


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61573419 Đề 1:
Câu 1: Phân tích và vận dụng quan điểm sau của Hồ Chí Minh: “Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Hồ Chí Minh đã bàn đến “đạo đức cách mạng” trong tác phẩm cùng tên năm 1958:
“Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều
chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách
của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình.
Hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến
công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
Câu nói của Hồ Chí Minh: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” đề cập đến
Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của cách mạng. Đó là vì:
Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng:
Người đã nêu rõ: đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người. Người coi đạo đức rất quan trọng
như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Người Viết:
“Cũng như sông thì nguồn mới có nước, không có nguồn thì song cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.”
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người. Theo
Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là chỗ dựa vững chắc giúp con người vững vàng trong mọi thử thách:
“Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi
gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn.” Thứ hai, đạo đức cách mạng
là điều cần thiết vì:
Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (1958), Hồ Chí Minh viết “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Người chỉ rõ cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục, thì nhớ rằng: “Trước mặt quần chúng, không
phải cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.”
Có đạo đức cách mạng thì mới có thể làm được những điều vẻ vang, cao cả, tức là “Việc nước lấy Đoàn thể
làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đạo đức làm cốt cán”
Thứ ba, Đạo đức cách mạng sẽ tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội mới “chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn”,
“chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình,
phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình” lOMoAR cPSD| 61573419
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, tiền đề để tiến tới những giá trị cao cả mà nhân loại hướng đến: hòa bình, đoàn
kết, ấm no, tự do, hạnh phúc,…. Nhân dân chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vì có
những tấm gương đạo đức cao cả, gương hy sinh của các chiến sĩ bất khuất.
Thứ tư, Hồ Chí Minh cũng chú ý xem xét mối quan hệ giữa “tài” và “đức:
Đạo đức là tiêu chuẩn cho mục đích hành động. Tài năng là phương tiện thực hiện mục đích đó. Do đó, con
người phải có cả “đức” và “tài”. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”
Hồ Chí Minh quan niệm đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực phải thống nhất làm một.
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh đối với bản thân sinh viên:
Bối cảnh đất nước và thế giới hiện nay:
- Tình hình an ninh, chính trị trên thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, các nước
lớntăng cường cạnh tranh chiến lược; tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo diễn biến phức tạp; những
vấn đề liên quan đến sắc tộc, tôn giáo.
- Hội nhập quốc tế là xu thế lớn trong sự phát triển của thế giới hiện đại. Với Việt Nam, hội nhập quốc tếlà
một quyết sách chiến lược, gắn với nhu cầu phát triển nội tại của đất nước và xuất phát từ chuyển biến
của môi trường quốc tế.
- Việt Nam đang phát triển theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bối cảnh đất nước và thế giới hiện nay đã mang lại nhiều điều kiện thuận lợi cũng như là thách thức đối
với bản thân sinh viên trong việc xây dựng và rèn luyện đạo đức cách mạng cho bản thân. Do đó, mỗi sinh
viên cần: (Có thể thay bằng em - nếu đề hỏi rõ liên hê ḅ ản thân)
- Nâng cao nhận thức của bản thân về tầm quan trọng, giá trị của những phẩm chất đạo đức mà sinh viênphải
tu dưỡng, rèn luyện thông qua các phong trào Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
phong trào tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Tham gia tích cực các diễn đàn giao lưu văn hóa, trau dồi phẩm chất, lối sống, chú trọng xây dựng chobản
thân những chuẩn đạo đức cơ bản.
- Có ý thức học tập lành mạnh, chăm học, chăm làm, thực hiện kết hợp nâng cao năng lực chuyên môn
vàphẩm chất đạo đức tại nhà trường.
- Thường xuyên củng cố tinh thần đoàn kết tại lớp, tập thể, tham gia thường xuyên những cuộc vận độngdo
lớp tổ chức về Đoàn, Hội, các cuộc thi liên quan đến tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cần rèn luyện việc sống có lý tưởng cao đẹp, giúp đời, giúp người, yêu lao động tại trường và gia đình.Hỗ
trợ, giúp đỡ người thân những công việc có thể giúp được.
- Nêu cao tinh thần “nói lời hay, làm việc tốt”, “tương thân tương ái” tại địa phương, cơ sở. lOMoAR cPSD| 61573419
- Đấu tranh chống lại những thói quen thực dụng, ưa hưởng thụ, lười biếng, cư xử chưa đúng mực thểhiện qua lời nói.
- Tôn trọng và có tinh thần thân thiện, hữu nghị đối với giảng viên, thầy cô trong trường và người lớn
tuổingoài xã hội; nhiệt tình, giúp đỡ những người nhỏ tuổi hơn mình.
