



Preview text:
ĐỘC TIỂU THANH KÍ (Nguyễn Du)
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu”
Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng có lẽ những vần thơ Nguyễn Du vẫn mãi trường tồn trong lòng
người đọc. Bởi lẽ nhà đại thi hào viết thơ “ như có máu nhỏ trên đầu ngọn bút , nước mắt thấm
qua trang giấy”. Thơ ông đề cập sâu sắc đến nỗi đau từ cổ chí kim của con người nhất là người
phụ nữ – những “kiếp hồng nhan” hay những kẻ tài hoa mà bạc mệnh. “Độc Tiểu Thanh kí” là
một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho tấm lòng thương người tiếc tài của đại thi hào
Nguyễn Du. Chính cái tâm sáng ngời ấy đã khiến tác phẩm của ông sống mãi trong suốt trường
kì lịch sử của dân tộc.
Nguyễn Du sáng tác bài thơ trong một lần đi sứ sang Trung Quốc cho triều Nguyễn. Bài thơ tên
chữ Hán là “Độc Tiểu Thanh kí” đã gợi ra nhiều cách hiểu. Có ý kiến cho rằng đó là Nguyễn Du
đọc tập truyện viết về cuộc đời nàng Tiểu Thanh, cảm thương cho số phận người phụ nữ tài hoa
bạc mệnh mà viết bài thơ này. Lại có ý kiến khác cho là Nguyễn Du đã được đọc tập thơ của
nàng Tiểu Thanh để lại và ngưỡng mộ, xót thương cho cuộc đời nàng. Dù hiểu theo cách nào thì
ta đều thấy trên hết đó là tấm lòng thấm đẫm tình đời, tình người của nhà thơ (?)
Mộng Liên Đường chủ nhân có nói: “Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ
suốt cả nghìn đời” Thật vậy , tấm lòng Nguyễn Du luôn canh cánh lo cho con người,ông vui với
niềm vui của con người, đau cùng nỗi đau con người, phải khóc, phải cười, phải trăn trở với con
người. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Tiểu Thanh vốn là cô gái nhan sắc và có
tài thi ca, âm nhạc, sống khoảng đầu đời Minh. Nàng làm lẽ một nhà quyền quí. Nhưng thật
không may, người vợ cả vốn hay ghen đã bắt nàng phải ra núi Cô Sơn ở. Vì đau buồn, nàng mất
khi mới mười tám tuổi. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ,giờ chỉ còn lại một số bài thơ gọi là “phần dư”.
Câu thơ đầu tiên cất lên là lời than cho cái đẹp bị dập vùi, tàn phá phũ phàng:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”
Cảm xúc trước sự đổi thay của cuộc đời là cảm xúc mang tính nhân văn khá phổ biến trong thơ
trung đại.Bà Huyện Thanh Quan ngậm ngùi trước cảnh “dấu xưa xe ngựa” giờ chỉ còn là “ hồn
thu thảo”, “ nền cũ lâu đài” gợi nhớ một triều đại rực rỡ đã đi qua. Câu thơ của Nguyễn Du có
gợi lên lẽ đời dâu bể nhưng mối thương tâm của thi nhân lại đặt nơi cái đẹp bị tàn phá phũ
phàng.Hình ảnh thơ đối lập: cảnh đẹp >< gò hoang gợi nghịch cảnh éo le. Từ “tẫn” trong nguyên
bản chữ Hán “tẫn thành khư” gợi sự đổi thay mãnh liệt không còn dấu vết nào.Dường như phải
có một con mắt tinh tế lắm mới có thể nhận ra đống đổ nát nơi gò hoang xưa đã từng là một địa
danh rất đẹp. Thời gian tàn phá lên mọi cảnh vật , phủ mờ đi tất cả. Đang trong dòng hoài niệm
bỗng tác giả sực tỉnh và trở về thực tại, với nghịch cảnh trớ trêu, nghịch cảnh giữa qúa khứ và
hiện tại, giữa vẻ đẹp huy hoàng/sự hoang vu cô quạnh.
