Gắn lý luận với thực tiễn trong công tác giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên
Gắn lý luận với thực tiễn trong công tác giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên học phần Triết học Mac-Lênin của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem!
Môn: Triết học Mac-Lenin & tư tưởng Hồ Chí Minh
Trường: Đại học Luật Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARc PSD|36215725
GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC
VÀ RÈN LUYỆN CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN
Nhận thức sâu sắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những
nhân tố quan trọng để đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hoàn thành tốt những
nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, từ quá trình chuẩn bị thành lập cho đến
khi Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
quan tâm đến vấn đề lý luận kết hợp thực tiễn. Người cho đó là một khâu quan trọng
trong công tác cán bộ và là một nhiệm vụ cần thiết để xây dựng Đảng luôn trong sạch vững mạnh.
1. Sự cần thiết phải có lý luận Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng
Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin- học thuyết cách mạng đúng đắn nhất, khoa học
nhất và tìm được lý luận tiên tiến soi đường, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Quảng
Châu- Trung Quốc, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của chính
Đảng kiểu mới ở Việt Nam. Cũng trong những năm tháng đó, một trong những nội
dung Người giảng cho những người yêu nước Việt Nam là phải nắm vững và không
ngừng nâng cao trình độ lý luận, đặc biệt là gắn liền lý luận với thực tiễn. Vì vậy, lời
của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động” đã được
in trang trọng ngay phần mở đầu của tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)- tác phẩm
kinh điển gối đầu của những người cách mạng Việt Nam.
Sau đó, chủ nghĩa Mác-Lênin vào được Việt Nam, tỏ rõ sức sống mãnh liệt,
được bổ sung và phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng chính là nhờ
Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người luôn đứng vững trên nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin, những người cộng sản Việt Nam còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý
luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
"Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của
các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều [1]. Tránh cả
hai loại giáo điều này, thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách
mạng nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lấy chủ nghĩa
Mác- Lênin làm kim chỉ nam, trở thành đội tiền phong của giai cấp công nhân và
của cả dân tộc. Trong suốt những năm lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách
mạng giải phóng đất nước “Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo
cách mạng trong cả nước mà còn giữ vững được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực” [2].
Tuy nhiên, trong quá trình Đảng ta cầm quyền, lãnh đạo toàn dân vừa bảo vệ
thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám 1945 và xây dựng chế độ xã hội mới, thì
đã xuất hiện những bất cập. Bên cạnh những thành tích rất đáng tự hào, cũng đã có
không ít những bài học đau lòng xảy ra trong thực tế. Đó là khi người cán bộ, đảng
viên phần lớn xuất thân từ nông dân và công nhân, chưa có điều kiện, thậm chí không
có điều kiện học tập, nghiên cứu đến nơi đến chốn, nên trình độ còn nhiều hạn chế.
Họ tuy nhiệt thành cách mạng, gương mẫu đi đầu, trưởng thành trong phong trào,
song sự yếu kém về trình độ, và thói quen “ít đọc sách và suy nghĩ” đã dẫn họ (với
trọng trách mình đang nắm giữ) mặc nhiên làm việc theo chủ nghĩa kinh nghiệm, lOMoARc PSD|36215725
đầy cảm tính. Họ coi lý luận là việc của những người lãnh đạo cấp cao, của các nhà
lý luận. Còn với họ, lý luận chỉ ràng buộc tư tưởng, gò bó hành động.
Thiếu hụt về trình độ văn hóa, yếu lý luận, đặc biệt là đuối kém trong việc nắm
bắt những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin đã khiến họ gặp phải không
ít khó khăn và lúng túng khi tiếp thu bản chất, tinh thần của những nguyên lý mác
xít này, đồng thời coi đó là những chân lý bất biến trong tư duy của mình. Từ đó dần
sa vào giáo điều, chủ quan duy ý chí, kinh nghiệm chủ nghĩa, dẫn đến hành động
một cách cứng nhắc, sai lầm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở rằng: muốn khẳng định và giữ vững vị
thế của một Đảng cầm quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải “có lý tưởng,
có tinh thần thiết thực và công tác thực tế hợp lại mới là người đảng viên tốt” [3].
Muốn đạt được điều đó, phải học, làm nghề gì cũng phải học, vì “cách mạng tiến lên
mãi, Đảng tiến lên mãi”. Lý luận khoa học mà Người nắm vững, vận dụng một cách
sáng tạo và điều kiện cụ thể của Việt Nam và luôn mong mọi cán bộ, đảng viên được
trang bị, thấm nhuần chính là lý luận Mác- Lênin, lý luận cách mạng nhất, thiết thực
nhất chỉ đạo mọi hành động.