Câu 2: Chứng minh tính sáng tạo trong luận điểm của Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc
cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc *Sáng
tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần, mới về chất. *Cơ sở lý luận:
Xuất phát từ Quốc tế Cộng sản: Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc
địa nên Quốc tế Cộng sản xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, cho rằng cách mạng thuộc địa phải
phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc: chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các
nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này làm
giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực
dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc.
Xuất phát từ luận điểm của C.Mác về khả năng tự giải phóng của giai cấp công nhân: “Sự nghiệp giải
phóng GCCN chỉ có thể được thực hiện bởi chính GCCN”
*Cơ sở thực tiễn: Trong khi nêu lên mối quan hệ khắng khít của cách mạng vô sản ở chính quốc với cách
mạng thuộc địa, Người đã sớm nhận ra được tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng vô sản:
- Người từng dự báo trong bài báo Đông Dương (1921): “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bịtàn
sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ và qua việc thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ có thể giúp cho những người anh em của họ ở phương Tây trong nhiệm
vụ giải phóng hoàn toàn”
- Người khẳng định của việc đặt cách mạng thuộc địa ngang với cách mạng vô sản chính quốc thông quabóc
trần bản chất tàn ác của chế độ thực dân: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai
cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta
muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái
vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"
- Người cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc
mà có thể giành thắng lợi trước.
Luận điểm này mang tính sáng tạo vì: lOMoAR cPSD| 61573419
- Thuộc địa có một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là nơi duy trì sự tồntại,
phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc.
Bác từng nói: “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn
là ở chính quốc” ➔ nếu thờ ơ thì sẽ như “đánh chết rắn đằng đuôi”.
- Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà theo Người nó sẽ bùnglên
mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng. -
Giai cấp công nhân có khả năng tự giải phóng bản thân. Người từng viết: “Hỡi anh em các dân tộc thuộc
địa... công cuộc giải phóng anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
*Kết quả thực tiễn:
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam - Thắng lợi của phong trào giải phóng dântộc
trong thế kỷ XX, với hơn 100 quốc gia mới được hình thành.
- Năm 1960 là năm châu Phi, với 17 nước giành độc lập.
- Sự thắng lợi của cách mạng Cuba và của các quốc gia Mỹ Latinh đã biến Mỹ Latinh thành “lục địa bùngcháy”
➔ Thế kỷ XX trở thành thế kỷ giải trừ của chủ nghĩa thực dân
➔ Sự thắng lợi của cách mạng thuộc địa khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra đã chứng
minh luận điểm của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo và có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. ĐỀ 2:
Câu 1: Phân tích và vận dụng quan điểm sau đây của Hồ Chí Minh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”?
1. Khái niệm về “con người”: con người là một thực thể có sự thống nhất giữa các yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
2. Khái niệm về “con người xã hội chủ nghĩa”:
- Con người xã hội chủ nghĩa là một trong những động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Công cuộc xây dựng xã hội mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phức tạp, khó khăn, giankhổ,
con người ít nhiều còn mang những tàn dư tư tưởng của xã hội cũ.
- Do đó, cần phải giáo dục, tẩy rửa những thói hư tật xấu mà xã hội cũ đã tiêm nhiễm nhằm làm cho phầntốt
của họ được phát huy và phân xấu bị hạn chế.
- Theo Hồ Chí Minh, con người xã hội chủ nghĩa phải có “tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa”:
+ Có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa, tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
+ Có quan điểm “tất cả phục vụ sản xuất”.
+ Có ý thức cần kiệm xây dựng nước nhà. lOMoAR cPSD| 61573419
+ Có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
+ Chống lại những tư tưởng, tác phong xấu là chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí,...
3. Tầm quan trọng của việc xây dựng con người:
*Về ý nghĩa của việc xây dựng con người:
- Xây dựng con người là vấn đề có chiến lược lâu dài, là trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lượcphát
triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- “Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa” nghĩa là cần có những con người với nhữngnét
tiêu biểu của xã hội xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống.
- Bác đã nói: “Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người” là công việc lâu dài, gian khổ...”
- Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất vàquan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- “Trồng người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên, là quyền và nghĩa vụ của cá nhân đối với
sựnghiệp xây dựng đất nước.
*Về nội dung xây dựng con người:
- Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên- Những đặc điểm đó bao gồm:
+ Có mục đích và lối sống cao đẹp.
+ Có bản lĩnh chính trị vững vàng.
+ Có tư tưởng, tác phong, đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ.
- Cần phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng năng lực chuyên môn,trình
độ chính trị, văn hóa,..