Nhớ đến Tây Hồ là nhớ đến nàng Tiểu Thanh - người con gái tài hoa bạc mệnh. Nguyễn Du xót
xa tiếc nuối, ai oán trước số phận nghiệt ngã của Tiểu Thanh .Cái chết của nàng là bằng chứng
xót xa cho một kiếp hồng nhan, từ đó càng nuối tiếc trước cảnh và người đẹp đều chịu chung số
phận. Nếu như trong Truyện Kiều, Thúy Kiều tri ngộ với số phận Đạm Tiên qua lời kể của
Vương Quan thì ở Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du thấu hiểu nỗi oan khiên của Tiểu Thanh qua
“ mảnh giấy tàn” trước song cửa sổ:
“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Mảnh giấy này là vật chứng lưu kí bao tâm sự của một con người. Mảnh giấy tàn trước cửa sổ
ám chỉ số phận chóng tàn, mong manh, số phận, giá trị tinh thần bị huỷ hoại, quên lãng, vùi dập.
Nguyễn Du không khóc thương cho những cái trọn vẹn, đầy đặn mà lại xúc động trước cái mong
manh, dở dang gắn liền với số phận của con người, bạc mệnh. Điều đặc biệt là không có ai khóc
cùng Nguyễn Du. Chữ “độc” đứng đầu dòng thơ nhấn mạnh tâm thế của tác giả - đó là tâm thế
xót thương trong nỗi cô đơn. Chỉ riêng một mình nhà thơ thấm thía về cuộc đời, thân phận mong manh của con người.
Người con gái với số phận nghiệt ngã là thế nhưng với ngòi bút nhân đạo của mình, ông đã khai
phá được những vẻ đẹp tài năng và tâm hồn ẩn sâu bên trong con người nàng. Đời Tiểu Thanh là
điển hình của hai nỗi oan lớn: hồng nhan bạc phận, tài mệnh tương đố.
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vộ mệnh lụy phần dư”.
Nguyễn Du nhắc đến cuộc đời Tiểu Thanh bằng những ẩn dụ tượng trưng quen thuộc , “son
phấn” là biểu tượng cho sắc đẹp, văn chương là ẩn dụ cho tài năng của Tiểu Thanh .Hai vật thể
vô tri vô giác được nhân cách hóa như có “thần”, có “hồn”. Chính nước mắt và máu của Tiểu
Thanh đã tạo nên “cái thần”,”cái mệnh”của son phấn, văn chương. Cảm xúc của Tố Như càng
dồn nén thì câu thơ càng dẫn đến tính đa nghĩa. Nếu hiểu văn chương là chủ thể tự hận thì dẫn
đến cách cảm: son phấn có thần, cũng phải xót xa về những việc làm sau khi chết, văn chương
không có số mệnh gì cũng bị đốt dở. Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là đối tượng thương
cảm của người đời thì có cách hiểu: son phấn như có thần, sau khi chết người ta còn thương tiếc,
văn chương có số mệnh gì mà người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại. Tiểu Thanh
đẹp , tài năng là thế,ai mới trông qua tưởng đó là một người phụ nữ “phi thường”, hội tụ tất cả tài
năng của quan niệm phong kiến, nhưng họ cũng giống như những người phụ nữ khác đương
thời,cũng phải chịu một nỗi đau chung, rất “bình thường” cả về thể xác lẫn tinh thần.
Nguyễn Du đã từ cái hận của Tiểu Thanh mà nghĩ đến cái hận muôn đời, cái hận nay cứ triền
miên không bao giờ chấm dứt.Từ nỗi đau riêng của Tiểu Thành mà quy thành nỗi đau từ cổ chí
kim của bao kiếp người tài hoa.
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn”
Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình
dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa
nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du. Do vậy nỗi hận trở
nên quá lớn khó mà hỏi trời được: “Thiên nan vấn”. Lời thơ như lời than, oán trách ông trời vì lẽ
đời nghiệt ngã, trái ngang đã đẩy bao kẻ phong lưu vào kiếp đời buôn ba, đau khổ.Nhưng có hỏi
trời thì cũng chẳngmong một lời giải đáp, vì thế càng hận, càng nhức nhối.Nỗi đau của Tiểu
thanh vốn dĩ rất riêng nhưng Nguyễn Du đã tinh tế nhận ra nỗi đau rất bình thường, rất rộng lớn-
đó là nỗi đau của cả một lớp người, một thế hệ.
“Phong vân kì oan ngã tự cư”
Câu thơ dịch chữ “ngã” thành chữ “khách” đã không tô đậm được yếu tố chủ thể nhập thân vào
khách thể.Nguyễn Du tự cho mình là người cùng hội với Tiểu Thanh.Đó là tình cảm chân thành
đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất
sâu của ông. Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng
Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là
mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có
lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh,
Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những ngưòi mắc “kỳ
oan” đã đưọc bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không
khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ
thời bấy giờ. Vậy là từ giọt lệ thương người, khóc người, Nguyễn Du đã chuyển sang tự thương mình.
Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ là niềm mong ước được tri âm của Nguyễn Du ở hậu thế:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du không hỏi quá khứ, hiện tại mà hỏi tương lai, không hỏi trời, đất
mà lại hỏi người đời. Hỏi ba trăm năm sau, thiên hạ có ai khác Tố Như? Ở đây, có lẽ Nguyễn Du
không phải là cần có người hậu thế khóc thương cho mình như ông đã khóc thương cho nàng
Tiểu Thanh mà ông không biết rằng sau này liệu có còn những số phận “tài mệnh tương đố” như
ông hay không bởi vì khi có người khóc cho ông tức là tâm hồn của người ấy đang đồng điệu,
đang khổ đau giống như Nguyễn Du ở quá khứ mà thôi. Với lòng trắc ẩn của chính mình, tác giả
mong muốn hậu thế sẽ không còn những số phận nghiệt ngã, đau khổ như trong thời đại của mình nữa.
Ngôn ngữ trữ tình đậm chất triết lí kết hợp với giọng điệu buồn thương, cảm thông, chia sẻ đã
khiến cho bài thơ không chỉ là sự đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh nói riêng, những
con người tài hoa, tài tử mà bất hạnh nói chung mà đó còn là lời tâm sự của chính Nguyễn Du về
cuộc đời của mình. Nguyễn Du đã sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những hình
ảnh đối lập trong hình ảnh, ngôn từ.
Bài thơ có sự vận động, phát triển trong mạch cảm xúc từ việc đọc truyện "xót xa, thương tiếc
cho nàng Tiểu Thanh tài sắc mà bạc mệnh" mà tác giả đã suy nghĩ, tri âm với số phận những
người tài hoa, tài tử và thương cho số phận của chính bản thân mình. Bởi ông cũng nhìn thấy
được tương lai của mình - một con người tài hoa nhưng cuộc đời chông chênh, gập ghềnh, vất
vả. Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh- một hồng nhan bạc mệnh, một tài năng thi
ca đoản mệnh, mất trong nỗi cô đơn, buồn tủi; đồng thời cũng là sự cảm thương cho những kiếp
hồng nhan đa truân, tài tử đa nói chung trong xã hội. Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu
sắc, Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề về quyền sống của người nghệ sĩ. Những con người ấy cần phải
được trân trọng, tôn vinh vì chính những giá trị tinh thần lớn lao mà họ đã mang đến cho nhân
loại chứ không phải là sự chà đạp, vùi dập cho đến chết.
Chính cái tài thấu muôn đời muôn kiếp ấy đã đưa tên tuổi Nguyễn Du trở thành một nhà thơ
hang đầu của nền văn học viết. Ấy thế mới thấy rõ được quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật
của thi sĩ gian nan biết chừng nào. Phải cảm ơn những nhà văn, nhà thơ như thế , người đời mới
có thể hiểu rõ về mọi vật trong cuộc sống từ cơ bản, bao quát nhất đến chi tiết, nâng cao.