Chăm lo đến công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ lý luận, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như
cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không
có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" [4]. Người cũng nói: "Làm mà không
có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp"
nên nhấn mạnh cán bộ, đảng viên cần nhớ: “Học chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái
tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn” [5].
Cũng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trang bị lý luận Mác- Lênin cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên là yêu cầu cần thiết, vì trong chiến tranh hay trong hòa
bình, lý luận cũng giúp người cán bộ, đảng viên nắm cái tinh thần và nguyên tắc xử
trí đối với công việc, đồng thời giúp mọi người sống tình nghĩa với nhau. Tháng
6/1968, khi làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn TƯ Đảng về xuất bản loại
sách người tốt việc tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn căn dặn: Hiểu chủ nghĩa MácLênin
là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác Lênin được. Đó chính là: "Học tập
lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc
để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng" [6].
2. Mỗi cán bộ đảng viên phải gắn lý luận với thực tiễn
Tuy lý luận là rất cần thiết, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ có lý luận rồi thì
phải kết hợp lý luận với kinh nghiệm thực tế, nếu không lại mắc phải bệnh lý luận
suông - bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên
đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung,
cũng như không có tên" [7], nên người cán bộ, đảng viên không thể chỉ lý luận theo
sách vở thuần túy. Bởi lẽ, "lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng
vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng lOMoARc PSD|36215725
sách", vì vậy, khi vận dụng lý luận phải luôn xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng
sẽ duy ý chí, chủ quan, giáo điều.
Để cán bộ, đảng viên luôn thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, khắc phục bệnh
kinh nghiệm, thì trước hết họ cần phải khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý
luận, vì rằng, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Vì
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có lý luận thì chỉ dựa vào kinh nghiệm, dẫn tới
tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong
hoạt động thực tiễn. Và khi bệnh kinh nghiệm trầm trọng, kéo dài, tổn hại gây ra sẽ
không nhỏ. Thực tế cho thấy, có không ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh
nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng.
Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách
mạng"[8]. Quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng
bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận
cũng như một mắt sáng một mắt mờ" [9], họ thực không hiểu, thậm chí cố tình không
hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn.
Vì vậy, cũng từ việc thấm nhuần những lời dạy của Lênin: “Chủ nghĩa cộng sản
sẽ trở thành trống rỗng, sẽ chỉ là một chiêu bài rỗng tuếch, người cộng sản sẽ chỉ là
một anh khoe khoang khoác lác tầm thường, nếu như tất cả các kiến thức đã thu nhận
được không được nghiền ngẫm trong ý thức của anh ta” [10], Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh: người cán bộ, đảng viên muốn không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm,
nhất định phải cần có lý luận soi đường, chỉ đạo và hướng dẫn; còn khi họ đã có lý
luận dẫn đường cũng rất cần phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phải luôn liên hệ với thực
tiễn, để tránh sa vào giáo điều. Đó chính là yêu cầu: Lý luận phải gắn liền với thực
tiễn, bởi: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" [11].
Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm, luôn
gắn liền lý luận với thực tiễn. Trong suốt cuộc đời mình, dù lúc bị tù đày hay khi đã
trở thành một nguyên thủ quốc gia, Hồ Chí Minh vẫn không ngừng học hỏi, làm giàu
tri thức, tích lũy kinh nghiệm bằng kho tàng tri thức văn hóa của nhân loại. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kiên trì vượt lên lối tư duy kinh nghiệm, cảm tính để đến với lý luận
khoa học, gắn lý luận với thực tiễn cách mạng. Người là tấm gương sáng về việc
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Trong mọi thời điểm,
Người luôn luôn sâu sát thực tế, xuất phát từ thực tế, đặc biệt là gắn bó với cơ sở,
gần gũi với nhân dân. Đó là vị Chủ tịch nước ngay sau khi mới giành được độc lập
cứ mười ngày nhịn ăn một bữa góp gạo cứu đói cho đồng bào; tham gia cuốc đất
tăng gia sản xuất với cán bộ; xuống ruộng dùng thử máy cấy lúa cải tiến; lội bùn tát
nước với nông dân; ra biển kéo lưới với ngư dân; cùng đồng bào ăn cơm độn ngô
trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại; lấy tiền nhuận bút từ sổ tiết kiệm mua
nước uống cho chiến sĩ phòng không; đề nghị dùng tiền đúc tượng mình mua sách
vở cho các cháu học sinh… Trong khoảng thời gian từ 1955 - 1965, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã hơn 700 lần đi thăm hỏi, tiếp xúc tìm hiểu thực tế đời sống của cán bộ, bộ
đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong,
các hợp tác xã, bệnh viện, trường học, v.v... theo Người "làm như thế là tổng kết để lOMoARc PSD|36215725
làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công
tác có kết quả hơn" [12].