*Về phương pháp xây dựng con người:
- Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính khoa học của bộmáy
và tạo dựng nền dân chủ.
- Chú trọng công tác nêu gương, “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau” là rất cầnthiết và bổ ích.
- Chú trọng công tác giáo dục, vì giáo dục tác động rất lớn đến con người, “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn.
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
- Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng, “Thi đua yêu nước”, “Người
tốtviệc tốt”, đặc biệt phải dựa vào quần chúng “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.”.
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh đối với bản thân sinh viên: lOMoAR cPSD| 61573419
Có thể khẳng định, con đường quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng
khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sinh viên là thế hệ trẻ, là chủ nhân của đất nước, sinh viên cần làm gì, làm như thế nào để khẳng định và
đóng góp sức mình vào công cuộc kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa Xã hội,
nhất là trong giai đoạn hiện nay đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp 4.0, các nước ra sức chạy đua về
công nghệ, kỹ thuật với hàng loạt các công trình nghiên cứu, sáng chế, áp dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến
vào đời sống sản xuất, tối ưu hóa các quy trình sản xuất.
Trước bối cảnh đó, để trờ thành con người xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng nền xã hội chủ
nghĩa cho nước nhà, bản thân sinh viên cần:
- Không ngừng nâng cao nhận thức của bản thân về tầm quan trọng của việc tự giáo dục, rèn luyện bảnthân
theo các chuẩn mực đạo đức và xã hội.
- Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm gương Hồ Chí Minh về tinhthần
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm.
- Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác dạy.
- Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, luôn nói đi đôi
vớilàm để cho người khác noi theo.
- Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên các cấp. Phấn đấu
tudưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu “Sinh viên 5 tốt” với các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt,
Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt.
- Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối Đảng, dối dân.
- Phải chống lại thói ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vô cảm, “đục nước béo cò”
khingười khác gặp hoạn nạn.
- Phải đấu tranh chống các tệ nạn làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua bán trithức...
- Đặc biệt, thanh niên, sinh viên cần đẩy mạnh việc trau dồi những phẩm chất đạo đức mà Hồ Chí Minhđòi
hỏi ở những con người Việt Nam trong thời đại mới: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, Kiệm, Liêm,
Chính, Chí công vô tư; Lòng yêu thương con người; Tinh thần quốc tế trong sáng v.v.
Câu 2: Phân tích sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
*Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần, mới về chất. Cơ sở lý luận:
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Điều này phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước Nga và tình hình châu Âu.
Cơ sở thực tiễn: lOMoAR cPSD| 61573419
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, số lượng ít, chủ yếu
là công nhân khai thác mỏ, đồn điền mà chưa phải là công nhân đại công nghiệp như ở phương Tây. Tuy
vậy, giai cấp công nhân Việt Nam cũng là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần
cách mạng triệt để nhất, có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Phong
trào công nhân diễn ra nhưng quy mô còn nhỏ, tổ chức chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, phong trào yêu nước
Việt Nam diễn ra sôi nổi, rộng khắp, thu hút được đông đảo các giai cấp, tầng lớp tham gia. Vì vậy, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước cần phải hỗ trợ nhau để thu hút lực lượng đông đảo trong xã hội, nhất là nông dân.
Chủ trương của Hồ Chí Minh:
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Như vậy, trong quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Hồ Chí Minh đã thêm yếu tố thứ ba là phong trào
yêu nước. Đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, vì:
+Phong trào yêu nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc.
+Lý do phong trào yêu nước có thể kết hợp được với phong trào công nhân:
Thứ nhất, trong điều kiện một nước thuộc địa thì phong trào yêu nước và phong trào công nhân đều có mục
tiêu chung là giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc. Không có độc lập dân tộc thì không thể giải phóng giai cấp.
Thứ hai, trong phong trào yêu nước, lực lượng nông dân chiếm phần lớn. Mà giai cấp nông dân là bạn đồng
minh tự nhiên của giai cấp công nhẫn. Do đó, phong trào nông dân có khả năng kết hợp với phong trào
công nhân. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.
+ Trong phong trào yêu nước, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự kết hợp các yếu
tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là vì họ có điều kiện làm việc đặc biệt và dễ dàng tiếp
thu tư tưởng tiến bộ, là “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược và
bọn tay sai cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước. ➔ lực lượng quan trọng tiếp thu và
truyền bá những “luồng gió mới” về tư tưởng (chủ nghĩa Mác – Lênin) vào Việt Nam.
