Dùng lực ? Cách xác định hành vi dùng
lực ?
1. Khái niệm về dùng lực
Dùng lực dùng sức mạnh thể chất (có hoặc không công cụ, phương
tiện) tác động đến thân thể người khác làm người này không thể hoặc không
dám kháng cự chống lại ý muốn việc làm của mình. v..v.
Thuật ngữ dùng lực được sử dụng trong luật an hình sự Việt Nam kể từ
khi Bộ luật hình sự năm 1985 hiệu lực. Trước đó, trong các văn bản pháp
luật như trong Pháp lệnh trừng trị c tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân năm 1970, thuật ngữ được sử dụng nội dung tương tự n thuật ngữ
dùng lực thuật ngữ dùng bạo lực. Việc thay thế thuật ngữ dùng bạo lực
bằng thuật ngữ dùng lực cần thiết, đảm bảo tính chính xác hơn về mặt
khoa học. Thuật ngữ dùng lực nh cụ thể, không trừu tượng như thuật
ngữ dùng bạo lực.
Dùng lực thể m người bị tấn công không thể kháng cự lại được, như
đánh chủ tài sản ngất đi hoặc trói họ lại để lấy tài sản của họ. Dùng lực
cũng thể làm người bị tấn công không dám kháng cự lại, như đánh phủ
đầu làm cho nạn nhân sợ không dám phản ứng gì... Với tác dụng như vậy,
dùng lực thủ đoạn để thể thực hiện được những hành vi nguy hiểm
cho hội khác nhau như hành vi chiếm đoạt tài sản, hành giao cấu với
người khác trái ý muốn của họ, hành vi chống lại người thi hành công vụ...
Trong luật hình sự Việt Nam, dùng lực được quy định dấu hiệu của
nhiều tội phạm khác nhau như tội cướp tài sản, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ
em...
2. Xác định hành vi dùng lực
Xác định người hành vi phạm tội là dùng lực hay hành vi đe doạ ng
lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản
+ “Dùng lực” dùng sức mạnh vật chất để tấn công người bị hại, thể
gây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của người bị hại, làm liệt sự phản
kháng của họ. (Ví dụ: đánh, đấm, đâm, chém, bắn người b hại). Việc dùng
lực thể công khai, cũng thể mật, lén lút (Ví dụ: đánh công khai
trước mặt người bị hại, đánh sau lưng người bị hại để h không biết ai đánh).
+ Đe doạ dùng lực ngay tức khắc” đe doạ dùng ngay lập tức sức mạnh
vật chất. Việc đe doạ này nhằm làm cho người bị tấn công hoặc người thân
của họ tin sợ sẽ bị nguy hại ngay đến sức khoẻ, tính mạng nếu không chịu
khuất phục, nhằm làm liệt ý chí kháng cự của họ. Thực tế, việc đe doạ
dùng lực ngay tức khắc thường được kết hợp với thái độ, cử chỉ, lời nói,
công cụ phương tiện trên tay hoặc ơng quan lực lượng như đông người
đe doạ một người, lợi dụng hoàn cảnh khách quan, thời gian, tình hình hội
nơi lúc xảy ra hành vi đ tạo nên cảm giác lo sợ của người bị tấn công.
+ Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm o tình trạng không thể
chống cự được” như cho người bị hại uống thuốc ngủ, thuốc mê, uống rượu
để họ ngủ, say nhằm chiếm đoạt i sản. Người bị tấn công thể biết sự
việc xảy ra nhưng không thể thực hiện được hành vi chống trả hoặc không
nhận thức được sự việc đang xảy ra.
+ Tội "Cướp tài sản" cấu thành hình thức, chỉ cần sử dụng các hành vi nói
trên nhằm chiếm đoạt tài sản tội phạm đã hoàn thành, không kể người
phạm tội chiếm đoạt được tài sản như mong muốn hay không.
3. Dùng lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép
- Tham khảo mục A chương II Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22 tháng 12
năm 1983 của TANDTC:
"Đối với những hành vi xâm hại tính mạng hoặc sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ, thì tuỳ trường hợp định tội “Tội xâm hại tính
mạng của người khác trong khi thi hành công vụ” (nếu chết người) hay “tội
xâm hại sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ” (nếu gây
thương tích).
Cần nắm vững những dấu hiệu ch yếu của các tội phạm y là:
a) Đây là các trường hợp giết người, làm chết người hay gây thương tích
nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác do sử dụng khí
ngoài những trường hợp pháp luật cho phép.
Giết người hành vi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp tước đoạt tính mạng của
người khác. Làm chết người hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, nhưng trong hoàn cảnh nhất định gây ra hậu
quả chết người.
Theo điều 22 Nghị định số 301 ngày 10-7-1957 của Thủ tướng Chính phủ quy
định chi tiết thi hành luật số 103-SL ngày 20-5-1957 đảm bảo quyền tự do
thân thể, thì:
Nếu trong khi tiến hành việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khám người, khám nhà
gặp những trường hợp cần thiết sau đây, người thi hành nhiệm vụ thể
dùng khí
a) Khi thi hành việc bắt, giữ, giam, khám, gặp sức kháng cự của kẻ phạm
pháp, cần phải bảo vệ nh mệnh của mình hoặc của người khác đang bị đe
dọa nghiêm trọng.
b) Khi cần phải ngăn chặn những người phạm tội chính trị hoặc hình sự quan
trọng hành động trốn tránh pháp luật.
c) Khi người bị giam đang vượt trại giam hoặc khi can phạm quan trọng chạy
trốn trong lúc đang bị dẫn giải.
Trong cả ba trường hợp trên, người thi hành nhiệm vụ chỉ được dùng khí
sau khi đã cảnh cáo, đã ra lệnh hoặc đã “đứng lại” hoặc “giơ tay lên”
kẻ phạm pháp không tuân theo hoặc vẫn cố tình chống cự lại.
Giết người, m chết người, gây thương ch hoặc y tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong những trường hợp nói trên không phải phạm tội.
Vậy sử dụng khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép sử dụng
khí trái với những quy định nói trên, phạm tội, tức là: Về phía nạn nhân
thì chưa hành vi kháng cự, mới bị tình nghi chứ chưa biểu hiện ràng
phạm tội nghiêm trọng, hoặc tuy đã phạm tội nghiêm trọng, nhưng không
hành động trốn tránh pháp luật; về phía người sử dụng khí, thì đã tỏ ra
thiếu thận trọng, không làm đúng th tục quy định trước khi nổ súng vào nạn
nhân, như: cảnh cáo, ra lệnh hay “đứng lại” hoặc “giơ tay lên” nạn
nhân không tuân theo hoặc vẫn tình chống cự lại.
Giết người, làm chết người, gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe
của người khác trong những những trường hợp này bị coi phạm tội trong
khi thi hành công vụ.
Tội phạm hình sự quan trọng theo điểm b, điều 22 Nghị định 301 được hiểu
phạm tội về hình sự thường (tức không phải tội phản cách mạng hoặc tội
khác xâm phạm an ninh quốc gia) thuộc loại tội nghiêm trọng. (Điều 8 phần
chung Bộ luật hình sự). dụ: trong tình hình đấu tranh gay gắt chống tội
phạm hiện nay, tại một nghiệp đã nhiều lần bị kẻ trộm vào kho lấy vật tư,
hàng hóa (có lần kẻ trộm dùng dao hành hung nhân viên bảo vệ để thoát thân)
hiện tượng kẻ trộm vào kho được coi phạm tội quan trọng (tức tội nghiêm
trọng).
b) Người phạm tội nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức hội (như bộ
đội, công an, du lích, tự vệ, thanh niên cờ đỏ v.v…) được giao khí đ làm
công vụ cụ thể, rõ ràng. Người công n thường, hoặc nhân viên Nhà nước,
nhân viên tổ chức hội ngoài nhiệm vụ chính của mình, cũng được coi như
làm ng vụ khi tham gia đấu tranh chống tội phạm quả tang hoặc chống
hành vi bị nghi một cách hợp là phạm tội qu tang.
c) Hành vi cố ý do động muốn thực hiện nhiệm vụ của người sử dụng
khí nhằm đối phó với hành vi trái pháp luật hoặc hành vi bị nh nghi một cách
hợp trái pháp luật, được coi là hành vi chính đáng hoặc cần thiết trong
khi thi hành công vụ.
Nếu khi thi hành công vụ mà sử dụng khí động thù, vụ lợi, ghen
tức, v.v… thì không được coi là thi hành công vụ.