3. Gắn lý luận với thực tiễn trong công tác giáo dục và rèn luyện cán bộ
đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Di sản lý luận Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại (bao gồm những bài nói, bài viết,
bài phát biểu) về sự cần thiết phải học tập lý luận, phải gắn lý luận với thực tiễn cho
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên chính là những chỉ dẫn, những biện pháp cơ bản nhằm
ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã phát hiện ra bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, hậu quả của việc không nhận thức
đúng đắn vai trò của lý luận, không gắn lý luận với thực tiễn đang ngự trị trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Những biểu hiện: “thuộc làu làu”, “tầm chương trích cú”,
hoặc biết “dăm ba chữ”,v.v.. của cán bộ, đảng viên chỉ làm mất đi sự hấp dẫn và sức
sống của học thuyết Mác-Lênin – một học thuyết cách mạng và khoa học của thời
đại vốn có giá trị nhận thức và cải tạo cao.
Nếu chỉ hiểu những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nói thôi thì chưa đủ, mỗi cán
bộ, đảng viên của Đảng còn phải học tập tinh thần, quan điểm, thái độ quán triệt sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của Người, phải không ngừng học hỏi và sâu sát
thực tiễn. Phải khắc phục bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và đổi mới tư duy bằng
cách ý thức sâu sắc hơn trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ của bản thân bằng cách
học và học tập không ngừng để “trở thành một người cộng sản có học thức”.
Chúng ta đều biết “chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo”. Điều này đúng
trong mọi hoàn cảnh, và càng có ý nghĩa sâu sắc hơn trong bối cảnh đất nước ta đang
thực hiện đổi mới và hội nhập. Khắc nghiệt của thực tiễn đang hàng ngày, hàng giờ
nảy sinh những tình huống, những vấn đề và những câu hỏi không thể tìm được đáp
án từ sách vở, từ lý luận đã có. Hơn nữa thực tiễn sinh động biến đổi và phát triển
không ngừng luôn yêu cầu chúng ta phải hành động chứ không thể ngồi chờ có lý
luận rồi mới hành động. Vì vậy, để cán bộ đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong muốn,
chúng ta phải học ở Người phương pháp dùng lý luận tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
để rồi bổ sung cho lý luận những kết luận mới, phù hợp với thực tiễn. Đó chính là
phương pháp luận Hồ Chí Minh: “Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại,
chúng ta cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là
cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới" [13], vì rằng nghiên
cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển
kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm" chính là quá trình tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận.
Phương pháp Hồ Chí Minh cũng chính là cách dùng lý luận đã học được để phân
tích những thắng lợi và thất bại trong công tác, những mặt đúng hay sai trong tư
tưởng để làm cho nhận thức của mỗi người đối với các vấn đề trong thực tiễn được
nâng cao hơn, vì thế kết quả thu được cũng sẽ tốt hơn.
Trước những thách thức của thời kỳ đổi mới và hội nhập, trước thực trạng trình
độ lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên tỏ ra chưa tương xứng với yêu cầu và nhiệm
vụ của thời kỳ mới, sự giảm sút niềm tin, cùng những nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa
Mác-Lênin và CNXH, đặc biệt là chưa thấm nhuần sâu sắc những lời dạy của Chủ lOMoARc PSD|36215725
tịch Hồ Chí Minh: “Công việc ngày càng nhiều và càng phức tạp. Xã hội ngày càng
tiến lên. Vì vậy trình độ của đảng viên và cán bộ cũng phải tiến lên mới làm tròn
được nhiệm vụ”. Nghị quyết Đại hội Đảng ta đã khẳng định: “Mọi cán bộ, đảng viên,
trước hết là các cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học tập,
nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học
tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ” [14].
Học lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là học “để làm việc, làm người, làm cán bộ” (9/1949). Bởi vậy, khi học lý luận
trở thành nhu cầu để thực hiện mục đích, lý tưởng của những người cộng sản thì lý
luận “thực sự là chiếc cẩm nang thần kỳ” cung cấp cho cán bộ, đảng viên những tri
thức, những hiểu biết và phương pháp tư duy để giải quyết tốt những công việc,
những đòi hỏi của thực tiễn. Mỗi cán bộ đảng viên, mỗi người khi học lý luận, càng
cần phải coi trọng và quán triệt nguyên tắc “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là
kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
không những cần phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
mà còn phải dám nghĩ, dám làm, để lãnh đạo quần chúng, biến đường lối của Đảng
thành kết quả và thành công trong cuộc sống.
Những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn, không chỉ là bài học tư
tưởng quý giá, mà còn có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với mỗi người cán bộ, đảng
viên chúng ta hôm nay, nhất là trong bối cảnh toàn Đảng đang ra sức thực hiện Cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ./.