dụng đất của Thủ đô Hà Nội, có 2 nhóm đất có ý nghĩa
lớn nhất đối với phát triển kinh tế - xã hội, đó là đất nông lâm nghiệp và đất xây dựng.
Phần lớn diện tích đất đai ở nội Thành Hà Nội được đánh giá là không thuận lợi cho
xây dựng do có hiện tượng tích nước ngầm, nước mặt, sụt lún, nứt đất, sạt lở, trôi
trượt dọc sông, cấu tạo nền đất yếu. Tài nguyên sinh vật
Hà Nội có một số kiểu hệ sinh thái đặc trưng như hệ sinh thái vùng gò đồi ở Sóc
Sơn và hệ sinh thái hồ, điển hình là hồ Tây, hệ sinh thái nông nghiệp, hệ sinh thái đô
thị. . Trong đó, các kiểu hệ sinh thái rừng vùng gò đồi và hồ có tính đa dạng sinh học cao hơn cả.
Khu hệ thực vật, động vật trong các hệ sinh thái đặc trưng của Hà Nội khá
phong phú và đa dạng. Cho đến nay, đã thống kê và xác định có 655 loài thực vật bậc
cao, 569 loài nấm lớn (thực vật bậc thấp), 595 loài côn trùng, 61 loài động vật đất, 33
loài bò sát-ếch nhái, 103 loài chim, 40 loài thú, 476 loài thực vật nổi, 125 loài động
vật thủy sinh, 118 loài cá, 48 loài cá cảnh nhập nội. Trong số các loài sinh vật, nhiều
loài có giá trị kinh tế, một số loài quý hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam. Khoáng sản
Khoáng sản ở thành phố Hà Nội tương đối phong phú về chủng loại ,tuy có một số
khoáng sản kim loại, nhưng còn hạn chế về trữ lượng, ít có giá trị thực tế khai thác.
Phong phú nhất là vật liệu xây dựng như than đá, cát,sỏi,các loại đá vôi ,sét, gạch ngói
và đá tổ ong. Ngoài ra Hà nội còn có các loại nhiên liệu than đá và than bùn; khoáng
sản công nghiệp như pyiyrit, kaolin, asbest; và nước khoáng ở các tỉnh Mỹ Khê, Sóc Sơn, Định Công.
Câu 2. Đặc trưng và thành tựu của Thăng Long thời Lý-Trần:
Năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi Thiên tử, nhận thấy Đại La: “Ở trung tâm bờ
cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương Đông, Tây,
Nam, Bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng
đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất phong phú tốt
tươi. .thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương

muôn đời”, năm 1010 dời đô ra thành Đại La, đổi tên là Thăng Long.
Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế-hành chính: Thăng Long thời Lý được
quy hoạch rộng rãi, định hình rõ quy mô của một đô thị-kinh kì với “thành” là nơi
định đô, “thị” với bến sông, chợ búa, nơi sinh sống buôn bán của thị dân, có 4 cửa
mở ra 4 hướng vừa là cửa thành vừa là cửa chợ.
Kinh thành được xây dựng với mô hình “tam trùng thành quách”: vòng ngoài
cùng là La thành hay Kinh thành – nơi sinh sống của cư dân, vòng giữa là Hoàng
thành – khu triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều, vòng trong
cùng là Tử Cấm thành hay Long Phượng thành – nơi dành cho vua, hoàng hậu và các
thành viên trong hoàng tộc.
Có 61 phường tập hợp các thợ thủ công, vùng rừng rậm và đầm lầy ở phía tây
kinh thành, ven sông Nhĩ Hà được khai phá, lập nên “Thập tam trại” gồm 13 các làng nghề.
Trở thành trung tâm văn hoá, giáo dục với nhiều công trình kiến trúc:
Thời Lý - Trần tồn tại hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên, Tam giáo tịnh tồn”
(Phật, Đạo, Nho) trong đó Phật giáo là tôn giáo thịnh đạt nhất. Thăng Long là trung
tâm Phật giáo thời Lý do nội dung giáo lý phù hợp với lối sống trọng tình của người
Việt và chùa cũng là nơi cất giữ nhiều vốn văn hoá cổ. Nhiều chùa được cho xây dựng
như Chùa Một Cột (1049), chùa Láng, chùa Kim Liên và 2 trong số 4 An Nam tứ đại
khí tháp Báo Thiên và chuông Quy Điền.
Về giáo dục: năm 1070 Văn Miếu được xây dựng để thờ Chu Công, Khổng Tử
và các vị tiên hiền, làm nơi dạy học Hoàng Thái tử, năm 1075 nhà Lý mở khoa thi
Thái học sinh đầu tiên, năm 1076 Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt
Nam được thành lập, năm 1246 nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi gồm trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa.
Các công trình xây dựng ở kinh thành Thăng Long mang đậm dấu ấn Chăm-pa
như hình ảnh đầu rồng trên nắp mái, hoa văn trang trí gạch lát có chữ Chăm hoặc các
vu nữ trên lá đề, vị thần trong Ấn Độ giáo.
Thời Lý - Trần đã diễn ra nhiều cuộc kháng chiến quan trọng:
Trận Như Nguyệt chống Tống năm 1077 do Lý Thường Kiệt dẫn đầu: Nhà Lý
chọn xây dựng phòng tuyến ở sông Như Nguyệt để chặn mọi đường bộ tiến vào
Thăng Long. Sau nhiều lần quân Tống tấn công, nhà Lý bất ngờ vượt sông tấn công,
quân của Triệu Tiết bị đánh bại hoàn toàn.
Cuộc chiến chống Nguyên – Mông lần thứ nhất với chiến thắng Đông Bộ đầu
năm 1258: Khi quân Mông Cổ với tướng Ngột Lương Hợp kéo 4 vạn kỵ binh vào
nước ta năm 1957, nhà Trần đã rút khỏi kinh đô Thăng Long khiến khi chúng tiến vào
chỉ thấy một kinh thành trống không. Chúng không có lương thảo và kế hoạch cướp
lương thảo cũng thất bại, nhân cơ hội đó vua Trần Thái Tông và Thái sư Trần Thủ Độ
cùng các tướng đã đánh úp giặc khiến cho chúng bị bất ngờ, cuống cuồng tháo chạy
nhưng đã thất bại hoàn toàn.
Kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai với trận Chương Dương –
Thăng Long (6-1285): Tháng 1-1285 Thoát Hoan cùng 60 vạn quân Nguyên tiến vào
nước ta. Nhà Trần lại dùng kế “vườn không nhà trống” làm chúng thiếu lương thảo.
Ta lợi dụng thời cơ ấy phản công đánh giặc ở nhiều nơi như A Lỗ, Tây Kết – Hàm Tử
gắn với công lao của Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản. .và đặc biệt là trận Chương
Dương, với công lao của Trần Quang Khải.
Kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ ba (1287-1288): Vua tôi nhà Trần
tiếp tục rút khỏi kinh thành Thăng Long như hai lần trước. Trần Khánh Dư đã tổ chức
đánh bại đoàn lương thảo của giặc cho Trương Văn Hổ chỉ huy, chúng hoảng hốt rút
chạy về nước. Trên đường từ Vạn Kiếp rút về nước, hai cánh quân thuỷ - bộ của
Thoát Hoan bị quân dân Đại Việt chặn đánh. Đặc biệt là trận đánh trên sông Bạch
Đằng, với sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương vừa kết hợp hoả công vừa lợi dụng thuỷ
triều lên, bên dưới là bãi cọc nên đã tiêu diệt toàn bộ cánh quân thuỷ của địch. Thắng
lợi này đã thể hiện tài thao lược của Trần Hưng Đạo, sự sáng tạo của nhân dân, luôn
biết kế thừa kinh nghiệm của cha ông trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Câu 3: tín ngưỡng thờ tổ nghề :
Trong thực tế, sự tôn vinh những vị tổ nghề là một việc làm phổ biến của người dân
các làng nghề ở Việt Nam, ca ngợi những anh hùng lao động giỏi, tri ân đến những
người đã có công gây dựng, phát triển ngành nghề. Việc thần thánh hóa những người
thợ thủ công tài giỏi, những ông tổ sư các nghề vốn là một đặc điểm phổ biến của
truyền thuyết ở nhiều nước.
Về ý nghĩa, nó thể hiện nguyện vọng của nhân dân muốn biểu dương, ca ngợi những
thành quả lao động, lý tưởng hóa, nâng lên thành những mẫu mực đẹp đẽ. Nhưng
riêng ở Việt Nam lại mang một màu sắc khác: đó là biểu hiện cao đẹp của truyền
thống “tôn sư trọng đạo”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, truyền
thống ghi nhớ công ơn của tổ tông, gần là ông bà, cha mẹ mình, xa hơn chung hơn là
tổ tiên của dân tộc mình” . Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề có ảnh hưởng to lớn tới đời
sống kinh tế xã hội, văn hóa của cộng đồng cư dân người Việt ở khu phố cổ Hà Nội
trong xã hội truyền thống.
1. Trong đời sống kinh tế xã hội
Trong bảo vệ uy tín của nghề
Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề có ảnh hưởng lớn đến những hoạt động buôn bán, kinh
doanh của phường nghề, như: tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu, kỹ thuật, mở mạng
lưới chợ để mua bán. Để giữ uy tín cho sản phẩm, mỗi nghề đều có những quy định
riêng buộc các thành viên phải cam kết thực hiện. Mỗi thành viên trong nghề phải có
trách nhiệm bảo vệ uy tín của phường nghề và giữ gìn chữ tín trong sản xuất kinh
doanh, bởi sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi nghề đều từ xuất phát chữ tín mà nên.
Thợ kim hoàn ở Châu Khê, phố Hàng Bạc đã xây dựng Điều lệ phố chợ kim ngân.
Điều 52, nêu rõ: “Nghề riêng của phố ta là của báu quốc gia, từ trước đã thành khuôn
thước, phải giữ phép phụng sự việc công không thể xem nhẹ. Nếu có ai nhộn nhạo,
xem thường phép tắc, bản phố tra xét mà đúng thì sẽ bị phạt một con trâu giá 5 quan,
hoặc viên nào đi tra xét có ý thiên lệch cũng bị phạt như trên” .
Để có sự ràng buộc lẫn nhau, mỗi nghề đều bầu ra những ông trùm hoặc những người
đứng ra đăng cai nhận sản phẩm rồi giao lại cho từng hộ cá thể. Họ cũng đặt ra các
quy định bắt buộc các hộ làm nghề phải có cam kết giữ chữ tín của nghề mình. Những
quy định chặt chẽ đều xuất phát từ uy tín, chất lượng sản phẩm của mỗi phường nghề,
đòi hỏi mỗi người sản xuất kinh doanh phải luôn có tâm trong nghề nghiệp để tạo
dựng lòng tin, cùng nhau xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của nghề mình. Đó là
hình thức cam kết của người sản xuất với khách hàng nhằm tạo ra những sản phẩm có
chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong mở mang mạng lưới chợ
Do môi trường sản xuất, kinh doanh chật chội, mỗi gia đình hầu như vừa sản xuất, lại
vừa tận dụng mặt bằng hè phố để bán hàng. Điều này sẽ hạn chế việc tăng năng suất
và tiêu thụ sản phẩm. Để có thể giới thiệu, quảng bá những sản phẩm đến được với
người tiêu dùng, những người thợ thủ công ở Thăng Long đã liên kết lại và lập những
khu phố riêng để bán hàng.
Ngoài những chợ tự phát như trên, để tận dụng công năng, mỗi phường nghề đều sử
dụng ngôi đình chung của phường (vừa là nơi thờ cúng tổ nghề, vừa là nơi họp chợ
vào những ngày phiên để bán những sản phẩm) như: chợ Tú Đình bán đồ thêu của
dân Quất Động, chợ đình Đồng Lạc bán đồ tơ lụa, cổ yếm (phố Hàng Đào),. . Những
tấm bia hiện còn trong các di tích thờ tổ nghề đã minh chứng cho điều này. Bia Đan
Loan Hoa Lộc thị bi ký, tại đình Hoa Lộc cho biết: từ thời Lê Vĩnh Thịnh, những
người dân xã Đan Loan đã lập chợ Hoa Lộc để bán sản phẩm của nghề nhuộm. Bia
Đình trùng tu bi ký, niên hiệu Bảo Đại tại đình Tú Thị cho biết những người thợ thêu
của làng Quất Động di cư ra Thăng Long đã lập chợ Tú Đình ở phố Hàng Mành để bán sản phẩm thêu.
Có thể thấy, sản xuất thủ công của Thăng Long – Hà Nội vốn nhiều lẻ, manh mún và
mang tính chất tự phát, không có sự can thiệp, hỗ trợ của Nhà nước. Muốn cho nghề
phát triển và đứng được ở chốn kinh đô, đòi hỏi sự liên kết của từng phường thợ để
tạo đầu ra cho sản phẩm. Ngoài những phố hàng thì những ngôi đình chợ chính là địa
chỉ hữu hiệu cho các phường nghề, vừa mang chức năng thờ cúng, vừa mang chức năng là chợ bán hàng.
Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh
Trong sản xuất, kinh doanh, mỗi phường nghề đều có những hoạt động nhằm giúp đỡ
lẫn nhau khi trong phường nghề có người gặp khó khăn về nguồn vốn, nguyên vật
liệu, khách hàng, hoặc việc làm. Phường chạm bạc Đồng Xâm ra phố Hàng Bạc làm
nghề từ xưa có quy định thành lệ: “Thợ Đồng Xâm hành nghề trong thiên hạ. Một
ngày nào đó, nếu thấy xuất hiện một người – dù không quen biết, trên tay cầm một
chiếc lông gà hoặc hòn than, ấy là dấu hiệu kêu cứu của thợ bạn đang gặp nạn. Nếu họ
cần tiền hãy giúp tiền, cần sức hãy giúp sức. Nếu họ chưa có việc làm thì tạo công ăn
việc làm cho họ tùy khả năng mình có .
Tinh thần tương trợ ấy xuất phát từ tình cảm gắn bó, ràng buộc lẫn nhau của mỗi
phường thợ, tình đồng hương, tình làng nghĩa xóm của những người xa quê hay nói
khác đi chính là tình người, tình cảm tốt đẹp của người Việt Nam từ ngàn đời nay
trong việc tương thân, tương ái…
Việc trao đổi kinh nghiệm sản xuất, buôn bán được các phường nghề gặp gỡ vào dịp
giỗ tổ nghề, hoặc lễ tế xuân thu nhị kỳ. Đối với mỗi phường nghề, lễ giỗ tổ là ngày
quan trọng nhất (nếu phường nghề nào không có ngày giỗ tổ thì lấy 2 kỳ lễ xuân thu
làm ngày lễ chính). Trong những ngày này, ngoài thể hiện lòng biết ơn, sự tri ân cũng
là dịp đoàn viên của các phường nghề để ôn lại quá trình sản xuất trong một năm, trao
đổi, phổ biến những kinh nghiệm hay, những bí quyết nghề để cải tiến chất lượng sản
phẩm. Và quan trọng hơn cả, trong những dịp lễ, các phường nghề thường có lễ trình
nghề, một hình thức giới thiệu, tiếp thị những sản phẩm mới của nghề mình. Qua đó,
nhiều mối làm ăn, buôn bán được thiết lập, tạo dựng niềm tin, thương hiệu của mỗi nghề.
2. Trong đời sống văn hóa tinh thần
Trong giáo dục đạo đức truyền thống
Tín ngưỡng tổ nghề có vai trò nhất định trong đời sống văn hóa tinh thần, đặc biệt là
đối với nhóm xã hội nghề nghiệp. Trong quan niệm của mỗi người, bất cứ một nghề
nào đều có những ông thày để làm điểm tựa tinh thần cho họ trong những lúc gặp khó
khăn, hoạn nạn. Hình tượng tổ sư/tổ nghề có thể bằng xương bằng thịt, có thể là nhân
vật huyền thoại nhưng đều là những người học rộng tài cao, hiểu sâu biết rộng, thông
minh, thức thời, nhạy bén. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, họ cũng vượt qua và thành công
trong sự nghiệp. Hơn thế, đa số các vị tổ nghề đều có vai trò với đất nước. Họ vừa là
tổ nghề, vừa là một viên quan mẫn cán, một trí thức bậc cao, cũng có những vị tham
gia vào các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, dẹp lọan cứu dân… Người đời sau vì
thế mà tôn vinh, noi gương, lấy đó để mà phấn đấu, học tập. Bởi vậy thờ cúng tổ nghề
luôn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho các thế hệ con cháu cách
ứng xử trong văn hóa, lòng tri ân, tự hào, ngưỡng mộ, tinh thần hướng về cội nguồn
dân tộc, ham học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, vượt mọi khó khăn để đi đến thành công.
Giáo dục đạo đức truyền thống trong thờ cúng tổ nghề còn là sự nhắc nhở những
thành viên cùng có trách nhiệm trong việc duy trì, thực hiện những nghi thức sinh
hoạt văn hóa tâm linh đối với tổ nghề như: ngày giỗ tổ, ngày tuần tiết, sóc vọng…
Bia Vũ Du Tiên sư bi ký, niên hiệu Gia Long 13 quy định “Cứ đến ngày 12 – 6, thợ
thêu các làng sắm lễ vật, rước kiệu về làng Ngũ Xã để tế tổ. Năm Cảnh Hưng (1740)
được nâng bậc trong bách thần, ghi vào điển lễ. Năm Bính Dần (1746) vâng chiếu chỉ
ban áo lễ của nhà vua, phong làm Thượng đẳng phúc thần, cho phép 5 xã tổng Vũ Du
và quan Khang Công Phiên làm chủ tế lễ việc công”.
Trong sinh hoạt văn hóa tâm linh
Sinh hoạt văn hóa tâm linh vốn là sợi dây cố kết những thành viên trong cộng đồng
làm nghề một cách chặt chẽ, hữu hiệu nhất. Mọi công việc lớn nhỏ của phường nghề
đều được họp bàn tại chốn đình chung của phường hội. Đối với mỗi phường nghề,
ngôi đình, đền hoặc nhà thờ tổ nghề vừa là nơi thờ cúng tổ nghề nhưng cũng là nơi mà
tất cả những thành viên đều được tham gia hội họp để bàn những công việc chung
trong sản xuất, kinh doanh, trong trùng tu, sửa chữa di tích cũng như những nghĩa vụ
của mỗi thành viên nhằm duy trì những tập tục của địa phương.
Sinh hoạt văn hóa tâm linh được thể hiện rõ nét nhất qua ngày giỗ tổ, ngày lễ xuân thu
nhị kỳ, những ngày tuần tiết, sóc vọng. Đây là dịp để mỗi người thợ thể hiện lòng tri
ân với tổ nghề, đồng thời củng cố tính cộng đồng, xây dựng tình đoàn kết, tương trợ
lẫn nhau, tạo niềm tin trong làm ăn, buôn bán, cách ứng xử của mỗi thành viên trong
phường nghề. Những nghi thức thờ cúng, tế lễ… chính là sự kết nối giữa con người
với thế giới thần linh để tạo nên sự thiêng hóa của vị tổ nghề.
Góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa Thăng Long – Hà Nội
Văn hóa kinh kỳ vốn là sự hội tụ của nhiều nền văn hóa từ các địa phương khác để rồi
kết tinh, chọn lọc, kế thừa, giao lưu và tỏa sáng. Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề trong
khu phố cổ Hà Nội từ khi ra đời, tồn tại đến nay cũng luôn phải vận động để thích
nghi với cuộc sống đô thị. Tuy là tín ngưỡng của một bộ phận người Việt (nhóm xã
hội nghề nghiệp) nhưng nó có vai trò và ảnh hưởng đến diện mạo văn hóa của Thăng
Long – Hà Nội, nó mang đặc trưng, sắc thái riêng biệt gắn với mỗi nghề truyền thống
trong khu 36 phố phường của Hà Nội xưa.
Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề còn thể hiện ở khía cạnh bản sắc tộc
người, thông qua các phong tục, tập quán, nghi lễ, lệ làng, hương ước được các cộng
đồng làm nghề mang từ nhiều vùng quê về Thăng Long – Hà Nội. Người ta đều có thể
nhận ra, sau mỗi một tên phố có chữ Hàng là cả một mô hình tổ chức xã hội nông
thôn được những người thợ thủ công đưa từ quê đến đây với đầy đủ các thiết chế văn
hóa truyền thống được duy trì, kết tinh qua hàng trăm năm để trở thành văn hóa đất
kinh kỳ thanh lịch và hào hoa. Đó là sự hội nhập của nhiều hình thái tôn giáo, tín
ngưỡng các tộc người trong một môi trường mới – môi trường đô thị. Sự tồn tại của
tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề đã tạo nên chất hồn của khu 36 phố phường xưa, Kẻ
chợ buôn bán sầm uất với nhiều nghề thủ công. Nếu thiếu đi tín ngưỡng này và những
di tích thờ cúng tổ nghề thì những chữ Hàng bắt đầu từ tên phố sẽ mất đi nguồn gốc
lịch sử và giá trị văn hóa truyền thống lâu đời nơi phố cổ Hà Nội.
Document Outline

  • VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN CỦA HÀ NỘI
  • 1.Vị trí địa lý của Hà Nội :
  • 2.Tài nguyên thiên nhiên :
  • Câu 2. Đặc trưng và thành tựu của Thăng Long thời
  • Câu 3: tín ngưỡng thờ tổ nghề :
  • 1.Trong đời sống kinh tế xã hội
  • 2.Trong đời sống văn hóa tinh thần