Trong khi thi hành công vụ, nếu do ý gây chết người gây thương tích
nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác t tuỳ trường hợp
định tội ý làm chết người hay ý gây thương tích nặng hoặc gây
tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác. [...]."
- Tham khảo các trường hợp được phép sử dụng khí, công cụ hỗ trợ quy
định tại Điều 22, Điều 23, Điều 31 Điều 61 Luật Quản lý, sử dụng khí,
vật liệu nổ công cụ hỗ trợ năm 2017.
4. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng lực hay dùng vũ lực theo luật
quốc tế ?
Quá trình dân chủ hoá đời sống quốc tế tất yếu dẫn đến sự hạn chế dùng sức
mạnh hay đe dọa dùng sức mạnh trong quan hệ giữa các chù thể luật quốc tế
với nhau. Bài viết tích cụ thể nguyên tắc cấm đe dọa dùng lực, dùng lực
dưới góc nhìn luật quốc tế:
Khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc quy định:
“Tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc trong quan hệ quốc
tế không được đe dọa dùng lực hoặc dùng lực chống lại
sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc
gia nào, hoặc nhằm những mục đích khác không phù hợp với
mục đích của Liên hợp quốc”.
Theo quy định nêu trên t việc một chủ thể dùng c loại sức mạnh nhằm
khống chế, đe dọa tấn công, tấn công, hoặc cưỡng bức trái pháp luật quốc tế
đối với một chủ thể khác trong quan hệ quốc tế hành vi vi phạm luật quốc
tế.
Sau này, nguyên tắc cấm dùng lực đe dọa dùng lực trong Hiến
chương đã được cụ thể hoá trong một loạt c văn bản quốc tế quan trọng
được thông qua trong khuôn khổ Liên hợp quốc như Tuyên bố về những
nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các
quốc gia phù hợp vối Hiến chương Liên hợp quốc (do Đại hội đồng thông qua
năm 1970); Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1974 về định
nghĩa xâm lược, Định ước của Hội nghị Henxinki năm 1975 về An ninh
hợp tác của các nước châu Âu; Tuyên b năm 1987 về việc Nâng cao hiệu
quả của nguyên tắc khước từ đe dọa dùng sức mạnh hoặc đe dọa dùng sức
mạnh trong quan hệ quốc tế một số văn kiện của phong trào không liên kết,
tổ chức ASEAN...
Hiêh chương Liên hợp quốc không chỉ cấm việc sử dụng lực lượng trang
n cấm cả sự cưỡng bức phi trang nhưng khoản 4 Điều 2 Hiến
chương nhấn mạnh trước tiên đến việc cấín sử dụng lực lượng trang.
Định ước Henxinki năm 1975 quy định, các quốc gia tham gia sẽ khước từ
sử dụng mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên
khác, khước từ tiến hành hành vi cưỡng bức về kinh tế. Như vậy, khái niệm
lực theo luật quốc tế hiện đại không chỉ hẹp trong khuôn khổ là sử dụng
hoặc đe dọa sử dụng lực lượng trang để chống lại chủ quyền, độc lập của
quốc gia khác còn mờ rộng việc nghiêm cấm sử dụng các sức mạnh hay
đe dọa dùng sức mạnh phi trang khác.
Nguyên tắc cấm đe dọa dùng lực hay dùng lực trước tiên nghiêm cấm
chiến tranh xâm lược. Theo Định nghĩa xâm lược năm 1974, việc một quốc
gia sử dụng lực lượng trang trước tiên được coi hành động y chiến
tranh xâm lược, tội ác quốc tế, làm phát sinh trách nhiệm pháp quốc tế
của quốc gia trách nhiệm nh sự quốc tế của các tội phạm chiến tranh.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, luật quốc tế đã đặc biệt nhấn mạnh tới
nghĩa vụ của các quốc gia phải khước từ việc sử dụng lực hoặc đe dọa
dùng lực để chống lại sự bất khả xâm phạm lãnh thổ, biên giới của quốc
gia khác. Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
- Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của luật quốc
tế;
- Cấm các hành vi trấn áp bằng lực;
- Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành
xâm lược chống quốc gia thứ ba;
- Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi
khủng bố tại quốc gia khấc;
- Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm ttang, lực
lượng trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào nh thổ quốc
gia khác.
Hiến chương Liên hợp quốc tuy không quy định cụ thể các biện pháp lực
nào bất hợp pháp nhưng lại quy định các biện pháp lực hợp pháp để
chống lại xâm lược, thực hiện quyền tự vệ nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền
quốc gia. Các điều từ 42 đến 47 Điều 51 của Hiến chương quy định
những trường hợp sử dụng lực lượng trang hợp pháp còn các điều 41
50 thì lại quy định về những trường hợp sử dụng hợp pháp sức mạnh phi
trang. Đó những biện pháp như cắt đứt hoàn toàn hay một phần quan hệ
kinh tế, giao thông đường sắt, đường biển, đường hàng không, bưu điện,
bưu chính, điện đài, các phương tiện thông tin cắt đứt quan h ngoại giao.
Hiến chương Liên hợp quốc chỉ quy định hai trường hợp sử dụng hợp pháp
lực lượng trang vào mục đích tự vệ (Điều 51) theo quyết định của Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc khi đe dọa hoà bình, xâm phạm hoà bình hoặc
bị m lược (các điều từ 39 đến 42). S dụng lực lượng trang đ t vệ chỉ
được Hiến chương cho phép khi sự tấn công trang chống lại quốc gia.
Hiến chương (Điều 51) cám một quốc gia sử dụng lực lượng trang chống
lại quốc gia khác khi quốc gia này chỉ sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc
chính tri (hành vi tự vệ phải tương xứng với hình thức tấh công). Như vậy,
quyền tự vệ trang chỉ áp dụng khi sự tấn công trang của quốc gia
khác.
Riêng đối vói Hội đồng bảo an, Điều 42 Hiến chương quy định, tuỳ từng
trường hợp nếu những biện pháp phi quân sự được khuyến nghị khổng đủ để
giải quyết tranh chấp t Hội đồng bảo an thể tiến hành các biên pháp cần
thiết, như sử dụng lực lượng không quân, hải quân hoặc lục quân để duy trì
hoặc lập lại hoà bình an ninh quốc tế. Những biên pháp này bao gồm cả
biểu dương lực lượng, bao vây phong toả tiến hành chiến dịch bằng không
quân, hải quân hoặc lục quân.

Preview text:

Dùng vũ lực là gì ? Cách xác định hành vi dùng vũ lực ?
1. Khái niệm về dùng vũ lực
Dùng vũ lực là dùng sức mạnh thể chất (có hoặc không có công cụ, phương
tiện) tác động đến thân thể người khác làm người này không thể hoặc không
dám kháng cự chống lại ý muốn và việc làm của mình. v..v.
Thuật ngữ dùng vũ lực được sử dụng trong luật an hình sự Việt Nam kể từ
khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực. Trước đó, trong các văn bản pháp
luật như trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân năm 1970, thuật ngữ được sử dụng có nội dung tương tự như thuật ngữ
dùng vũ lực là thuật ngữ dùng bạo lực. Việc thay thế thuật ngữ dùng bạo lực
bằng thuật ngữ dùng vũ lực là cần thiết, đảm bảo tính chính xác hơn về mặt
khoa học. Thuật ngữ dùng vũ lực có tính cụ thể, không trừu tượng như thuật ngữ dùng bạo lực.
Dùng vũ lực có thể làm người bị tấn công không thể kháng cự lại được, như
đánh chủ tài sản ngất đi hoặc trói họ lại để lấy tài sản của họ. Dùng vũ lực
cũng có thể làm người bị tấn công không dám kháng cự lại, như đánh phủ
đầu làm cho nạn nhân sợ mà không dám phản ứng gì... Với tác dụng như vậy,
dùng vũ lực là thủ đoạn để có thể thực hiện được những hành vi nguy hiểm
cho xã hội khác nhau như hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vì giao cấu với
người khác trái ý muốn của họ, hành vi chống lại người thi hành công vụ...
Trong luật hình sự Việt Nam, dùng vũ lực được quy định là dấu hiệu của
nhiều tội phạm khác nhau như tội cướp tài sản, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em...
2. Xác định hành vi dùng vũ lực
Xác định người có hành vi phạm tội là dùng vũ lực hay hành vi đe doạ dùng
vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản
+ “Dùng vũ lực” là dùng sức mạnh vật chất để tấn công người bị hại, có thể
gây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của người bị hại, làm tê liệt sự phản
kháng của họ. (Ví dụ: đánh, đấm, đâm, chém, bắn người bị hại). Việc dùng vũ
lực có thể công khai, cũng có thể là bí mật, lén lút (Ví dụ: đánh công khai
trước mặt người bị hại, đánh sau lưng người bị hại để họ không biết ai đánh).
+ “Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc” là đe doạ dùng ngay lập tức sức mạnh
vật chất. Việc đe doạ này nhằm làm cho người bị tấn công hoặc người thân
của họ tin và sợ sẽ bị nguy hại ngay đến sức khoẻ, tính mạng nếu không chịu
khuất phục, nhằm làm tê liệt ý chí kháng cự của họ. Thực tế, việc đe doạ
dùng vũ lực ngay tức khắc thường được kết hợp với thái độ, cử chỉ, lời nói,
công cụ phương tiện có trên tay hoặc tương quan lực lượng như đông người
đe doạ một người, lợi dụng hoàn cảnh khách quan, thời gian, tình hình xã hội
nơi và lúc xảy ra hành vi để tạo nên cảm giác lo sợ của người bị tấn công.
+ “ Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được” như cho người bị hại uống thuốc ngủ, thuốc mê, uống rượu
để họ ngủ, say nhằm chiếm đoạt tài sản. Người bị tấn công có thể biết sự
việc xảy ra nhưng không thể thực hiện được hành vi chống trả hoặc không
nhận thức được sự việc đang xảy ra.
+ Tội "Cướp tài sản" có cấu thành hình thức, chỉ cần sử dụng các hành vi nói
trên nhằm chiếm đoạt tài sản là tội phạm đã hoàn thành, không kể người
phạm tội có chiếm đoạt được tài sản như mong muốn hay không.
3. Dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép
- Tham khảo mục A chương II Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22 tháng 12 năm 1983 của TANDTC:
"Đối với những hành vi xâm hại tính mạng hoặc sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ, thì tuỳ trường hợp mà định tội là “Tội xâm hại tính
mạng của người khác trong khi thi hành công vụ” (nếu là chết người) hay “tội
xâm hại sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ” (nếu gây thương tích).
Cần nắm vững những dấu hiệu chủ yếu của các tội phạm này là:
a) Đây là các trường hợp giết người, làm chết người hay gây thương tích
nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác do sử dụng vũ khí
ngoài những trường hợp pháp luật cho phép.
Giết người là hành vi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp tước đoạt tính mạng của
người khác. Làm chết người là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, nhưng trong hoàn cảnh nhất định gây ra hậu quả chết người.
Theo điều 22 Nghị định số 301 ngày 10-7-1957 của Thủ tướng Chính phủ quy
định chi tiết thi hành luật số 103-SL ngày 20-5-1957 đảm bảo quyền tự do thân thể, thì:
Nếu trong khi tiến hành việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khám người, khám nhà ở
mà gặp những trường hợp cần thiết sau đây, người thi hành nhiệm vụ có thể dùng vũ khí

a) Khi thi hành việc bắt, giữ, giam, khám, mà gặp sức kháng cự của kẻ phạm
pháp, cần phải bảo vệ tính mệnh của mình hoặc của người khác đang bị đe dọa nghiêm trọng.
b) Khi cần phải ngăn chặn những người phạm tội chính trị hoặc hình sự quan
trọng có hành động trốn tránh pháp luật.
c) Khi người bị giam đang vượt trại giam hoặc khi can phạm quan trọng chạy
trốn trong lúc đang bị dẫn giải.
Trong cả ba trường hợp trên, người thi hành nhiệm vụ chỉ được dùng vũ khí
sau khi đã cảnh cáo, đã ra lệnh hoặc đã hô “đứng lại” hoặc “giơ tay lên” mà
kẻ phạm pháp không tuân theo hoặc vẫn cố tình chống cự lại.
Giết người, làm chết người, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong những trường hợp nói trên không phải là phạm tội.
Vậy sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép là sử dụng
vũ khí trái với những quy định nói trên, là phạm tội, tức là: Về phía nạn nhân
thì chưa có hành vi kháng cự, mới bị tình nghi chứ chưa có biểu hiện rõ ràng
là phạm tội nghiêm trọng, hoặc tuy đã phạm tội nghiêm trọng, nhưng không
có hành động trốn tránh pháp luật; về phía người sử dụng vũ khí, thì đã tỏ ra
thiếu thận trọng, không làm đúng thủ tục quy định trước khi nổ súng vào nạn
nhân, như: cảnh cáo, ra lệnh hay hô “đứng lại” hoặc “giơ tay lên” mà nạn
nhân không tuân theo hoặc vẫn có tình chống cự lại.
Giết người, làm chết người, gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe
của người khác trong những những trường hợp này bị coi là phạm tội trong khi thi hành công vụ.
Tội phạm hình sự quan trọng theo điểm b, điều 22 Nghị định 301 được hiểu là
phạm tội về hình sự thường (tức không phải là tội phản cách mạng hoặc tội
khác xâm phạm an ninh quốc gia) thuộc loại tội nghiêm trọng. (Điều 8 phần
chung Bộ luật hình sự). Ví dụ: trong tình hình đấu tranh gay gắt chống tội
phạm hiện nay, tại một xí nghiệp đã nhiều lần bị kẻ trộm vào kho lấy vật tư,
hàng hóa (có lần kẻ trộm dùng dao hành hung nhân viên bảo vệ để thoát thân)
hiện tượng kẻ trộm vào kho được coi là phạm tội quan trọng (tức là tội nghiêm trọng).
b) Người phạm tội là nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội (như bộ
đội, công an, du lích, tự vệ, thanh niên cờ đỏ v.v…) được giao vũ khí để làm
công vụ cụ thể, rõ ràng. Người công dân thường, hoặc nhân viên Nhà nước,
nhân viên tổ chức xã hội ngoài nhiệm vụ chính của mình, cũng được coi như
làm công vụ khi tham gia đấu tranh chống tội phạm quả tang hoặc chống
hành vi bị nghi một cách hợp lý là phạm tội quả tang.

c) Hành vi cố ý do động cơ muốn thực hiện nhiệm vụ của người sử dụng vũ
khí nhằm đối phó với hành vi trái pháp luật hoặc hành vi bị tình nghi một cách
hợp lý là trái pháp luật, được coi là hành vi chính đáng hoặc cần thiết trong khi thi hành công vụ.
Nếu khi thi hành công vụ mà sử dụng vũ khí vì động cơ tư thù, vụ lợi, ghen
tức, v.v… thì không được coi là thi hành công vụ.
Trong khi thi hành công vụ, nếu do vô ý mà gây chết người gây thương tích
nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác thì tuỳ trường hợp
mà định tội là vô ý làm chết người hay vô ý gây thương tích nặng hoặc gây
tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác. [...]."
- Tham khảo các trường hợp được phép sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ quy
định tại Điều 22, Điều 23, Điều 31 và Điều 61 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí,
vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017.
4. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực theo luật quốc tế ?
Quá trình dân chủ hoá đời sống quốc tế tất yếu dẫn đến sự hạn chế dùng sức
mạnh hay đe dọa dùng sức mạnh trong quan hệ giữa các chù thể luật quốc tế
với nhau. Bài viết tích cụ thể nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực, dùng vũ lực
dưới góc nhìn luật quốc tế:
Khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc quy định:
“Tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc trong quan hệ quốc
tế không được đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực chống lại
sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc
gia nào, hoặc nhằm những mục đích khác không phù hợp với
mục đích của Liên hợp quốc”.

Theo quy định nêu trên thì việc một chủ thể dùng các loại sức mạnh nhằm
khống chế, đe dọa tấn công, tấn công, hoặc cưỡng bức trái pháp luật quốc tế
đối với một chủ thể khác trong quan hệ quốc tế là hành vi vi phạm luật quốc tế.
Sau này, nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong Hiến
chương đã được cụ thể hoá trong một loạt các văn bản quốc tế quan trọng
được thông qua trong khuôn khổ Liên hợp quốc như Tuyên bố về những
nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các
quốc gia phù hợp vối Hiến chương Liên hợp quốc (do Đại hội đồng thông qua
năm 1970); Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1974 về định
nghĩa xâm lược, Định ước của Hội nghị Henxinki năm 1975 về An ninh và
hợp tác của các nước châu Âu; Tuyên bố năm 1987 về việc Nâng cao hiệu
quả của nguyên tắc khước từ đe dọa dùng sức mạnh hoặc đe dọa dùng sức
mạnh trong quan hệ quốc tế và một số văn kiện của phong trào không liên kết, tổ chức ASEAN...
Hiêh chương Liên hợp quốc không chỉ cấm việc sử dụng lực lượng vũ trang
mà còn cấm cả sự cưỡng bức phi vũ trang nhưng khoản 4 Điều 2 Hiến
chương nhấn mạnh trước tiên đến việc cấín sử dụng lực lượng vũ trang.
Định ước Henxinki năm 1975 quy định, các quốc gia tham gia sẽ “khước từ
sử dụng mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên
khác, khước từ tiến hành hành vi cưỡng bức về kinh tế.
Như vậy, khái niệm
vũ lực theo luật quốc tế hiện đại không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ là sử dụng
hoặc đe dọa sử dụng lực lượng vũ trang để chống lại chủ quyền, độc lập của
quốc gia khác mà còn mờ rộng việc nghiêm cấm sử dụng các sức mạnh hay
đe dọa dùng sức mạnh phi vũ trang khác.
Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực trước tiên nghiêm cấm
chiến tranh xâm lược. Theo Định nghĩa xâm lược năm 1974, việc một quốc
gia sử dụng lực lượng vũ trang trước tiên được coi là hành động gây chiến
tranh xâm lược, là tội ác quốc tế, làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế
của quốc gia và trách nhiệm hình sự quốc tế của các tội phạm chiến tranh.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, luật quốc tế đã đặc biệt nhấn mạnh tới
nghĩa vụ của các quốc gia phải khước từ việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực để chống lại sự bất khả xâm phạm lãnh thổ, biên giới của quốc
gia khác. Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
- Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của luật quốc tế;
- Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
- Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành
xâm lược chống quốc gia thứ ba;
- Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi
khủng bố tại quốc gia khấc;
- Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ ttang, lực
lượng vũ trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác.
Hiến chương Liên hợp quốc tuy không quy định cụ thể các biện pháp vũ lực
nào là bất hợp pháp nhưng lại quy định các biện pháp vũ lực hợp pháp để
chống lại xâm lược, thực hiện quyền tự vệ nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền
quốc gia. Các điều từ 42 đến 47 và Điều 51 của Hiến chương quy định vê
những trường hợp sử dụng lực lượng vũ trang hợp pháp còn các điều 41 và
50 thì lại quy định về những trường hợp sử dụng hợp pháp sức mạnh phi vũ
trang. Đó là những biện pháp như cắt đứt hoàn toàn hay một phần quan hệ
kinh tế, giao thông đường sắt, đường biển, đường hàng không, bưu điện,
bưu chính, điện đài, các phương tiện thông tin và cắt đứt quan hệ ngoại giao.
Hiến chương Liên hợp quốc chỉ quy định hai trường hợp sử dụng hợp pháp
lực lượng vũ trang vào mục đích tự vệ (Điều 51) và theo quyết định của Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc khi có đe dọa hoà bình, xâm phạm hoà bình hoặc
bị xâm lược (các điều từ 39 đến 42). Sử dụng lực lượng vũ trang để tự vệ chỉ
được Hiến chương cho phép khi có sự tấn công vũ trang chống lại quốc gia.
Hiến chương (Điều 51) cám một quốc gia sử dụng lực lượng vũ trang chống
lại quốc gia khác khi quốc gia này chỉ sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc
chính tri (hành vi tự vệ phải tương xứng với hình thức tấh công). Như vậy,
quyền tự vệ vũ trang chỉ áp dụng khi có sự tấn công vũ trang của quốc gia khác.
Riêng đối vói Hội đồng bảo an, Điều 42 Hiến chương quy định, tuỳ từng
trường hợp nếu những biện pháp phi quân sự được khuyến nghị khổng đủ để
giải quyết tranh chấp thì Hội đồng bảo an có thể tiến hành các biên pháp cần
thiết, như sử dụng lực lượng không quân, hải quân hoặc lục quân để duy trì
hoặc lập lại hoà bình và an ninh quốc tế. Những biên pháp này bao gồm cả
biểu dương lực lượng, bao vây phong toả và tiến hành chiến dịch bằng không
quân, hải quân hoặc lục quân.
Document Outline

  • Dùng vũ lực là gì ? Cách xác định hành vi dùng vũ
    • 1. Khái niệm về dùng vũ lực
    • 2. Xác định hành vi dùng vũ lực
    • 3. Dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật ch
    • 4. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ l