Đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới và sự vận dụng vào đường lối đối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay |Tiểu luận các đảng chính trị trên thế giới

Khái niệm liên quan đến đề tài. Tầm quan trọng của phát triển kinh tế đối với mỗi quốc gia. Nội dung đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kì đổi mới. Thực trạng của việc vận dụng vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
------------------------
TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN TRUNG QUỐC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ VẬN
DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên : TS. Đỗ Minh Tuấn
Sinh viên : Bùi Hoàng Mai Chi
Mã sinh viên : 2052020006
Lớp : XDĐ & CQNN K40
Hà Nội - 2022
HỌC VIỆN BÁO CHÍ
TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
BÙI HOÀNG MAI CHI
ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN TRUNG QUỐC TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HIỆN NAY
Lớp : XDĐ & CQNN K40
Mã sinh viên : 2052020006
Tiểu luận môn: CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI
Hà Nội - 2022
MỤC LỤC
Đề mục Trang
Lời nói đầu 1
PHẦN NỘI DUNG 3
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 3
1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài 3
1.1.1. Khái niệm về phát triển kinh tế và chính sách phát triển kinh tế
1.2. Tầm quan trọng của phát triển kinh tế đối với mỗi quốc gia 4
1.3. Nội dung đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc
trong thời kì đổi mới
1.3.1. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong thời kì đổi mới
1.3.2. Những thành tựu đạt được từ phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản
Trung Quốc
CHƯƠNG II : SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH
TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
6
2.1. Thực trạng của việc vận dụng vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay
6
2.1.1 Ưu điểm 14
2.1.2 Hạn chế
2.1.3 Nguyên nhân hạn chế
CHƯƠNG III : PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ VẬN
DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
20
Phương hướng và giải pháp nâng cao sự vận dụng vào đường lối phát triển
kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam
20
KẾT LUẬN 26
Lời cảm ơn 27
Danh mục tài liệu tham khảo 28
LỜI NÓI ĐẦU
Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định tầm nhìn
thế giới, kiên trì coi quan hệ với các chính đảng nước ngoài là bộ phận cấu thành
1
quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp của Đảng. những thời kỳ lịch sử khác
nhau, công tác phát triển kinh tế có sứ mệnh lịch sử khác nhau.
Trong thời kỳ tiến hành cách mạng dân chủ, Đảng Cộng sản Trung Quốc
kiên định đứng trong Quốc tế cộng sản, thực hiện giao lưu kinh tế hợp tác
chặt chẽ với các đảng cộng sản, công nhân quốc tế, đồng thời quan hệ mật
thiết với các lực lượng tiến bộ quốc tế, với các nhân tiến bộ của các nước, từ
đó giành được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới cả về tinh thần và vật chất. Sự ủng hộ đó đã đóng vai trò rất tích cực trong
quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Trung Quốc, góp phần đưa cách mạng
Trung Quốc đến thành công.
Hiện nay lợi ích kinh tế và đối ngoại của Trung Quốc đang mở rộng ra toàn
cầu trong hơn 1 thập kỉ vừa qua chứ không còn giới hạn trong phạm vi khu vực.
Kinh tế của Trung Quốc đang ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế hầu như tất cả
các mức độ của hệ thống toàn cầu. các chính sách kinh tế của Trung Quốc
hiện đang ảnh hưởng tới nhận thức, các mối quan hệ, các thể chế tiến trình
của quốc tế.
Cùng với đó, mặc một nước nhỏ hơn so với Trung Quốc nhưng Việt
Nam ta cũng những đường lối phát triển kinh tế phù hợp đột phá trong
chính sách kinh tế của Việt Nam trênsở tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; luôn thể hiện
là một đối tác tin cậythành viên tích cực, trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế đã tạo niềm tin và uy tín của Việt Nam đối với bạn bè và các đối tác trên
thế giới.
Đường lối phát triển kinh tế đối với mỗi một quốc gia điều cực quan
trọng, vậy em chọn đề tài “Đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng
sản Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới sự vận dụng vào đường lối đối
phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” làm bài thi tiểu
luận kết thúc học phần. Đề tài chủ yếu đi sâu vào những kiến thức về mặt lý luận
cũng như thực tiễn của đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc
Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua những nội dung đó nâng cao kiến thức sự
2
hiểu biết về những chiến lược công cụ giao thương của Trung Quốc, nêu ra
những thành tựu nổi bật và mặt hạn chế còn tồn đọng, từ đó rút ra bài học và vận
dụng vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam.
Mục đích em chọn đề tài này để tìm hiểu những đường lối, chính sách kinh
tế của Trung Quốc sử dụng nhằm mục tiêu thực hiện các quan hệ quốc tế, thúc
đẩy phát triển kinh tế, hội. Ngoài ra, cũng nêu lên mặt ưu điểm hạn chế
trong đường lối kinh tế của Việt Nam sau 35 năm đổi mới, từ những hạn chế đó
rút ra phương hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển
kinh tế của nước ta giai đoạn hiện nay.
Về bố cục, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì
tiểu luận bao gồm 3 chương
Chương I : Cơ sở lý luận của đề tài
Chương II : Sự vận dụng vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay
Chương III : Phương hướng và giải pháp nâng cao sự vận dụng vào đường
lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam
3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm về phát triển kinh tế và chính sách phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế quá trình chuyển đổi kinh tế liên quan đến việc chuyển
biến cơ cấu của nền kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa, tăng tổng sản
phẩm trong nước và thu nhập đầu người.
Để thể thúc đẩy quá trình chuyển đổi, đầu bản một yếu tố bản,
quan trọng và chủ yếu. Bởi đầu tư một mặt làm tăng năng lực sản xuất hàng hóa
và dịch vụ của nền kinh tếnăng suất sử dụng nguồn lực. Mặt khác, đầu tư
bản còn làm tăng tổng cung cầu và thu nhập quốc dân. Sự gia tăng múc thu nhập
quốc dân làm tăng quá trình tích lũy tư bản.
Bên cạnh đó, khi nhắc đến phát triển kinh tế chúng ta không thể nhắc đến quá
trình công nghiệp hóa. Điều này tạo nên sự khác biệt giữa quốc gia phát triển và
quốc gia đang phát triển. Hầu hết các quốc gia đang phát triển đặc trưng bởi nền
sản xuất tự cấp tự túc, chủ yếu là nông nghiệp và mức thu nhập đầu người thấp.
Ngược lại, các quốc gia phát triển lại phát triển mạnh về công nghiệp, mức thu
nhập đầu người cao.
Chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế là kế hoạch hành động nhằm sản xuất, lưu thông, phân phối,
tiêu thụ hàng hóa, của cải trong hội hay hiểu một cách đơn giản hơn, chính
sách kinh tế là chính sách tạo ra của cải làm giàu cho xã hội.
4
1.2. Tầm quan trọng của phát triển kinh tế đối với mỗi quốc gia
Chức năng phân bổ: Chính Phủ xây dựng chính sách để giải quyết các
vấn đề về phân bổ ngân sách.
Chức năng ổn định: Chính sách kinh tế giúp kiểm soát lãi suất lạm
phát.
– Chức năng phân phối: Đây là chức năng của chính sách kinh tế liên quan
trực tiếp đến thuế. Đó khi Chính Phủ xây dựng chính sách thuế phù hợp với
từng tầng lớp kinh tế và những lĩnh vực khác nhau.
Đối với Việt Nam
Thứ nhất, đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu
khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực
cần nhiều vốn đầu tư, hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh
vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu
hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu lớn, công
nghệ cao tựrất khó phát triển. Trong điều kiện các quan
hệ thị trường mới được phát triển, khu vực nhân còn nhỏ bé,
chưa khả năng đầu lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu
phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực
mới này. Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà
nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn vai trò đầu
tàu, dẫn dắt thể hiện chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ
sức tham gia khả năng tham gia hiệu quả, Nhà nước
kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện
vai trò của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.
Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh
tranh. Khi khu vực nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải
5
trực tiếp tham gia đầu phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn
trong giai đoạn đầu. Khi khu vực nhân lớn mạnh dần, KTNN
dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu về lâu dài, KTNN thể
không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.
Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo
ở hai nội dung cơ bản sau:
1- Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến
quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa khí,
trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...).
2- Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ
vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh
tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện;
khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩmkhí,
điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt,
sân bay,...). , về mặt hội, do bản chất về mặt sởThứ
hữu mục đích hoạt động, KTNN vai trò quan trọng
trong gánh vác chức năng hội. Vai trò này thể hiện
chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành những địa bàn
khó khăn ý nghĩa chính trị - hội nhân không
muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu
phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất
hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an
sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...
1.3. Nội dung đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong thời kì đổi mới
Tổng quan phát triển kinh tế của Trung Quốc
6
Từ một nước gặp rất nhiều khó khăn vào năm 1949, đến nay, Trung Quốc đã
vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới; vị thế quốc tế không ngừng
được nâng cao; Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng 189 lần; tổng lượng
thương mại đứng đầu thế giới; đối tác thương mại lớn nhất của 130 nền kinh
tế; đóng góp khoảng 30% cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu; GDP bình quân đầu
người tăng hơn 70 lần.
Cùng với đó, Trung Quốc đạt nhiều thành tựu nổi bật về khoa học công nghệ:
đưa người lên trụ xây dựng trạm không gian Thiên Cung; tàu thămvũ trụ
đáp thành công lên bề mặt Sao Hỏa; đưa vào sử dụng hệ thống định vị vệ tinh
Bắc Đẩu phủ sóng toàn cầu, công nghệ đường sắt cao tốc dẫn đầu thế giới với
tổng chiều dài đạt 37.900km…
Trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ thương mại đang xu hướng gia tăng, việc
thiết lập chế thương mại đa phương gặp nhiều khó khăn, xu thế toàn cầu hóa
kinh tế gặp những trở ngại nhất định, Trung Quốc chủ trương tiếp tục mở cửa
nền kinh tế, nỗ lực tham gia quản trị kinh tế toàn cầu thông qua các chế đa
phương cũng như sáng kiến khu vực quốc tế, tích cực thúc đẩy xây dựng
quan hệ đối tác toàn cầu.
Kinh tế Trung Quốc hiện một trong những đầu tàu của nền kinh tế thế giới,
đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đã và đang tác động nặng nề tới các
nền kinh tế làm đứt gãy chuỗi cung ứng, Trung Quốc đã nhanh chóng kiểm
soát tốt dịch bệnh, trở thành nền kinh tế lớn duy nhất trên thế giới đạt tốc độ
tăng trưởng dương trong năm 2020; thực hiện thắng lợi cuộc chiến xóa đói giảm
nghèo toàn diện; hoàn thành đúng hạn mục tiêu “100 năm” lần thứ nhất, xây
dựng toàn diện xã hội khá giả.
Các giai đoạn phát triển kinh tế
7
-Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu
thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang
“lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa
hội chủ nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc
“khoán ruộng đất”, “phát triển nghiệp hương trấn” nông thôn, sau đó tiến
hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành
phố, tiến hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường.
Việc xây dựng các đặc khu kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công.
SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối
với trong ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước
đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch thị trường. Những năm 1984 - 1991, cải
cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cảthen chốt trong toàn bộ
cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế (1979 - 1991), Trung
Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận chế thị trường, sửa
chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.
-Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường hội chủ nghĩa
(1992 - 2002)
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi
to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng
sản ở các nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều
nước tiến hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm
chủ thể, nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân
phối thu nhập, lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan
tâm tới công bằng, khuyến khích một số vùng, một số người giàulên trước,
8
đi con đường cùng giàu có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm
1997) đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.
-Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường hội chủ nghĩa
(2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu
Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa
toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu
Chu Giang với nòng cốt Quảng Châu, Thâm Quyến được coi cực tăng
trưởng thứ nhất của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách,
mở cửa với việc xây dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ
Môn). Tiếp đó, từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven
biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng
Phố Đông, coi đây “đầu tàu” lôi kéo kết nối các điểm tăng trưởng hạ lưu
sông Trường Giang ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố Đông (Thượng
Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc. Ngày 6-6-
2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở
cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa
Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền
các điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng
Khánh (Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây
(Phúc Kiến) cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo Trung Quốc.
Năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu
kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực
tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.
-Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay)
Ba lăng kính lịch sử của Trung Quốc được phản ánh hơn bằng ba ưu tiên
ngoại giao lâu dài: chủ quyền thống nhất lãnh thổ, phát triển kinh tế, vị thế
quốc tế và sự tôn trọng của quốc tế. Trong khi những lăng kính lịch sử tương đối
9
trừu tượng, những ưu tiên này cụ thể hơn thúc đẩy một cách ràng chính
sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
được thành lập năm 1949. Những lăng kính này không chỉ hiện tượng hậu
1978. Biểu hiện chính sách cụ thể của ba ưu tiên này trọng tâm tương ứng
của giới lãnh đạo đã thay đổi rất nhiều trong hơn 25 năm qua sẽ còn tiếp tục
làm thay đổi. Trong khi chính sách đối ngoại của Mao Trạch Đông nhấn mạnh
vào chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và vị thế (giữa các ý kiến cải cách khác) trong
thời kỳ cải cách, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ràng kiên định đặt ưu
tiên phát triển kinh tế quốc gia trong các quan hệ đối ngoại của Trung Quốc.
Vị thế quốc tế- thành tựu
Sau gần hai nhiệm kỳ, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành quốc gia giàu
nhất thế giới, với tài sản ròng lên tới 120 nghìn tỷ USD vào năm 2020, so với 90
nghìn tỷ của Mỹ. Vượt lên là nền kinh tế có quy mô GDP lớn thứ 2 thế giới.
một phần quan trọng của “Giấc mộng Trung Hoa”, Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình đề ra mục tiêu đưa Trung Quốc bước vào “xã hội khá giả” năm 2021 -
nhân kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCS Trung Quốc trở thành quốc gia hiện
đại toàn diện vào năm 2049 - nhân kỷ niệm 100 năm thành lập nước CHND
Trung Hoa.
Kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCS Trung Quốc vừa qua, Trung Quốc tuyên bố
thực hiện thành công xoá nghèo tuyệt đối và bản bước vào “xã hội khá giả”.
Theo đó, Trung Quốc cho rằng 10 năm qua, gần 100 triệu người đã thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, đồng thời ca ngợi đây là một “chiến thắng toàn diện” và sẽ
“đi vào lịch sử”.
Từ 2012 đến nay kinh tế Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu. Tốc độ phát
triển cả giai đoạn đạt tăng trưởng cao giao động từ 6,5 - 9%. Theo đó GDP từ
8000 tỷ USD (2011) tăng lên 16.640 tỷ USD (2021). Nhất giai đoạn 2013 -
2018, tốc đô tăng trưởng bình quân GDP của Trung Quốc trong giai đoạn
10
7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền
kinh tế đang phát triển 4%. Mức đóng góp trung bình của Trung Quốc vào
tăng trưởng kinh tế thế giới khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia
cao hơn cả mức đóng góp của Mỹ, EU Nhật Bản(4). GDP của Trung Quốc
năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4 năm mục tiêu GDP năm
2020, tăng gấp 4 lần năm 2000.
Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ
6.316USD/người năm 2012 lên 8.147 USD/người năm 2016 10.500
USD/người năm 2020, tỷ lệ tăng hằng năm 7,4%. Số người nghèo nông
giảm mạnh, còn mức trên 20 triệu người nghèo. Mạng lưới an sinh hội đã
được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu
dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.
Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương
thức phát triển kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu phát triển
(R&D) đã tăng 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ
chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (giai đoạn 2016 -
2020). Số lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà Trung Quốc nhận 69% kể từ
năm 2012 và luôn đứng đầu thế giới trong những năm gần đây.
Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về
doanh số bán rô-bốt công nghiệp. Cường quốc rô-bốt sẽ một nhiệm vụ chiến
lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến lược “Made in China 2025”. Năm
2016, Trung Quốc đầu cho R&D 1.567,67 tỷ NDT không ngừng tăng
lên. Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO
trên thế giới (phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu), Trung Quốc 18
doanh nghiệp. Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học
công nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành,
11
như máy tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạmtrụ Thiên Cung, máy lặn
Giao Long, máy bay vận tải cỡ lớn…
Về kinh tế đối ngoại, thống cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc
năm 2020 đã lên mức cao nhất mọi thời đại, đạt 2,6 nghìn tỷ USD. Bất chấp hệ
quả từ thương chiến Mỹ Trung, thặng thương mại của Trung Quốc với Mỹ
đạt đỉnh 13,6 tỷ USD trong năm. Thị phần xuất khẩu của Trung Quốc trên toàn
cầu tăng lên mức kỷ lục 14,3%. Chiến lược “Vành đai và Con đường” (BRI) cho
tới nay đã có sự tham gia của 65 quốc gia và vùng lãnh thổ,vai trò đối trọng
với các định chế đa phương hiện do Mỹ cầm trịch. Dự án này thậm chí còn
được đưa vào hiến pháp vào năm 2017. Song song với BRI, Trung Quốc không
ngừng hợp thức hoáthể chế hoá các chiến lược nâng tầm ảnh hưởng quốc tế
thông qua các sáng kiến về “Con đường tơ lụa y tế”, “Con đường tơ lụa kỹ thuật
số”… Những thành công của Trung Quốc về kinh tế, hội vị thế kể trên,
cộng với hiệu quả phòng chống dịch Covid-19 trong tương quan so sánh với các
hội phát triển như Mỹ châu Âu đã khiến người dân tin tưởng hơn vào
Chính phủ.
12
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI ĐỐI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của việc vận dụng vào đường lối phát triển kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
2.1.1. Ưu điểm
Một là, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững
yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Phát triển nhanh bền vững phải luôn
gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch chính sách phát triển kinh tế -
hội. Để phát triển bền vững về kinh tế, cần giữ vững ổn định kinh tế mô,
bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh chuyển dịch cấu kinh tế, chuyển đổi
hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên
hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ công bằng hội;
nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế -
hội phải luôn đi cùng với bảo vệ cải thiện môi trường. Đặc biệt quan tâm
giữ vững ổn định chính trị - hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho
đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Hai là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Kiên trì quyết liệt thực hiện đổi mới. Ðổi mới trong lĩnh vực chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế 2 kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, mở rộng
dân chủ trong Ðảng trong hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để
thúc đẩy đổi mới toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Coi
việc thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hội chủ nghĩa dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá
hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển.
13
Ba là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phải bảo đảm quyền con
người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện.
Nâng cao năng lựctạo chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ,
nhất dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo bảo
đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Phát huy lợi
thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chăm lo
lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi
người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Bốn là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ
ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất thể chế kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa. Phải tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện
thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng
dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển. Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế các loại hình
doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà
nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướngđiều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế mô,
tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh
ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện chế quản
phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội.
Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát huy nội lực sức mạnh dân tộc
yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lựcsức mạnh thời đại yếu tố
quan trọng để phát triển nhanh, bền vững xây dựng nền kinh tế độc lập tự
14
chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế sức mạnh tổng hợp của
đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng hiệu quả. Trong
hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình
hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
2.1.2. Hạn chế, bất cập
Có mặt chưa chủ động và hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp đồng bộ,
hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập
quốc tế. Trong nhận thức chỉ đạo thực tiễn lúc chưa theo kịp những
chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Sự phối hợp, kết
hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu chặt chẽ. Công tác nghiên cứu
chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế.
Tuy nhiên, các hạn chế trong công tác đối ngoại nổi lên qua các điểm
chính sau :
Một là, thời gian qua trong một số vấn đề, ở một số thời điểm nhận thức
của chúng ta không theo kịp tình hình. Chúng ta đã không lường hết được những
diễn biến phức tạp, nhanh chóng trong chính sách và quan hệ của các nước lớn,
nhất là của Mỹ và quan hệ Mỹ - Trung. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu
do các yếu tố khách quan, do tình hình thế giới, khu vực biến động rất phức
tạp, khó lường. Nhưng công tác nghiên cứu đánh giá tình hình dự báo chiến
lược vẫn chưa được như mong muốn.
Hai là, việc triển khai đường lối và chính sách đối ngoại trong thực tiễn
vẫn chưa mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện. Việc tạo đan xen lợi ích, đưa quan hệ
đi vào chiều sâu, xây dựng các khuôn khổ quan hệ thực chất hiệu quả, triển
khai các thỏa thuận đã kết thực chất, tham gia tận dụng các thể chế đa
phương, nhất ASEAN để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Việt Nam vẫn còn chưa
được như mong muốn. Sự tham gia của các bộ ngành địa phương vào công
tác đối ngoại còn chưa đồng đều.
15
Ba là, một số chủ trương,chế, chính sách chậm được đổi mới so với
yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ thống luật pháp chưa,
hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của
các tổ chức quốc tế, chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể dài hạn về
hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
Bốn là, doanh nghiệp nước ta hầu hết quy nhỏ, yếu về quản
công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu;
kết cấu hạ tầng các ngành dịch vụ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều
kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.
Năm là, chất lượng hiệu quả quan hệ với một số đối tác chưa cao.
Nhiều tổ chức đoàn thể nhân dân còn thụ động, chưa tích cực kết nối, phát triển
quan hệ với các đối tác truyền thống, nghiên cứu mở rộng hợp tác với đối tác
mới. Một số hoạt động đối ngoại nhân dân còn thiếu chiều sâu, nội dung và hình
thức chưa đổi mới, sáng tạo, các yếu tố chính trị, đối ngoại chưa được quan tâm
đúng mức.
Sáu là, tinh thần chủ động tham gia hội nhập quốc tế của các đoàn thể và
tổ chức thực hiện chức năng đối ngoại nhân dân ta chưa cao. Sự tham gia tại các
cơ chế, diễn đàn nhân dân đa phương khu vực và quốc tế mới chỉ tập trung ở các
lực lượng nòng cốt, năng lực chưa đồng đều. Công tác vận động, tranh thủ
nguồn lực hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ còn thiếu chủ
động, sáng tạo, đột phá, chưa thiết lập được nhiều quan hệ đối tác mới hiệu
quả cao phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảy là, năng lực nghiên cứu tham mưu chiến lược còn hạn chế. Thông
tin đối ngoại chưanhiều sản phẩm thông tin đối ngoại hấp dẫn, đáp ứng nhu
cầu thông tin của các đối tượng, chưa khai thác hiệu quả các phương tiện truyền
thông mới. Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài còn hạn chế, chưa
16
thu hút được sự tham gia đông đảo của con người Việt Nam vào các hoạt
động đối ngoại nhân dân.
Tám là, sự phối hợp liên ngành giữa các kênh đối ngoại, giữa Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức nhân dân, giữa Trung ương địa phương
chưa thực sự chủ động, thường xuyên, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng làm đối ngoại nhân dân.
Chín là, nguồn lực cho đối ngoại nhân dân chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhân dân còn
nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng, nhiều tổ chức nhân dân không có bộ
phận chuyên trách đối ngoại. Cán bộ doanh nghiệp còn ít hiểu biết về pháp luật
quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
2.1.3. Nguyên nhân hạn chế, bất cập
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất nhận thức về bản chất nguyên tắc vận hành
của kinh tế thị trường định hướnghội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng
bộ, thiếu nhất quán những bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, ràng,
minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp,
khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa
công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình
đẳng hội, tệ nạn hội chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất tinh
17
thần của một bộ phân dân cư, nhấtnông dân nông thôn, vùng sâu, vùng xa
chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền
kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức lúc, có nơi bị
xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi
trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống
hội.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ hiệu quả hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên
nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng
cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”(12). “Tập trung ưu tiên hoàn
thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu kinh doanh thuận lợi, lành mạnh,
công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực cho phát triển, nhất đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”(13).
18
| 1/25

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG ------------------------ TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI ĐỀ TÀI:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN TRUNG QUỐC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ VẬN
DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY Giảng viên : TS. Đỗ Minh Tuấn Sinh viên : Bùi Hoàng Mai Chi Mã sinh viên : 2052020006 Lớp : XDĐ & CQNN K40 Hà Nội - 2022
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG TUYÊN TRUYỀN BÙI HOÀNG MAI CHI
ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN TRUNG QUỐC TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Lớp : XDĐ & CQNN K40
Mã sinh viên : 2052020006
Tiểu luận môn: CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI Hà Nội - 2022 MỤC LỤC Đề mục Trang Lời nói đầu 1 PHẦN NỘI DUNG 3
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 3 1.1.
Khái niệm liên quan đến đề tài 3
1.1.1. Khái niệm về phát triển kinh tế và chính sách phát triển kinh tế 1.2.
Tầm quan trọng của phát triển kinh tế đối với mỗi quốc gia 4
1.3. Nội dung đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kì đổi mới
1.3.1. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong thời kì đổi mới
1.3.2. Những thành tựu đạt được từ phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc
CHƯƠNG II : SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH 6
TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của việc vận dụng vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng 6
Cộng sản Việt Nam hiện nay 2.1.1 Ưu điểm 14 2.1.2 Hạn chế
2.1.3 Nguyên nhân hạn chế
CHƯƠNG III : PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ VẬN
DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG 20 SẢN VIỆT NAM
Phương hướng và giải pháp nâng cao sự vận dụng vào đường lối phát triển 20
kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam KẾT LUẬN 26 Lời cảm ơn 27
Danh mục tài liệu tham khảo 28 LỜI NÓI ĐẦU
Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định tầm nhìn
thế giới, kiên trì coi quan hệ với các chính đảng nước ngoài là bộ phận cấu thành 1
quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp của Đảng. Ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau, công tác phát triển kinh tế có sứ mệnh lịch sử khác nhau.
Trong thời kỳ tiến hành cách mạng dân chủ, Đảng Cộng sản Trung Quốc
kiên định đứng trong Quốc tế cộng sản, thực hiện giao lưu kinh tế và hợp tác
chặt chẽ với các đảng cộng sản, công nhân quốc tế, đồng thời có quan hệ mật
thiết với các lực lượng tiến bộ quốc tế, với các nhân sĩ tiến bộ của các nước, từ
đó giành được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới cả về tinh thần và vật chất. Sự ủng hộ đó đã đóng vai trò rất tích cực trong
quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Trung Quốc, góp phần đưa cách mạng
Trung Quốc đến thành công.
Hiện nay lợi ích kinh tế và đối ngoại của Trung Quốc đang mở rộng ra toàn
cầu trong hơn 1 thập kỉ vừa qua chứ không còn giới hạn trong phạm vi khu vực.
Kinh tế của Trung Quốc đang ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế ở hầu như tất cả
các mức độ của hệ thống toàn cầu. Và các chính sách kinh tế của Trung Quốc
hiện đang ảnh hưởng tới nhận thức, các mối quan hệ, các thể chế và tiến trình của quốc tế.
Cùng với đó, mặc dù là một nước nhỏ hơn so với Trung Quốc nhưng Việt
Nam ta cũng có những đường lối phát triển kinh tế phù hợp và đột phá trong
chính sách kinh tế của Việt Nam trên cơ sở tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; luôn thể hiện
là một đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế đã tạo niềm tin và uy tín của Việt Nam đối với bạn bè và các đối tác trên thế giới.
Đường lối phát triển kinh tế đối với mỗi một quốc gia là điều cực kì quan
trọng, vì vậy em chọn đề tài “Đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng
sản Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới và sự vận dụng vào đường lối đối
phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” làm bài thi tiểu
luận kết thúc học phần. Đề tài chủ yếu đi sâu vào những kiến thức về mặt lý luận
cũng như thực tiễn của đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Trung Quốc và
Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua những nội dung đó nâng cao kiến thức và sự 2
hiểu biết về những chiến lược và công cụ giao thương của Trung Quốc, nêu ra
những thành tựu nổi bật và mặt hạn chế còn tồn đọng, từ đó rút ra bài học và vận
dụng vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam.
Mục đích em chọn đề tài này để tìm hiểu những đường lối, chính sách kinh
tế của Trung Quốc sử dụng nhằm mục tiêu thực hiện các quan hệ quốc tế, thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Ngoài ra, cũng nêu lên mặt ưu điểm và hạn chế
trong đường lối kinh tế của Việt Nam sau 35 năm đổi mới, từ những hạn chế đó
rút ra phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển
kinh tế của nước ta giai đoạn hiện nay.
Về bố cục, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì
tiểu luận bao gồm 3 chương
Chương I : Cơ sở lý luận của đề tài
Chương II : Sự vận dụng vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Chương III : Phương hướng và giải pháp nâng cao sự vận dụng vào đường
lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam 3 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm về phát triển kinh tế và chính sách phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là quá trình chuyển đổi kinh tế có liên quan đến việc chuyển
biến cơ cấu của nền kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa, tăng tổng sản
phẩm trong nước và thu nhập đầu người.
Để có thể thúc đẩy quá trình chuyển đổi, đầu tư tư bản là một yếu tố cơ bản,
quan trọng và chủ yếu. Bởi đầu tư một mặt làm tăng năng lực sản xuất hàng hóa
và dịch vụ của nền kinh tế và năng suất sử dụng nguồn lực. Mặt khác, đầu tư tư
bản còn làm tăng tổng cung cầu và thu nhập quốc dân. Sự gia tăng múc thu nhập
quốc dân làm tăng quá trình tích lũy tư bản.
Bên cạnh đó, khi nhắc đến phát triển kinh tế chúng ta không thể nhắc đến quá
trình công nghiệp hóa. Điều này tạo nên sự khác biệt giữa quốc gia phát triển và
quốc gia đang phát triển. Hầu hết các quốc gia đang phát triển đặc trưng bởi nền
sản xuất tự cấp tự túc, chủ yếu là nông nghiệp và mức thu nhập đầu người thấp.
Ngược lại, các quốc gia phát triển lại phát triển mạnh về công nghiệp, mức thu nhập đầu người cao.
Chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế là kế hoạch hành động nhằm sản xuất, lưu thông, phân phối,
tiêu thụ hàng hóa, của cải trong xã hội hay hiểu một cách đơn giản hơn, chính
sách kinh tế là chính sách tạo ra của cải làm giàu cho xã hội. 4
1.2. Tầm quan trọng của phát triển kinh tế đối với mỗi quốc gia
– Chức năng phân bổ: Chính Phủ xây dựng chính sách để giải quyết các
vấn đề về phân bổ ngân sách.
– Chức năng ổn định: Chính sách kinh tế giúp kiểm soát lãi suất và lạm phát.
– Chức năng phân phối: Đây là chức năng của chính sách kinh tế liên quan
trực tiếp đến thuế. Đó là khi Chính Phủ xây dựng chính sách thuế phù hợp với
từng tầng lớp kinh tế và những lĩnh vực khác nhau. Đối với Việt Nam
Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu
khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực
cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh
vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu
hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công
nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện các quan
hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé,
chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu
phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực
mới này. Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà
nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu
tàu, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ
sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả, Nhà nước
kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện
vai trò của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.
Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh
tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải 5
trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn
trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN
dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể
không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.
Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo
ở hai nội dung cơ bản sau:
1- Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến
quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí,
trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...).
2- Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ
vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh
tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện;
khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí,
điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt,
sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở
hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng
trong gánh vác chức năng xã hội. Vai trò này thể hiện ở
chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn
khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không
muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư
phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất
hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an
sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...
1.3. Nội dung đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong thời kì đổi mới
Tổng quan phát triển kinh tế của Trung Quốc 6
Từ một nước gặp rất nhiều khó khăn vào năm 1949, đến nay, Trung Quốc đã
vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới; vị thế quốc tế không ngừng
được nâng cao; Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng 189 lần; tổng lượng
thương mại đứng đầu thế giới; là đối tác thương mại lớn nhất của 130 nền kinh
tế; đóng góp khoảng 30% cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu; GDP bình quân đầu người tăng hơn 70 lần.
Cùng với đó, Trung Quốc đạt nhiều thành tựu nổi bật về khoa học công nghệ:
đưa người lên vũ trụ xây dựng trạm không gian Thiên Cung; tàu thăm dò vũ trụ
đáp thành công lên bề mặt Sao Hỏa; đưa vào sử dụng hệ thống định vị vệ tinh
Bắc Đẩu phủ sóng toàn cầu, công nghệ đường sắt cao tốc dẫn đầu thế giới với
tổng chiều dài đạt 37.900km…
Trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ thương mại đang có xu hướng gia tăng, việc
thiết lập cơ chế thương mại đa phương gặp nhiều khó khăn, xu thế toàn cầu hóa
kinh tế gặp những trở ngại nhất định, Trung Quốc chủ trương tiếp tục mở cửa
nền kinh tế, nỗ lực tham gia quản trị kinh tế toàn cầu thông qua các cơ chế đa
phương cũng như sáng kiến khu vực và quốc tế, tích cực thúc đẩy xây dựng
quan hệ đối tác toàn cầu.
Kinh tế Trung Quốc hiện là một trong những đầu tàu của nền kinh tế thế giới,
đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đã và đang tác động nặng nề tới các
nền kinh tế và làm đứt gãy chuỗi cung ứng, Trung Quốc đã nhanh chóng kiểm
soát tốt dịch bệnh, trở thành nền kinh tế lớn duy nhất trên thế giới đạt tốc độ
tăng trưởng dương trong năm 2020; thực hiện thắng lợi cuộc chiến xóa đói giảm
nghèo toàn diện; hoàn thành đúng hạn mục tiêu “100 năm” lần thứ nhất, xây
dựng toàn diện xã hội khá giả.
Các giai đoạn phát triển kinh tế 7
-Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu
thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang
“lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã
hội chủ nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc
“khoán ruộng đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến
hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành
phố, tiến hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường.
Việc xây dựng các đặc khu kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công.
SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối
với trong và ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước
đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những năm 1984 - 1991, cải
cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt trong toàn bộ
cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế (1979 - 1991), Trung
Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa
chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.
-Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992 - 2002)
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi
to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng
sản ở các nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều
nước tiến hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm
chủ thể, nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân
phối thu nhập, lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan
tâm tới công bằng, khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, 8
đi con đường cùng giàu có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm
1997) đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.
-Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu
Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa
toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu
Chu Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng
trưởng thứ nhất của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách,
mở cửa với việc xây dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ
Môn). Tiếp đó, từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven
biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng
Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết nối các điểm tăng trưởng hạ lưu
sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố Đông (Thượng
Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc. Ngày 6-6-
2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở
cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa
Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền
các điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng
Khánh (Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây
(Phúc Kiến) cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc.
Năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu
kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực
tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.
-Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay)
Ba lăng kính lịch sử của Trung Quốc được phản ánh rõ hơn bằng ba ưu tiên
ngoại giao lâu dài: chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, phát triển kinh tế, vị thế
quốc tế và sự tôn trọng của quốc tế. Trong khi những lăng kính lịch sử tương đối 9
trừu tượng, những ưu tiên này cụ thể hơn và thúc đẩy một cách rõ ràng chính
sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
được thành lập năm 1949. Những lăng kính này không chỉ là hiện tượng hậu
1978. Biểu hiện chính sách cụ thể của ba ưu tiên này và trọng tâm tương ứng
của giới lãnh đạo đã thay đổi rất nhiều trong hơn 25 năm qua và sẽ còn tiếp tục
làm thay đổi. Trong khi chính sách đối ngoại của Mao Trạch Đông nhấn mạnh
vào chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và vị thế (giữa các ý kiến cải cách khác) trong
thời kỳ cải cách, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rõ ràng và kiên định đặt ưu
tiên phát triển kinh tế quốc gia trong các quan hệ đối ngoại của Trung Quốc.
Vị thế quốc tế- thành tựu
Sau gần hai nhiệm kỳ, Trung Quốc đã vượt Mỹ và trở thành quốc gia giàu có
nhất thế giới, với tài sản ròng lên tới 120 nghìn tỷ USD vào năm 2020, so với 90
nghìn tỷ của Mỹ. Vượt lên là nền kinh tế có quy mô GDP lớn thứ 2 thế giới. Là
một phần quan trọng của “Giấc mộng Trung Hoa”, Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình đề ra mục tiêu đưa Trung Quốc bước vào “xã hội khá giả” năm 2021 -
nhân kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCS Trung Quốc và trở thành quốc gia hiện
đại toàn diện vào năm 2049 - nhân kỷ niệm 100 năm thành lập nước CHND Trung Hoa.
Kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCS Trung Quốc vừa qua, Trung Quốc tuyên bố
thực hiện thành công xoá nghèo tuyệt đối và cơ bản bước vào “xã hội khá giả”.
Theo đó, Trung Quốc cho rằng 10 năm qua, gần 100 triệu người đã thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, đồng thời ca ngợi đây là một “chiến thắng toàn diện” và sẽ “đi vào lịch sử”.
Từ 2012 đến nay kinh tế Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu. Tốc độ phát
triển cả giai đoạn đạt tăng trưởng cao giao động từ 6,5 - 9%. Theo đó GDP từ
8000 tỷ USD (2011) tăng lên 16.640 tỷ USD (2021). Nhất là giai đoạn 2013 -
2018, tốc đô ™ tăng trưởng bình quân GDP của Trung Quốc trong giai đoạn là 10
7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền
kinh tế đang phát triển là 4%. Mức đóng góp trung bình của Trung Quốc vào
tăng trưởng kinh tế thế giới khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia và
cao hơn cả mức đóng góp của Mỹ, EU và Nhật Bản(4). GDP của Trung Quốc
năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4 năm mục tiêu GDP năm
2020, tăng gấp 4 lần năm 2000.
Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ
6.316USD/người năm 2012 lên 8.147 USD/người năm 2016 và 10.500
USD/người năm 2020, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Số người nghèo ở nông
giảm mạnh, còn ở mức trên 20 triệu người nghèo. Mạng lưới an sinh xã hội đã
được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu
dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.
Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương
thức phát triển kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển
(R&D) đã tăng 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ
chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (giai đoạn 2016 -
2020). Số lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà Trung Quốc nhận 69% kể từ
năm 2012 và luôn đứng đầu thế giới trong những năm gần đây.
Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về
doanh số bán rô-bốt công nghiệp. Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến
lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến lược “Made in China 2025”. Năm
2016, Trung Quốc đầu tư cho R&D là 1.567,67 tỷ NDT và không ngừng tăng
lên. Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO
trên thế giới (phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu), Trung Quốc có 18
doanh nghiệp. Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học
công nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành, 11
như máy tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạm vũ trụ Thiên Cung, máy lặn
Giao Long, máy bay vận tải cỡ lớn…
Về kinh tế đối ngoại, thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc
năm 2020 đã lên mức cao nhất mọi thời đại, đạt 2,6 nghìn tỷ USD. Bất chấp hệ
quả từ thương chiến Mỹ Trung, thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ
đạt đỉnh 13,6 tỷ USD trong năm. Thị phần xuất khẩu của Trung Quốc trên toàn
cầu tăng lên mức kỷ lục 14,3%. Chiến lược “Vành đai và Con đường” (BRI) cho
tới nay đã có sự tham gia của 65 quốc gia và vùng lãnh thổ, có vai trò đối trọng
với các định chế đa phương hiện có do Mỹ cầm trịch. Dự án này thậm chí còn
được đưa vào hiến pháp vào năm 2017. Song song với BRI, Trung Quốc không
ngừng hợp thức hoá và thể chế hoá các chiến lược nâng tầm ảnh hưởng quốc tế
thông qua các sáng kiến về “Con đường tơ lụa y tế”, “Con đường tơ lụa kỹ thuật
số”… Những thành công của Trung Quốc về kinh tế, xã hội và vị thế kể trên,
cộng với hiệu quả phòng chống dịch Covid-19 trong tương quan so sánh với các
xã hội phát triển như Mỹ và châu Âu đã khiến người dân tin tưởng hơn vào Chính phủ. 12
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐƯỜNG LỐI ĐỐI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của việc vận dụng vào đường lối phát triển kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay 2.1.1. Ưu điểm
Một là, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là
yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn
gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế -
xã hội. Để phát triển bền vững về kinh tế, cần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên
hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế -
xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Đặc biệt quan tâm
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho
đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Hai là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Ðổi mới trong lĩnh vực chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế 2 kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng
dân chủ trong Ðảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để
thúc đẩy đổi mới toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Coi
việc thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá
hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển. 13
Ba là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phải bảo đảm quyền con
người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện.
Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ,
nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo
đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Phát huy lợi
thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chăm lo
lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi
người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Bốn là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ
ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện
thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng
dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển. Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà
nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô,
tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và
ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và
phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là
yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố
quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự 14
chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của
đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả. Trong
hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình
hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
2.1.2. Hạn chế, bất cập
Có mặt chưa chủ động và hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp đồng bộ,
hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập
quốc tế. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những
chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Sự phối hợp, kết
hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu chặt chẽ. Công tác nghiên cứu
chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế.
Tuy nhiên, các hạn chế trong công tác đối ngoại nổi lên qua các điểm chính sau :
Một là, thời gian qua trong một số vấn đề, ở một số thời điểm nhận thức
của chúng ta không theo kịp tình hình. Chúng ta đã không lường hết được những
diễn biến phức tạp, nhanh chóng trong chính sách và quan hệ của các nước lớn,
nhất là của Mỹ và quan hệ Mỹ - Trung. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu
là do các yếu tố khách quan, do tình hình thế giới, khu vực biến động rất phức
tạp, khó lường. Nhưng công tác nghiên cứu đánh giá tình hình và dự báo chiến
lược vẫn chưa được như mong muốn.
Hai là, việc triển khai đường lối và chính sách đối ngoại trong thực tiễn
vẫn chưa mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện. Việc tạo đan xen lợi ích, đưa quan hệ
đi vào chiều sâu, xây dựng các khuôn khổ quan hệ thực chất và hiệu quả, triển
khai các thỏa thuận đã ký kết thực chất, tham gia và tận dụng các thể chế đa
phương, nhất là ASEAN để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Việt Nam vẫn còn chưa
được như mong muốn. Sự tham gia của các bộ ngành và địa phương vào công
tác đối ngoại còn chưa đồng đều. 15
Ba là, một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với
yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ thống luật pháp chưa,
hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của
các tổ chức quốc tế, chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về
hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
Bốn là, doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu về quản lý và
công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu;
kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều
kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.
Năm là, chất lượng và hiệu quả quan hệ với một số đối tác chưa cao.
Nhiều tổ chức đoàn thể nhân dân còn thụ động, chưa tích cực kết nối, phát triển
quan hệ với các đối tác truyền thống, nghiên cứu mở rộng hợp tác với đối tác
mới. Một số hoạt động đối ngoại nhân dân còn thiếu chiều sâu, nội dung và hình
thức chưa đổi mới, sáng tạo, các yếu tố chính trị, đối ngoại chưa được quan tâm đúng mức.
Sáu là, tinh thần chủ động tham gia hội nhập quốc tế của các đoàn thể và
tổ chức thực hiện chức năng đối ngoại nhân dân ta chưa cao. Sự tham gia tại các
cơ chế, diễn đàn nhân dân đa phương khu vực và quốc tế mới chỉ tập trung ở các
lực lượng nòng cốt, năng lực chưa đồng đều. Công tác vận động, tranh thủ
nguồn lực hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ còn thiếu chủ
động, sáng tạo, đột phá, chưa thiết lập được nhiều quan hệ đối tác mới có hiệu
quả cao phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảy là, năng lực nghiên cứu tham mưu chiến lược còn hạn chế. Thông
tin đối ngoại chưa có nhiều sản phẩm thông tin đối ngoại hấp dẫn, đáp ứng nhu
cầu thông tin của các đối tượng, chưa khai thác hiệu quả các phương tiện truyền
thông mới. Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài còn hạn chế, chưa 16
thu hút được sự tham gia đông đảo của bà con người Việt Nam vào các hoạt
động đối ngoại nhân dân.
Tám là, sự phối hợp liên ngành giữa các kênh đối ngoại, giữa Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức nhân dân, giữa Trung ương và địa phương
chưa thực sự chủ động, thường xuyên, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng làm đối ngoại nhân dân.
Chín là, nguồn lực cho đối ngoại nhân dân chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhân dân còn
nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng, nhiều tổ chức nhân dân không có bộ
phận chuyên trách đối ngoại. Cán bộ doanh nghiệp còn ít hiểu biết về pháp luật
quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
2.1.3. Nguyên nhân hạn chế, bất cập
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng
bộ, thiếu nhất quán và những bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp,
khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa
công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình
đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh 17
thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa
chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền
kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị
xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi
trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên
nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng
cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”(12). “Tập trung ưu tiên hoàn
thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh,
công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”(13). 18