Chứng minh: Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua tổ chức và hoạt động của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam. Thời kỳ 1927 - 1929 là thời kỳ chuyển biến của cách mạng Việt Nam. Phong trào công
nhân Việt Nam chuyển mạnh từ tự phát đến tự giác, phong trào yêu nước phát triển với chất lượng mới.
Qua đó, tạo nên làn sóng cách mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của 03 tổ chức cộng sản vào cuối năm 1929, đầu năm 1930 cho
thấy việc thành lập Đảng đã được chuẩn bị chu đáo về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Với nhãn quan chính
trị nhạy bén, nhằm thống nhất thành một Đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc với vai
trò phái viên của Quốc tế cộng sản đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng
sản Việt Nam (03/02/1930). Đề 3: lOMoAR cPSD| 61573419
Câu 1: Phân tích để làm rõ quan điểm sau của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Tuyên ngôn độc lập
(1945): “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do...... Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”? -
Độc lập dân tộc: là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ chức các hoạt
độngchính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… trong phạm vi lãnh thổ của mình,
không chịu sự tác động, ép buộc, chi phối, thao túng của nước ngoài. Độc lập dân tộc phải trên cơ sở bảo
đảm chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế, được luật pháp quốc tế
thừa nhận và trên thực tế phải được khẳng định.
Câu nói của Hồ Chí Minh đề cập đến các vấn đề về độc lập dân tộc, đăc biệ t ḷ à Bác nhấn mạnh độc lập,
tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp cận quyền độc lập tự do từ chân lý thời đại đã được các nước lớn thừa nhận: -
“Quyền sống”, “Quyền bình đẳng”, “Quyền sung sướng” và “Quyền tự do” đều là quyền của con
người, là “những quyền mà không ai có thể xâm phạm được” đã được ghi nhận trong các văn bản quốc tế
như “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ năm 1776 và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp năm 1791.
Năm 1919, nhân dịp các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội
Nghị Vecxây (Pháp), thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu
sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8 điểm với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý
và đòi các quyền tự do, dân chủ của người dân Đông Dương.
Thứ hai, Hồ Chí Minh phát triển và suy rộng từ những quyền của con người và tinh hoa của thế
giới thành những quyền mà mọi dân tộc đều phải được hưởng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do... Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Thứ ba, Khát vọng được hưởng độc lập và tự do là khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Trong
đó, Hồ Chí Minh khẳng định khát vọng của cá nhân cũng là khát vọng của dân tộc Việt Nam: “Cái mà tôi
cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”.
Thứ tư, Hồ Chí Minh khẳng định độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân là vấn đề xuyên suốt trong
phong trào cách mạng Việt Nam: -
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (năm 1930), Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chính
của cách mạng là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” lOMoAR cPSD| 61573419 -
Năm 1941, trong Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 (5/1941),
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong lúc này nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì chẳng những quốc
gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa, trâu mà quyền lợi bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” -
Nặm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tuyên ngôn độc lập để trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào cả nước và thế giới về quyền tự do,
độc lập của dân tộc Việt Nam: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, nhân dân Việt Nam quyết
giữ vững quyền tự do và độc lập ấy. -
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh từng thể hiện rất rõ quyết tâm sắt
đá chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2 nhằm bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc – giá
trị thiêng liêng mà nhân dân ta đã giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” -
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên
ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”. Nhờ vậy, nhân dân Việt Nam đã đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định
Pari, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân về nước.
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Thứ nhất, Hồ Chí Minh khẳng định vấn đề độc lập gắn liền với tự do là chân lý của thời đại. Người
cho rằng đây là lẽ đương nhiên trong đấu tranh cách mạng của các dân tộc:
- Người dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1791): “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” ”, Hồ Chí Minh
khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải
không ai chối cãi được”.
Thứ hai, Độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân là bản chất, mục
tiêu của cách mạng Việt Nam.
c) Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để -
Thứ nhất, trong quá trình xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài
mị dân,thành lập các chính phủ bù nhìn, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các
nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che đậy bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng. -
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải độc lập thật sự, hoàn toàn, triệt để trên tất
cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,..
d) Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ -
Thứ nhất, xuất phát từ bối cảnh nước nhà trong lịch sử:
+ Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. lOMoAR cPSD| 61573419
+ Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, miền Bắc bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị
thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn toàn Việt Nam, một lần nữa thực dân Pháp lại bày ra
cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” chia cắt nước ta một lần nữa.
- Thứ hai, đó là từ quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc mà Hồ Chí Minh thể hiện trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh
thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Câu 2: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đoàn kết quốc tế trong sự nghiệp cách
mạng? Hiên nay sinh viên c ̣ ần làm gì để kết hợp sức mạnh dân tôc ṿ ới sức mạnh thời đại?
• Khái niệm “đoàn kết quốc tế”
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết trong phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế và đoàn kết trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Đoàn kết quốc tế là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng như thắng lợi của công
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
• Lý do, tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế
Thứ nhất, thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc, với sức mạnh thời đại, tạo
sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Mục đích của đoàn kết quốc tế là để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng
thời đại nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Bài học quan trọng nhất, mang tính thời đại sâu sắc.
Sức mạnh dân tộc: tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần gồm chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự
lực, tự cường dân tộc, sức mạnh tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất, “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh” cho độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Sức mạnh thời đại: sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, của chủ nghĩa Mác – Lênin, xác
lập bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917,...
Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới ngay
từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Người cho rằng, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành công
khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
Thứ hai, thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu cách mạng của thời đại.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa Quốc
tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không
vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại. lOMoAR cPSD| 61573419
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt
lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận
mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Trong suốt quá trình gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Người không chỉ phát huy
triệt để sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho
dân tộc mình mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các
lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung, hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các
đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh...
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung nguồn lực mới, làm cho sức mạnh dân tộc
được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi
các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đấu vì
độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi
ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Với cương vị là sinh viên, để có thể kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?
Bối cảnh đất nước hiện nay:
Tình hình an ninh, chính trị trên thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, các
nước lớn tăng cường cạnh tranh chiến lược; tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo diễn biến
phức tạp; những vấn đề liên quan đến sắc tộc, tôn giáo.
Hội nhập quốc tế là xu thế lớn trong sự phát triển của thế giới hiện đại. Với Việt Nam, hội nhập
quốc tế là một quyết sách chiến lược, gắn với nhu cầu phát triển nội tại của đất nước và xuất phát
từ chuyển biến của môi trường quốc tế.
Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân:
Tôn trọng và giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của dân tộc: truyền thống hiếu học, nhân nghĩa,
truyền thống “lá lành đùm lá rách”, truyền thống năng động, sáng tạo.
Giữ gìn những giá trị thiên nhiên và giá trị văn hóa của dân tộc: đối với thiên nhiên, với danh lam
thắng cảnh cần giữ gìn, bảo vệ môi trường, có ý thức duy trì vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên; với
các giá trị văn hóa như lễ hội, phong tục tập quán cần tôn trọng, tích cực tham gia, không có thái
độ bài xích, khước từ tinh hoa dân tộc. lOMoAR cPSD| 61573419
Học tập, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh nội lực và ngoại lực;
giữa việc tự trau dồi năng lực hiểu biết của bản thân kết hợp với việc tiếp thu những giá trị văn hóa
quốc tế tiến bộ, có lợi cho bản thân.
Có ý thức tăng cường trình độ ứng dụng khoa học – công nghệ, nghiên cứu khoa học, giúp ích cho cuộc sống.
Trau dồi phẩm chất, đạo đức của bản thân theo gương Bác Hồ vĩ đại một cách thật sự và nghiêm túc.
Sống chan hòa, hội nhập, có tinh thần cởi mở hơn đối với các bạn sinh viên trong trường, chủ động củng cố mối quan hệ. Đề 4
Câu 1: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và nêu ý nghĩa của quan
niệm trên đối với việc củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay?
Định nghĩa “nhà nước pháp quyền”
Nhà nước pháp quyền được hiểu là một kiểu nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục
pháp luật và phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước, phải có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.
a) Nhà nước hợp hiến hợp pháp
- Khi trở thành người đứng đầu Nhà nước VN mới, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), HCM đã đề nghị: “Chúng ta phải có một hiến pháp
dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
- Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I nước VNDCCH đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy vàcác
chức vụ chính thức của Nhà nước. HCM được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên, Chính phủ
chính thức là chính phủ hợp hiến ra đời.
Dẫn chứng: Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3/9/1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu để lập nên Quốc
hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy hợp hiến, thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6/1/1945 với chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và
bỏ phiếu kín. Lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở
Đông Nam Á, mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái,
tôn giáo,… đều có quyền bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham gia Quốc hội. Ngày 2/3/1946, Quốc
hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức lOMoAR cPSD| 61573419
vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên b) Nhà
nước thượng tôn pháp luật
- Thực hiện công tác lập pháp, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ và hiện đại.
- Chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành và có cơ chế giámsát
việc thi hành pháp luật. Cần phải “làm sao cho nhan dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân
chủ của mình, dám nói, dám làm”.
- Nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật. Người tuyên bố: “Pháp luật VN tuy khoan hồng với nhữngngười
biết cải tà quy chính, nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân”.
- Khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám sát quá trình Nhà nước thựcthi
pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân
thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
Dẫn chứng: Ngày 9/11/1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo). c)
Pháp quyền nhân nghĩa
- “Pháp quyền nhân nghĩa” có nghĩa là Nhà nước phải tôn trọng, đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền
conngười, chăm lo đến lợi ích của mọi người.
- Người đề cập đến các quyền tự nhiên của con người, trong đó quyền cao nhất là quyền sống; đồng thờicũng
đề cập đến cả các quyền chính trị - dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội cả con người. Người chú trọng
quyền của công dân nói chung, dồng thời cũng chú trọng đến quyền của những nhóm người cụ thể như
phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số.
- Mục tiêu cao nhất của cách mạng VN là đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do,hạnh
phúc cho nhân dân, đó chính là đấu tranh cho quyền con người.
- Trong Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cáitốt,
lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm căn bản.
Ngay cả đối với những kẻ phản bội Tổ quốc, HCM tuyên bố rõ: “Chính phủ VN sẽ tha thứ hay trừng trị họ
theo pháp luật tùy theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Những sẽ không có ai bị tàn sát”.
Dẫn chứng: Ngay khi thành lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lập tức
tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp hà khắc của chính quyền thực dân phản động. Ý nghĩa:
- Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cả hệ thống chính trị về chủ trương “xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến
ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn
phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”. lOMoAR cPSD| 61573419
+ Nghị quyết số 27/2022 đề ra giải pháp tiếp tục “đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao
nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
- Hai là, giúp Đảng có thể tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay có sự phát triển mới ngày càng cao,
nhất là trước những thách thức khó dự báo của tình hình trong nước và quốc tế.
+ Trong đó, trọng tâm là nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết; chỉ đạo hiệu quả quá trình tinh giản tổ
chức bộ máy; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; tổ
chức kiểm tra, thanh tra… Quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền
cần được tiến hành đồng bộ, quyết liệt từ tư duy đến hành động, từ trung ương đến cơ sở, chú trọng đề cao
“trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, cán bộ có chức vụ càng
cao càng phải gương mẫu”.
- Ba là, giúp Đảng tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và cơ quan báo chí.
+ Mọi hoạt động của cơ quan nhà nước cần bảo đảm minh bạch, nâng cao chất lượng giải trình, nhất là trên
các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, vi phạm pháp luật;
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán
bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó
khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”; cơ chế bảo vệ người tố cáo các hành vi vi
phạm trong bộ máy nhà nước…
- Bốn là, giúp Đảng chú ý tăng cường kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước.
Câu 2: Nhân tḥ ức và vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo
đức cách mạng trong tu dưỡng, rèn luyên đ ̣ ạo đức bản thân.
Khái niệm “đạo đức cách mạng”:
Hồ Chí Minh đã bàn đến “đạo đức cách mạng” trong tác phẩm cùng tên năm 1958:
“Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều
chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách
của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình.
Hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến
công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong việc xây dựng đạo và là đặc trưng bản chất của đạo đức
cách mạng, thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm.
Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc làm phải có nhận thức đúng và
quyết tâm vượt qua chính mình. Nói đi đôi với làm còn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong
sáng của cán bộ, đảng viên công chức, nêu gương trước nhân dân lOMoAR cPSD| 61573419
Ví dụ như: Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào “Hũ gạo cứu đói” trong thời điểm khó khăn
của nước ta sau độc lập. Đầu tiên Người phát động, sau đó Người làm gương: mỗi ngày bớt một ít gạo cho
hũ gạo cứu đói. Vì vậy nhân dân hưởng ứng nhiệt tình, giải quyết tạm thời nạn đói trước mắt.
Hồ Chí Minh rất chú trọng việc nêu gương: Người cho rằng đối với nhân dân thì “Một tấm gương sống
còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền’’. Người chú trọng: “Lấy gương người tốt việc tốt hằng
ngày giáo dục lẫn nhau’’. Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực, từ Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã hội “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là
một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, các tổ chức cách mạng, con người mới, cuộc sống mới”.
b. Xây đi đôi với chống
Thể hiện tính nhân đạo chiến đấu, xây các giá trị, chuẩn mực đạo đức mới đi đôi với việc chống lại các
hành vi, biểu hiện vô đạo đức, suy thoái đạo đức. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy
xây làm chính. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân nâng cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật".
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất những
chuẩn mực đạo đức mới. Muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách
mạng cho hàng triệu đảng viên, hàng triệu cán bộ, các công dân trong các giai tầng khác nhau, thì cùng với
việc xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những cái xấu xa, trái với những
yêu cầu của đạo đức mới.
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống "xây" là giáo dục
những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức Cách mạng cho con người Việt Nam, "Chống" là chống những biểu
hiện hành vi vô đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân, cường quyền, hách dịch. "Xây đi đôi với chống" nghĩa
là đồng thời với việc giáo dục, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải đi đôi với đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, chống những hành vi phi đạo đức.
Ví dụ: Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng đã đặc biệt chú trọng, triển khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và
đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt
chẽ giữa “xây” và “chống”, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức ở mỗi người: “Đạo
đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển
và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Nếu không thường xuyên
rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại sa vào chủ
nghĩa cá nhân trở thành con người ngăn cản cách mạng, hại dân, hại nước.
Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn
cảnh, có như vậy mới phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề là không tự lừa dối
mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì
vậy, việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh là một tấm gương
suốt đời tự rèn luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu của
người không phải bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học tập, từng bước hấp thụ tinh
hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư tưởng bất tử. Người thường nhắc nhở: “Một dân tộc,
một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất thiết ngày hôm nay và lOMoAR cPSD| 61573419
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu rơi vào chủ nghĩa cá nhân”
Ví dụ: Những người lính, cán bộ, chiến sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam phải thường xuyên, tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng mọi lúc mọi nơi, gắn với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
học tập và công tác hàng ngày, thanh niên trong lực lượng vũ trang phải nghiêm túc, tự giác tu dưỡng rèn
luyện đạo đức, trung thành, kỷ luật, đoàn kết; dũng cảm, xung kích, tình nguyện; trí tuệ, sáng tạo để xứng
đáng với phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ”; phẩm chất của người chiến sỹ công an nhân dân “Vì nước quên thân – Vì dân phục vụ”.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong xây dựng đạo đức sinh viên hiện nay?
Bối cảnh đất nước và thế giới hiện nay:
- Tình hình an ninh, chính trị trên thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, các nước
lớntăng cường cạnh tranh chiến lược; tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo diễn biến phức tạp; những
vấn đề liên quan đến sắc tộc, tôn giáo.
- Hội nhập quốc tế là xu thế lớn trong sự phát triển của thế giới hiện đại. Với Việt Nam, hội nhập quốc tếlà
một quyết sách chiến lược, gắn với nhu cầu phát triển nội tại của đất nước và xuất phát từ chuyển biến
của môi trường quốc tế.
- Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các biện pháp mà bản thân nhận thức cũng như thông qua khảo sát thực tiễn của Đảng, Nhà nước:
- Nâng cao nhận thức của bản thân về tầm quan trọng, giá trị của những phẩm chất đạo đức mà sinh viênphải
tu dưỡng, rèn luyện thông qua các phong trào Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
phong trào tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Tham gia tích cực các diễn đàn giao lưu văn hóa, trau dồi phẩm chất, lối sống, chú trọng xây dựng chobản
thân những chuẩn đạo đức cơ bản.
- Có ý thức học tập lành mạnh, chăm học, chăm làm, thực hiện kết hợp nâng cao năng lực chuyên môn
vàphẩm chất đạo đức tại nhà trường.
- Thường xuyên củng cố tinh thần đoàn kết tại lớp, tập thể, tham gia thường xuyên những cuộc vận độngdo
lớp tổ chức về Đoàn, Hội, các cuộc thi liên quan đến tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cần rèn luyện việc sống có lý tưởng cao đẹp, giúp đời, giúp người, yêu lao động tại trường và gia đình.Hỗ
trợ, giúp đỡ người thân những công việc có thể giúp được.
- Nêu cao tinh thần “nói lời hay, làm việc tốt”, “tương thân tương ái” tại địa phương, cơ sở.
- Đấu tranh chống lại những thói quen thực dụng, ưa hưởng thụ, lười biếng, cư xử chưa đúng mực thểhiện qua lời nói.
- Tôn trọng và có tinh thần thân thiện, hữu nghị đối với giảng viên, thầy cô trong trường và người lớn
tuổingoài xã hội; nhiệt tình, giúp đỡ những người nhỏ tuổi hơn mình. lOMoAR cPSD| 61573419 Đề thi HK Hè
Câu 1: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và nêu ý nghĩa của quan
niệm trên đối với việc củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay? (Giống câu trên)
Câu 2: Tại sao nói tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã được nâng lên một tầm cao
mới, một chất lượng mới?
Định nghĩa “đại đoàn kết dân tộc”
Định nghĩa: “Đại đoàn kết dân tộc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết các dân tộc, giai cấp,
mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam
dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu
chung và những lợi ích căn bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã được nâng lên một tầm cao mới, một chất lượng mới vì:
- Đại đoàn kết dân tộc được xác định là vấn đề chiến lược, mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạngtừ
đó cho thấy vai trò của đại đoàn kết dân tộc:
- Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng:
+ Đây là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài, xuyên suốt trong tiến trình của cách mạng Việt Nam. + Đây
là vấn đề có ý nghĩa trong cả hai cuộc cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa, quyết định đến sự thành bại của cách mạng Việt Nam.
+ Đoàn kết sẽ góp phần củng cố bảo vệ độc lập dân tộc và chính quyền cách mạng, xây dựng đất nước. Hồ
Chí Minh khẳng định: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại
lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” + Hồ Chí Minh đúc kết rằng: “Đoàn kết là sức
mạnh của chúng ta.”
+ Đoàn kết quan trọng vì đây là “lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng lợi”
- Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam:
+ Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu dài của cách mạng.
+ Đây là vấn đề phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng vì Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
Việt Nam và được quán triệt trong đường lối, chủ trương, chính sách, hoạt động thực tiễn. Bác đã tuyên bố:
“Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”
+ Đại đoàn kết là vấn đề tất yếu khách quan trong cách mạng giải phóng dân tộc vì đây là sự nghiệp của
toàn thể quẩn chúng nhân dân, nếu không đoàn kết thì sẽ thất bại. lOMoAR cPSD| 61573419
- Đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức vững chắc từ đó cho thấy nền tảng, lực
lượng của khối đại đoàn kết dân tộc:
Thứ nhất, chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm.
+ Toàn thể nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các
ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái,…
+ “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khái niệm rất phong phú và rộng, gồm nhiều tầng nấc, nhiều
cấp độ, nhiều quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân tộc.
+ Theo Bác, người mang trong mình dòng máu lạc hồng, đang chảy dòng máu của người Việt thì đều được
tập hợp trong khối đại đoàn kết dân tộc, đều là “dân” nước Việt Nam. “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
+ Việc xây dựng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, không bỏ sót một lực lượng nào
miễn là họ có lòng trung thành và sẵn sàng phụng sự Tổ quốc
➔ Đây chính là những chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Thứ hai, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc chính là liên minh công – nông – trí:
+ Công nhân và nông dân là hai lực lượng đông đảo, có tinh thần hăng hái nhất nhưng cũng đồng thời chịu
cảnh áp bức, bóc lột tàn bạo nhất.
+ Trí thức là lực lượng có vốn hiểu biết, có môi trường làm việc đặc biệt, trở thành lực lượng góp phần
truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa yêu nước chân chính cho mọi người dân Việt Nam.
+ Bác khẳng định rằng liên minh công – nông – trí là nền gốc của đại đoàn kết, như “cái nền của nhà, gốc của cây”.
➔ Nền tảng này càng vững thì khối đại đoàn kết dân tộc càng vững chắc
+ Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở về việc phải tập trung đoàn kết, thống nhất trong Đảng vì nó là
cơ sở vững chắc để thành lập mặt trận dân tộc có tính đoàn kết cao và đoàn kết xã hội.
➔ Đảng càng đoàn kết thì mặt trận dân tộc cũng đoàn kết. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn
bó máu thịt giữa dân với Đảng là sức mạnh nội lực to lớn để hoàn thành mọi nhiệm vụ đặt ra cho đất nước.
- Đại đoàn kết dân tộc xác định rõ hình thức Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đó
cho thấy hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc:
a. Tầm quan trọng của Mặt trận thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất là hình thức đỉnh cao của việc tập hợp lực lượng to lớn từ khối đại
đoàn kết dân tộc vững chắc.
- Đây là nơi quy tụ mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội để tiến hành đấu tranh cho độc lập, tự do và
hạnh phúc của dân tộc. lOMoAR cPSD| 61573419
- Mục đích: thực hiện mục tiêu đoàn kết các lực lượng của dân tộc để tiến đến thực hiện mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
b. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở
rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, kết thành một khối vững chắc trong Mặt trận.
Hai là, phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân.
Ba là, phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Bốn là, phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Thứ nhất, phải làm tốt công tác vận động quần chúng (dân vận): m
- Mục đích: đoàn kết mọi người, tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa.
Thứ hai, phải thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp quần chúng:
- Mục đích: tập hợp quần chúng một cách hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi và
trách nhiệm của từng cá nhân, giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực của các tầng lớp nhân
dân nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
Thứ ba, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất.