Đơn vị sự nghiệp công lập gì? Đặc điểm đơn
vị sự nghiệp công lập
1. Khái niệm đơn v sự nghiệp ng lập
Đơn vị sự nghiệp công lập chính các t chức do quan thẩm quyền
của Nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị hội thành lập theo quy định của
pháp luật cách pháp nhân, cung cấp các dịch vụ công, phục vụ quản
nhà nước trong các lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa
học, văn hóa, thể dục thể thao, lao động thương binh hội, thông
truyền thông các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.
tổ chức do quan thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị hội thành lập theo quy định của pháp luật, cách pháp
nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản nhà nước trong các lĩnh vực
như giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể dục thể thao,
du lịch, lao động thương binh hội, thông tin truyền thông các lĩnh
vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.
Đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm:
Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền t chủ hoàn toàn về việc thực
hiện các nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về việc
thực hiện các nhiệm vụ, tài chính, tổ chức về bộ máy, nhân sự.
dự như: Trường Đại học Công nghiệp trực thuộc Bộ công thương đơn vị
sự nghiệp công lập. Bệnh viện 115 trực thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh…Các đơn vị nghiên cứu, sự nghiệp (nghiên cứu khoa học kỹ thuật
giáo dục (bệnh viện, trường, viện nghiên cứu)… Đối với các quan quản
các ngành sự nghiệp, những tổ chức này những đơn vị bản thực hiện
nhiệm vụ của ngành.
Đơn vị sự nghiệp ch yếu các viện nghiên cứu, trường học, bệnh viện…
trực thuộc quan nhà nước thẩm quyền.
Xét dưới góc độ vị trí pháp lý, đơn vị sự nghiệp công lập th chia thành
loại như sau:
Đơn vị thuộc Bộ, quan ngang Bộ;
Đơn vị thuộc Tổng cục, Cục;
Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Đơn vị thuộc quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong đó, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, quan ngang Bộ bao gồm:
Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại nghị định quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn. cấu tổ chức của từng Bộ, quan ngang
Bộ (các đơn vị nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo;
tạp chí. Trung tâm thông tin hoặc tin học. Trường hoặc trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; học viện). c đơn vị sự nghiệp
công lập trong danh sách ban hành kèm theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ.
2. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp thuộc quan nhà nước, tổ chức chính trị, t chức chính trị
hội, trong đó chủ yếu các quan nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp công lập n nước đầu xây dựng để vận hành, tùy
vào từng loại đơn vị sự nghiệp nhà nước sự hỗ trợ ngân sách những
cấp độ khác nhau.
Các đơn vị sự nghiệp công lập được thành lập với mục đích cung cấp dịch vụ
sự nghiệp công trong lĩnh vực nhà nước chịu trách nhiệm cung cứng cho
nhân dân hoặc lĩnh vực khu vực phi nhà ớc không khả năng đầu
hoặc không quan tâm để đầu tư.
Tiếp theo chế hoạt động của các đơn vụ sự nghiệp ng lập đang ngày
càng được đổi mới theo hướng tự ch được thực hiện hạch toán một cách
độc lập.
Các đơn vị sự nghiệp ng lập hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Đồng
thời nhằm đảo bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tránh cách tình trạng lạm
quyền, vượt quyền, phòng chống tham nhũng, pháp luật đã đưa ra các quy
định về việc thành lập Hội đồng quản tại c đơn vị sự nghiệp công lập t
đảm bảo chi thường xuyên đầu vào các đơn vị sự nghiệp ng lập khác
trong trường hợp cần thiết.
Nhân sự tại đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu được tuyển dụng theo vị trí
việc làm, theo hợp đồng, được quản lý, sử dụng cách viên chức. Trong
khi đó thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập công chức.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định
chế tự ch của đơn vị sự nghiệp công lập đã chia đơn vị sự nghiệp công lập
thành 4 loại:
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên chi đầu tư;
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên;
Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên;
Đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
3. Quy định mới về chế tự ch tài chính của đơn vị sự nghiệp
công lập
3.1. Sửa quy định về nguồn tài chính
Về nguồn tài chính, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định nguồn tài chính
của đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) theo hướng tổng hợp chung tất cả các
nguồn lực, chưa sự ch bạch nguồn thu từ hoạt động thực hiện nhiệm
vụ chính trị do Nhà nước giao các hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP bổ sung quy
định cụ thể nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tách
nguồn thu. Cụ thể, nguồn thu hoạt động sự nghiệp gồm:
- Thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công;
- Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động liên doanh, liên kết với
các tổ chức, nhân theo đúng quy định của pháp luật được quan
thẩm quyền phê duyệt đề án phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự
nghiệp công;
- Thu từ cho thuê tài sản công: Đơn vị thực hiện đầy đủ quy định của pháp
luật về quản lý, sử dụng tài sản công phải được quan thẩm quyền
phê duyệt đề án cho thuê tài sản công.
3.2. Tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP chưa quy định cụ thể các hình thức liên doanh
liên kết việc phân phối kết quả chênh lệch thu chi từ hoạt động liên doanh
liên kết của đơn vị sự nghiệp công lập.
Do đó, để đảm bảo tính đồng bộ thống nhất chung về việc phân phối kết
quả từ hoạt động liên doanh liên kết của đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định
60/2021/NĐ-CP bổ sung quy định về tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên
kết.
Theo quy định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP, đơn vị sự nghiệp công lập được
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm liên doanh, liên kết với c tổ chức,
nhân để hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu của hội. Việc sử dụng tài sản
công vào mục đích liên doanh, liên kết phải bảo đảm các yêu cầu quy định tại
khoản 2 Điều 55 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công thuộc c trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Nghị định này không quy định việc sử dụng thương hiệu, giấy phép, bản
quyền tác phẩm để liên doanh, liên kết theo hình thức thành lập pháp nhân
mới. Trường hợp liên doanh, liên kết theo hình thức thành lập pháp nhân mới
thì đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo các quy định pháp luật về doanh
nghiệp, pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về đầu tư, pháp
luật về sở hữu trí tuệ pháp luật liên quan khác.
Việc phân chia kết quả của hoạt động liên doanh, liên kết thực hiện theo thỏa
thuận trong Hợp đồng liên doanh, liên kết, cụ thể như sau:
- Đối với hình thức liên doanh, liên kết không thành lập pháp nhân mới: Đơn
vị sự nghiệp công lập thực hiện bổ sung toàn bộ kết quả của hoạt động liên
doanh, liên kết vào nguồn tài chính của đơn vị hoạt động liên doanh, liên
kết theo đề án liên doanh, liên kết đã được cấp thẩm quyền phê duyệt.
- Đối với hình thức liên doanh, liên kết thành lập pháp nhân mới: số tiền thu
được từ kết quả phân chia của hoạt động liên doanh, liên kết sau khi chi trả
các chi phí lãi vay, chi phí thuê tài sản đem đi góp vốn (nếu có); phần thu
nhập được chia n lại của đơn vị sự nghiệp công lập được quản sử
dụng theo đề án liên doanh, liên kết được cấp thẩm quyền phê duyệt.
4. nh hình thực hiện chế t chủ tài chính của những đơn vị
sự nghiệp công lập
Thời gian qua, chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được
thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ
quy định quyền t chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Thông số
71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị
định trên. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP trên sở
tổng kết đánh giá kết quả đạt được cũng như những bất cập phát sinh, ngày
14/2/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP thay thế
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP theo hướng quy định các vấn đề chung, làm
căn cứ cho các bộ, quan liên quan xây dựng các Nghị định riêng quy định
đối với từng lĩnh vực cụ thể. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã thể hiện mục
tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh việc giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự tài chính.
Theo đó, t chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp theo 4 mức độ: (i) Tự chủ tài
chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên chi đầu tư; (ii) Tự chủ
tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; (iii) Tự chủ tài chính đối
với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự
nghiệp ng chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm
vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí); (iv)
Tự chủ tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên
(theo chức năng, nhiệm vụ được cấp thẩm quyền giao, không nguồn
thu hoặc nguồn thu thấp).
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài chính
cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực, như
các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động sử dụng nguồn kinh p ngân
sách nhà nước (NSNN) giao để thực hiện nhiệm vụ hiệu quả; đồng thời
chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển nâng cao số
lượng, chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từ đó phát
triển nguồn thu.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập cùng với nguồn kinh phí tiết
kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên NSNN giao đã góp phần bảo đảm
đắp một phần nhu cầu tiền lương tăng thêm, theo quy định của Chính phủ.
Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi thực hiện chế tự chủ,
thu nhập đời sống của người lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập
đã từng bước được nâng lên. Trong đó, thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên
chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của đơn vị.
Riêng một số đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đại học tự
bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động đã thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm
cho người lao động khoảng 2 - 3 lần, như Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh...
Về sắp xếp bộ máy tinh giản biên chế, trong năm 2018, tại một số địa
phương đã thực hiện quyết liệt đạt được được một số kết quả nhất định.
Tại Hà Nội, sau khi thực hiện sắp xếp, kiện toàn, các đơn vị sự nghiệp công
lập trực thuộc sở, ban, ngành đã giảm từ 401 đơn vị xuống còn 280 đơn vị
(giảm tương đương 30,2%); các đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện đã
giảm từ 206 đơn vị n 96 đơn vị (giảm tương đương 53,4%). Tại tỉnh Quảng
Ninh, địa phương y đã giao tự chủ tài chính cho 84 đơn vị sự nghiệp công
lập (tăng 15 đơn vị so với m 2017), thêm 1.442 viên chức không hưởng
lương từ NSNN (trong đó, số viên chức của 4 Bệnh viện thuộc Sở Y tế
1.264 người), kinh p ngân sách cấp năm 2018 giảm 120 tỷ đồng so năm
2017.
Trong c năm 2017-2018, chỉ tính riêng Trung ương, các lĩnh vực y tế,
giáo dục đào tạo đã giảm chi ngân sách nhà nước trực tiếp cho các đơn vị
sự nghiệp công lập mỗi năm khoảng 1.000 tỷ đồng.
Tuy vậy, kết quả này mới chỉ tập trung tại một số đơn vị năng động, sáng tạo
lợi thế về uy tín trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc một số
ngành nghề khả năng hội hóa cao.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành địa phương, đến nay, tỷ lệ
các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm kinh phí hoạt động còn thấp,
chiếm khoảng 3,7% tổng số các đơn vị sự nghiệp công lập của cả nước,
tương đương 2.057 các đơn vị sự nghiệp ng lập. Việc thực hiện tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, chưa bước
chuyển biến tính đột phá; chưa tách bạch ràng giữa chức năng quản lý
nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công. Một số chính sách điều
kiện quan trọng để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn
vị sự nghiệp công lập chưa được sửa đổi, bổ sung ban hành đầy đủ kịp
thời; một số đơn vị sự nghiệp ng lập khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn
chạy theo số lượng, không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng
kỹ thuật để tăng thu. Đồng thời, vẫn những khoảng cách lớn giữa các
vùng, miền, giữa Trung ương với địa phương trong các hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập… nên việc khai thác các nguồn lực hội để đầu
phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công còn hạn chế.
5. Giải pháp hoàn thiện chế tự chủ i chính cho các đơn vị
sự nghiệp công lập
Để bảo đảm hoạt động của c đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài việc ban
hành đầy đủ khung pháp về chế tự chủ trong đó tự chủ tài chính,
chúng ta cần phải tiếp tục hoàn thiện chế quản lý, sắp xếp tổ chức lại
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp ng lập theo tinh thần của Nghị quyết
số 19/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ
thống tổ chức quản lý, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó mục tiêu: Đến năm 2021, phấn
đấu 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ
NSNN cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 - 2015; Đến
năm 2025, tối thiểu 20% đơn vị t chủ tài chính; 100% đơn vị sự nghiệp
kinh tế sự nghiệp khác đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công
ty cổ phần.
Đồng thời triển khai Nghị quyết 19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
08/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó, giao các B
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế chính
sách về hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Bộ Tài chính đã ban
hành Quyết định số 429/QĐ-BTC về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị
quyết số 08/NQ-CP đang tích cực phối hợp các Bộ, địa phương trong việc
triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu
của Nghị quyết 19, tiến tới giảm dần số lượng các đơn vị sự nghiệp công lập
do NSNN bảo đảm toàn bộ chi hoạt động thường xuyên, tăng số lượng các
đơn vị tự chủ tự bảo đảm về tài chính.
Trong thời gian tới, khi các Bộ quản ngành, lĩnh vực đã hoàn thiện trình
cấp thẩm quyền ban hành đầy đủ danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng NSNN, việc hỗ tr từ NSNN sẽ gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm
dịch vụ sự nghiệp công được cung cấp, giá cung cấp dịch vụ nhu cầu sử
dụng để bảo đảm hiệu quả đầu t NSNN, tránh lãng phí; đẩy mạnh thực
hiện chế đặt hàng thực hiện dịch vụ sự nghiệp công lộ trình cụ thể thực
hiện chế đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN để tạo
điều kiện cho sở ngoài công lập cùng tham gia cung cấp; giảm dần các
sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN thực hiện theo phương
thức giao nhiệm vụ, giao kế hoạch
6. Câu hỏi thường gặp về đơn vị sự nghiệp công lập
6.1 Đơn vị sự nghiệp công lập gồm những đơn vị nào?
Khoản 2 Điều 9 Luật Viên chức 2010 quy định, đơn vị sự nghiệp công lập
gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự ch hoàn toàn về thực hiện
nhiệm vụ, tài chính, tổ chức b máy, nhân sự (đơn vị sự nghiệp công lập
được giao quyền tự chủ).
- Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực
hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (đơn vị sự nghiệp công lập
chưa được giao quyền tự chủ). Ch yếu các Viện nghiên cứu, Bệnh viện…
trực thuộc quan nhà nước thẩm quyền.
6.2 Phân biệt với đơn vị ngoài sự nghiệp công lập?
Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập chính những đơn vị, tổ chức sự nghiệp
không nằm trong khu vực nhà nước, được thành lập bởi các tổ chức hội,
doanh nghiệp, các nhân hoặc liên doanh giữa c tổ chức với nước ngoài,
cách pháp nhân, cung cấp các dịch vụ công, hoạt động theo hình
doanh nghiệp.
Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập thuộc sở hữu bởi các tổ chức hội, tổ
chức hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế nhân, các nhân hoặc tổ chức
vốn đầu nước ngoài. Điển hình như các trường tư, bệnh viện tư, bảo
tàng tư, tổ chức nghiên cứu khoa học tự… Các đơn vị này thường được tổ
chức hoạt động theo hình doanh nghiệp, tuyển dụng, quản hay sử dụng
lao động ch yếu dựa trên quan h lao động theo quy định. Do đó người
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập nhìn chung không được
hưởng lương nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Người sử dụng lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập là nhà nước, thế
các chế tuyển dụng, sử dụng, quản lý, chế độ, chính sách đối với viên
chức trong các đơn vị này thường không giống với đơn vị sự nghiệp ngoài
công lập. thực tế n nước hoàn toàn thể quy định một số nghĩa vụ
mang tính chất ràng buộc đối với viên chức trong c đơn vị sự nghiệp công
lập.
Trong khi đó thì các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập đang được tổ chức
vận hành chủ yếu theo hình của doanh nghiệp. Cũng vậy việc tuyển
dụng, quản lý, sử dụng lao động trong các đơn vị này bản sẽ dựa trên
chế pháp chung cho việc tuyển dụng, quản đối với các loại đối tượng này.

Preview text:

Đơn vị sự nghiệp công lập là gì? Đặc điểm đơn
vị sự nghiệp công lập
1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp công lập chính là các tổ chức do cơ quan có thẩm quyền
của Nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị – xã hội thành lập theo quy định của
pháp luật có tư cách pháp nhân, cung cấp các dịch vụ công, phục vụ quản lý
nhà nước trong các lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa
học, văn hóa, thể dục thể thao, lao động – thương binh và xã hội, thông
truyền thông và các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.
Là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị – xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp
nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
như giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể dục thể thao,
du lịch, lao động – thương binh và xã hội, thông tin truyền thông và các lĩnh
vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.
Đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: 
Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về việc thực
hiện các nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. 
Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về việc
thực hiện các nhiệm vụ, tài chính, tổ chức về bộ máy, nhân sự.
Ví dự như: Trường Đại học Công nghiệp trực thuộc Bộ công thương là đơn vị
sự nghiệp công lập. Bệnh viện 115 trực thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh…Các đơn vị nghiên cứu, sự nghiệp (nghiên cứu khoa học kỹ thuật và
giáo dục (bệnh viện, trường, viện nghiên cứu)… Đối với các cơ quan quản lý
các ngành sự nghiệp, những tổ chức này là những đơn vị cơ bản thực hiện nhiệm vụ của ngành.
Đơn vị sự nghiệp chủ yếu là các viện nghiên cứu, trường học, bệnh viện…
trực thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Xét dưới góc độ vị trí pháp lý, đơn vị sự nghiệp công lập có thể chia thành loại như sau:
– Đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ;
– Đơn vị thuộc Tổng cục, Cục;
– Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
– Đơn vị thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
– Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong đó, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ bao gồm:
– Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại nghị định quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Và cơ cấu tổ chức của từng Bộ, cơ quan ngang
Bộ (các đơn vị nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo;
tạp chí. Trung tâm thông tin hoặc tin học. Trường hoặc trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; học viện). Và các đơn vị sự nghiệp
công lập trong danh sách ban hành kèm theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
2. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
– xã hội, trong đó chủ yếu là các cơ quan nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp công lập là nhà nước đầu tư và xây dựng để vận hành, tùy
vào từng loại đơn vị sự nghiệp mà nhà nước có sự hỗ trợ ngân sách ở những cấp độ khác nhau.
Các đơn vị sự nghiệp công lập được thành lập với mục đích cung cấp dịch vụ
sự nghiệp công trong lĩnh vực nhà nước chịu trách nhiệm cung cứng cho
nhân dân hoặc lĩnh vực mà khu vực phi nhà nước không có khả năng đầu tư
hoặc không quan tâm để đầu tư.
Tiếp theo là cơ chế hoạt động của các đơn vụ sự nghiệp công lập đang ngày
càng được đổi mới theo hướng tự chủ và được thực hiện hạch toán một cách độc lập.
Các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động theo cơ chế độ thủ trưởng. Đồng
thời nhằm đảo bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tránh cách tình trạng lạm
quyền, vượt quyền, phòng chống tham nhũng, pháp luật đã đưa ra các quy
định về việc thành lập Hội đồng quản lý tại các đơn vị sự nghiệp công lập tự
đảm bảo chi thường xuyên và đầu tư vào các đơn vị sự nghiệp công lập khác
trong trường hợp cần thiết.
Nhân sự tại đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu được tuyển dụng theo vị trí
việc làm, theo hợp đồng, được quản lý, sử dụng tư cách là viên chức. Trong
khi đó thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập là công chức.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ
chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã chia đơn vị sự nghiệp công lập thành 4 loại: 
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; 
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; 
Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; 
Đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
3. Quy định mới về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
3.1. Sửa quy định về nguồn tài chính
Về nguồn tài chính, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định nguồn tài chính
của đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) theo hướng tổng hợp chung tất cả các
nguồn lực, chưa có sự tách bạch rõ nguồn thu từ hoạt động thực hiện nhiệm
vụ chính trị do Nhà nước giao và các hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP bổ sung quy
định cụ thể nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tách rõ
nguồn thu. Cụ thể, nguồn thu hoạt động sự nghiệp gồm:
- Thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công;
- Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động liên doanh, liên kết với
các tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp luật và được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt đề án phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công;
- Thu từ cho thuê tài sản công: Đơn vị thực hiện đầy đủ quy định của pháp
luật về quản lý, sử dụng tài sản công và phải được cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt đề án cho thuê tài sản công.
3.2. Tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP chưa quy định cụ thể các hình thức liên doanh
liên kết và việc phân phối kết quả chênh lệch thu chi từ hoạt động liên doanh
liên kết của đơn vị sự nghiệp công lập.
Do đó, để đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất chung về việc phân phối kết
quả từ hoạt động liên doanh liên kết của đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định
60/2021/NĐ-CP bổ sung quy định về tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết.
Theo quy định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP, đơn vị sự nghiệp công lập được
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá
nhân để hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội. Việc sử dụng tài sản
công vào mục đích liên doanh, liên kết phải bảo đảm các yêu cầu quy định tại
khoản 2 Điều 55 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và thuộc các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Nghị định này không quy định việc sử dụng thương hiệu, giấy phép, bản
quyền tác phẩm để liên doanh, liên kết theo hình thức thành lập pháp nhân
mới. Trường hợp liên doanh, liên kết theo hình thức thành lập pháp nhân mới
thì đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo các quy định pháp luật về doanh
nghiệp, pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về đầu tư, pháp
luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật có liên quan khác.
Việc phân chia kết quả của hoạt động liên doanh, liên kết thực hiện theo thỏa
thuận trong Hợp đồng liên doanh, liên kết, cụ thể như sau:
- Đối với hình thức liên doanh, liên kết không thành lập pháp nhân mới: Đơn
vị sự nghiệp công lập thực hiện bổ sung toàn bộ kết quả của hoạt động liên
doanh, liên kết vào nguồn tài chính của đơn vị có hoạt động liên doanh, liên
kết theo đề án liên doanh, liên kết đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Đối với hình thức liên doanh, liên kết thành lập pháp nhân mới: số tiền thu
được từ kết quả phân chia của hoạt động liên doanh, liên kết sau khi chi trả
các chi phí lãi vay, chi phí thuê tài sản đem đi góp vốn (nếu có); phần thu
nhập được chia còn lại của đơn vị sự nghiệp công lập được quản lý và sử
dụng theo đề án liên doanh, liên kết được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
4. Tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp công lập
Thời gian qua, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được
thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ
quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số
71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị
định trên. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP trên cơ sở
tổng kết đánh giá kết quả đạt được cũng như những bất cập phát sinh, ngày
14/2/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP thay thế
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP theo hướng quy định các vấn đề chung, làm
căn cứ cho các bộ, cơ quan liên quan xây dựng các Nghị định riêng quy định
đối với từng lĩnh vực cụ thể. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã thể hiện rõ mục
tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh việc giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính.
Theo đó, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp theo 4 mức độ: (i) Tự chủ tài
chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; (i ) Tự chủ
tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; (i i) Tự chủ tài chính đối
với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự
nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm
vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí); (iv)
Tự chủ tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên
(theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn
thu hoặc nguồn thu thấp).
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài chính
cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực, như
các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân
sách nhà nước (NSNN) giao để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả; đồng thời
chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao số
lượng, chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từ đó phát triển nguồn thu.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập cùng với nguồn kinh phí tiết
kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên NSNN giao đã góp phần bảo đảm bù
đắp một phần nhu cầu tiền lương tăng thêm, theo quy định của Chính phủ.
Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi và thực hiện cơ chế tự chủ,
thu nhập và đời sống của người lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập
đã từng bước được nâng lên. Trong đó, thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên
chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của đơn vị.
Riêng một số đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đại học tự
bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động đã thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm
cho người lao động khoảng 2 - 3 lần, như Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh...
Về sắp xếp bộ máy và tinh giản biên chế, trong năm 2018, tại một số địa
phương đã thực hiện quyết liệt và đạt được được một số kết quả nhất định.
Tại Hà Nội, sau khi thực hiện sắp xếp, kiện toàn, các đơn vị sự nghiệp công
lập trực thuộc sở, ban, ngành đã giảm từ 401 đơn vị xuống còn 280 đơn vị
(giảm tương đương 30,2%); các đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện đã
giảm từ 206 đơn vị còn 96 đơn vị (giảm tương đương 53,4%). Tại tỉnh Quảng
Ninh, địa phương này đã giao tự chủ tài chính cho 84 đơn vị sự nghiệp công
lập (tăng 15 đơn vị so với năm 2017), có thêm 1.442 viên chức không hưởng
lương từ NSNN (trong đó, số viên chức của 4 Bệnh viện thuộc Sở Y tế là
1.264 người), kinh phí ngân sách cấp năm 2018 giảm 120 tỷ đồng so năm 2017.
Trong các năm 2017-2018, chỉ tính riêng ở Trung ương, các lĩnh vực y tế,
giáo dục và đào tạo đã giảm chi ngân sách nhà nước trực tiếp cho các đơn vị
sự nghiệp công lập mỗi năm khoảng 1.000 tỷ đồng.
Tuy vậy, kết quả này mới chỉ tập trung tại một số đơn vị năng động, sáng tạo
và có lợi thế về uy tín trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc ở một số
ngành nghề có khả năng xã hội hóa cao.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành và địa phương, đến nay, tỷ lệ
các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm kinh phí hoạt động còn thấp,
chiếm khoảng 3,7% tổng số các đơn vị sự nghiệp công lập của cả nước,
tương đương 2.057 các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc thực hiện tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, chưa có bước
chuyển biến có tính đột phá; chưa tách bạch rõ ràng giữa chức năng quản lý
nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công. Một số chính sách là điều
kiện quan trọng để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn
vị sự nghiệp công lập chưa được sửa đổi, bổ sung và ban hành đầy đủ kịp
thời; một số đơn vị sự nghiệp công lập khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn
chạy theo số lượng, mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng
kỹ thuật để tăng thu. Đồng thời, vẫn có những khoảng cách lớn giữa các
vùng, miền, giữa Trung ương với địa phương trong các hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập… nên việc khai thác các nguồn lực xã hội để đầu
tư phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công còn hạn chế.
5. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập
Để bảo đảm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài việc ban
hành đầy đủ khung pháp lý về cơ chế tự chủ trong đó có tự chủ tài chính,
chúng ta cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, sắp xếp và tổ chức lại
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần của Nghị quyết
số 19/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ
thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có mục tiêu: Đến năm 2021, phấn
đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ
NSNN cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 - 2015; Đến
năm 2025, có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính; 100% đơn vị sự nghiệp
kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Đồng thời triển khai Nghị quyết 19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
08/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó, giao các Bộ
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính
sách về hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Bộ Tài chính đã ban
hành Quyết định số 429/QĐ-BTC về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị
quyết số 08/NQ-CP và đang tích cực phối hợp các Bộ, địa phương trong việc
triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu
của Nghị quyết 19, tiến tới giảm dần số lượng các đơn vị sự nghiệp công lập
do NSNN bảo đảm toàn bộ chi hoạt động thường xuyên, tăng số lượng các
đơn vị tự chủ tự bảo đảm về tài chính.
Trong thời gian tới, khi các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực đã hoàn thiện và trình
cấp có thẩm quyền ban hành đầy đủ danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng NSNN, việc hỗ trợ từ NSNN sẽ gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm
dịch vụ sự nghiệp công được cung cấp, giá cung cấp dịch vụ và nhu cầu sử
dụng để bảo đảm hiệu quả đầu tư từ NSNN, tránh lãng phí; đẩy mạnh thực
hiện cơ chế đặt hàng thực hiện dịch vụ sự nghiệp công có lộ trình cụ thể thực
hiện cơ chế đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN để tạo
điều kiện cho cơ sở ngoài công lập cùng tham gia cung cấp; giảm dần các
sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN thực hiện theo phương
thức giao nhiệm vụ, giao kế hoạch
6. Câu hỏi thường gặp về đơn vị sự nghiệp công lập
6.1 Đơn vị sự nghiệp công lập gồm những đơn vị nào?
Khoản 2 Điều 9 Luật Viên chức 2010 quy định, đơn vị sự nghiệp công lập gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện
nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (đơn vị sự nghiệp công lập
được giao quyền tự chủ).
- Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực
hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (đơn vị sự nghiệp công lập
chưa được giao quyền tự chủ). Chủ yếu là các Viện nghiên cứu, Bệnh viện…
trực thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
6.2 Phân biệt với đơn vị ngoài sự nghiệp công lập?
Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập chính là những đơn vị, tổ chức sự nghiệp
không nằm trong khu vực nhà nước, được thành lập bởi các tổ chức xã hội,
doanh nghiệp, các cá nhân hoặc liên doanh giữa các tổ chức với nước ngoài,
có tư cách pháp nhân, cung cấp các dịch vụ công, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập thuộc sở hữu bởi các tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân, các cá nhân hoặc tổ chức
có vốn đầu tư nước ngoài. Điển hình như các trường tư, bệnh viện tư, bảo
tàng tư, tổ chức nghiên cứu khoa học tự… Các đơn vị này thường được tổ
chức hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, tuyển dụng, quản lý hay sử dụng
lao động chủ yếu dựa trên quan hệ lao động theo quy định. Do đó mà người
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập nhìn chung không được
hưởng lương có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Người sử dụng lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập là nhà nước, vì thế
mà các cơ chế tuyển dụng, sử dụng, quản lý, chế độ, chính sách đối với viên
chức trong các đơn vị này thường không giống với đơn vị sự nghiệp ngoài
công lập. Và thực tế nhà nước hoàn toàn có thể quy định một số nghĩa vụ
mang tính chất ràng buộc đối với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong khi đó thì các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập đang được tổ chức và
vận hành chủ yếu theo mô hình của doanh nghiệp. Cũng vì vậy mà việc tuyển
dụng, quản lý, sử dụng lao động trong các đơn vị này cơ bản sẽ dựa trên cơ
chế pháp lý chung cho việc tuyển dụng, quản lý đối với các loại đối tượng này.
Document Outline

  • Đơn vị sự nghiệp công lập là gì? Đặc điểm đơn vị s
    • 1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
    • 2. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập
    • 3. Quy định mới về cơ chế tự chủ tài chính của đơn
      • 3.1. Sửa quy định về nguồn tài chính
      • 3.2. Tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết
    • 4. Tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của
    • 5. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính ch
    • 6. Câu hỏi thường gặp về đơn vị sự nghiệp công lập
      • 6.1 Đơn vị sự nghiệp công lập gồm những đơn vị nào
      • 6.2 Phân biệt với đơn vị ngoài sự nghiệp công lập?