lOMoARcPSD| 46342985
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TÊN ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP BẢO VỆ, BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC PHẦN
:
MÃ PHÁCH: …………………………………………………………….
Hà Nội – 202
4
lOMoARcPSD| 46342985
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I ................................................................................................................................ 2
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM ....................................... 2
1.1. Quyền con người ......................................................................................................... 2
1.1.1. Khái niệm về quyền con người .......................................................................... 2
1.1.2. Nguồn gốc của quyền con người ....................................................................... 3
1.1.3. Tính chất của quyền con người ......................................................................... 4
Tiểu kết chương I:............................................................................................................... 6
CHƯƠNG II ............................................................................................................................... 6
THỰC TRẠNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM .................................. 6
2.1. Mặt tích cực ................................................................................................................. 6
2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người ....................................... 6
2.1.2. Bảo đảm các quyền về dân sự, chính trị trong quá trình đổi mới .................... 9
2.1.3. Bảo đảm các quyền về kinh tế xã hội, văn hóa ............................................... 11
2.2. Mặt hạn chế ............................................................................................................... 15
Tiểu kết chương II ............................................................................................................. 17
CHƯƠNG III .............................................................................................................................. 17
GIẢI PHÁP BẢO VỆ, BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI VIỆT NAM ............................................ 17
3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ............................................................. 17
3.2. Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước ............................... 19
3.3. Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hoá giàu nghèo ... 20
3.4. Chủ động tạo ra các điều kiện và cơ chế để người dân thực hiện tốt nhất quyền và
nghĩa vụ ............................................................................................................................ 21
3.5. Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự ...................... 22
Tiểu kết chương III ........................................................................................................... 23
lOMoARcPSD| 46342985
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người từ lâu đã là một trong những đề tài được xã hội quan
tâm. Đồng thời hiện nay Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều
thách thức về bảo vệ quyền con người. Quyền lợi của người lao động,
quyền về tôn giáo, quyền sở hữu trí tuệ và tự do ngôn luận vẫn còn nhiều
bất cập. Đây là lý do quan trọng khiến việc nghiên cứu và đề xuất giải
pháp bảo vệ và bảo đảm quyền con người tại Việt Nam trở nên cấp bách.
Đề tài này không chỉ đáp ứng nhu cầu cải thiện về quyền con người từ
chính phủ và xã hội, mà còn phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia. Việc nghiên cứu và áp dụng các giải pháp nhằm tăng
cường hệ thống pháp luật, nâng cao nhận thức cộng đồng và khuyến
khích hoạt động của các cá nhân, tổ chức có thể mang lại hiệu quả lớn
trong việc bảo vệ quyền con người và thúc đẩy sự phát triển bền vững của
đất nước.
2. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 phần như sau
Chương I: LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT
NAM
Chương II: THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chương III: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM, BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở
VIỆT NAM
CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1.1. Quyền con người
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Quyền con người một phạm trù đa diện, do đó nhiều định nghĩa
khác nhau. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện về quyền con người
phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ
lOMoARcPSD| 46342985
quốc tế, một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc vquyền
con người (Office of High Commissioner for Human Rights OHCHR)
thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền
con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees)
tác dụng bảo vệ các nhân các nhóm chống lại những hành động
(actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép (entitlements) tự do bản (fundamental freedoms) của
con người. (1) giáo trình
Bên cạnh định nghĩa trên, còn những định nghĩa khác về quyền con
người theo các phương diện khác nhau. Nhưng nhìn chung quyền con
người thường được hiểu những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế. (1)
Cho đến nay nguồn gốc về quyền con người vẫn đang tiếp tục được
tranh luận. Tuy nhiên trong các văn kiện pháp luật quốc tế và quốc gia
đều khẳng định rõ rang quyền con người là các quyền tự nhiên, vốn có và
không thể tước bỏ được của mọi cá nhân.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa
nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân
văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi
người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình
nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển
đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù
cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là
quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ
trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Nguồn gốc của quyền con người
Về nguồn gốc của quyền con người, hai trường phái bản đưa ra
hai quan điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự
nhiên (natural rights) cho rằng quyền con người là những bẩm sinh, vốn
mọi nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ thành
viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc
vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ nhân,
giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng nhà nước nào. vậy, không một
lOMoARcPSD| 46342985
chủ thể nào, kcả nnước, thể ban phát hay tước bỏ các quyền con
người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Hai học giả tiêu biểu cho học thuyết về quyền pháp lý có thể kể là
Edmund Burke (1729-1797) Jeremy Bentham (1748-1832). Edmund
Burke, trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp(Reflections on the
Revolution in France,1770) và Jeremy Bentham, trong tác phẩm Phê phán
học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể tước bỏ(Critique of the
Doctrine of Inalienable, Natural Rights, 1843) cùng cho rằng ý tưởng v
các quyền tự nhiên vô nghĩa (nonsense uponstilts) và chẳng quyền
nào lại không thể tước bỏ (inalienable). [1]
Như vậy Quyền con người được hình thành từ hai nguồn gốc: Nguồn
gốc tự nhiên nguồn gốc hội. Xét về mặt lịch sử, quyền con người
được nhận thức và được thúc đẩy do thực tiễn bị áp bức, bóc lột và bị tước
đoạt về quyền trong các hội giai cấp. Theo nghĩa này, quyền con
người chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp và chỉ mất đi khi các giai cấp và
điều kiện tồn tại giai cấp không còn; do đó, quyền con người là một phạm
trù lịch sử. Theo nghĩa rộng, quyền con người bắt nguồn từ phẩm giá vốn
có của con người. Chính phẩm giá con người làm nảy sinh những nhu cầu
về quyền. Nhưng chỉ khi nào những nhu cầu về quyền này được xã hội thừa
nhận bảo vệ mới trở thành quyền.Với cách hiểu này, quyền con người
sẽ tồn tại mãi mãi, gắn liền với sự tồn tại của con người và phát triển cùng
với tiến trình văn minh nhân loại.
1.1.3. Tính chất của quyền con người
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các
tính chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể tước bỏ, tính không thể
phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể như sau: Tính
phổ biến (universal)
Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện chỗ quyền con người những
bẩm sinh, vốn của con người được áp dụng bình đẳng cho tất cả
mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không sự phân biệt đối xử
bất cứ do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ
tuổi, thành phần xuất thân...
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về
quyền con người không nghĩa cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền,
là bình đẳng về cách chủ thể của quyền con người. đây, mọi thành
viên của nhân loại đều được công nhận các quyền con người, song
lOMoARcPSD| 46342985
mức độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực của nhân từng
người, cũng như vào hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá người
đó đang sống. )
Tính không thể tước bỏ (inalienable)
Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện chỗ các quyền con
người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ
chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Ở đây, khía cạnh
“tuỳ tiện” nói đến giới hạn của vấn đề. cho thấy không phải lúc nào
nhân quyền cũng “không thể bị tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc
biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự
do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống [2]
Tính không thể phân chia
Tính không thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng
các quyền con người đều tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc
không quyền nào được coi giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ
hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân
phẩm, giá trị sự phát triển của con người. Tuy nhiên, tính chất không thể
phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con người đều cần phải được chú
ý quan tâm với mức độ giống hệt nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong từng
bối cảnh cụ thể, cần và thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định,
miễn phải dựa trên những yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền
đó chứ không phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền đó.
Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh tật,
quyền được ưu tiên thực hiện quyền được chăm sóc y tế; còn trong bối
cảnh nạn đói, quyền được ưu tiên phải là quyền về lương thực, thực phẩm.
góc độ rộng hơn, trong một số hoàn cảnh, cần ưu tiên thực hiện quyền
của một số nhóm xã hội
dễ bị tổn thương trong khi vẫn tôn trọng quyền của tất cả các nhóm khác.
Điều này không nghĩa bởi các quyền được ưu tiên thực hiện giá
trị cao hơn các quyền khác, mà là bởi các quyền đó trong thực tế đang bị
đe doạ hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc
bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên
hệ phụ thuộc tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược
lOMoARcPSD| 46342985
lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Thực tế cho thấy, để bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền
chính trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm
sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng... vì nếu không, các quyền bầu
cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói khổ, bệnh tật hay mù
chữ.
Tương tự, việc bảo đảm các quyền kinh tế, hội, văn hoá đều gắn liền
với sự phát triển của các quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả của việc bảo
đảm các quyền dân sự, chính trị chính sựổn định, lành mạnh và hiệu quả
trong quản nnước, quản lý hội yếu tố nền tảng để thúc đẩy các
điều kiện sống về kinh tế, xã hội, văn hoá của mọi người dân.
Tiểu kết chương I:
Nhìn chung, quyền con người là những quyền cơ bản và bất khả xâm
phạm mà mọi người đều được hưởng, đặc biệt là do tính chất con người
và sự đáng kính trọng của họ. Các quyền này bao gồm những quyền cơ
bản như quyền sống, tự do, và sự bình đẳng trước pháp luật.
Một trong những đặc điểm chính của quyền con người là tính bao quát
và không thể cắt cỏi của chúng. Điều này có nghĩa là quyền con người áp
dụng cho tất cả mọi người mà không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới
tính, hoặc bất kỳ điều kiện nào khác. Quyền con người cũng được coi là
bất khả xâm phạm và không thể bị thu hẹp hay từ chối mà không có lý do
hợp lý.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM
2.1. Mặt tích cực
2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người
Quyền con người Việt Nam hiện nay nhìn chung đã được đảm bảo
những tiêu chí cơ bản, được nhà nước đặt ra và quy định trong Hiến pháp.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối
lOMoARcPSD| 46342985
đổi mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, hội đồng thời chi
phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người nước ta
trong thời gian qua.
Cùng với việc coi trọng vị thế vai trò của con người, vấn đề quyền
con người cũng được coi trọng đánh gtương ứng. Hiến pháp năm 1992
(Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con người khẳng
định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa hội được tôn trọng, thể hiện
các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp luật” [3] Cùng
với khái niệm quyền con người, các khái niệm liên quan khác như quyền
bình đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề cập trong
các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước
Nhận thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy
bảo vệ quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã những nỗ lực không
ngừng nghỉ cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyn
con ngưi.
Ngay sau khi Việt Nam là thành viên của LHQ (năm 1977), vào những
năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã ch cực, chủ động tham gia vào các
công ước quốc tế về quyền con người của LHQ. Vào những năm 1981,
1982 1983 Việt Nam đã gia nhập 7 công ước quốc tế về quyền con
người, bao gồm: Công ước quốc tế về Ngăn ngừa Trừng trị tội ác diệt
chủng; Công ước quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị Tội ác A-pacthai; Công
ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD);
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR);
Công ước quốc tế về các kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR); Công ước về
không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với Tội phạm chiến tranh và Ti phạm
chống lại nhân loại; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ (CEDAW).
Tính đến nay (2022), Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước
bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của
ILO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. So với nhiều nước trong khu vực
các nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số ợng thành viên
các công ước quốc tế về quyền con người. Ngay cả Mỹ hiện nay vẫn
ớc duy nhất trên thế gii chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về trem
lOMoARcPSD| 46342985
năm 1989. Quốc gia này cũng chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về quyn
kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. [4]
Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên,
chúng ta đều cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp
của Nhà nước. Điều y quan điểm nhất quán, xuyên suốt mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đó là, “Coi trọng chăm
lo hạnh phúc và sphát triển toàn diện của con người, bảo vệ bảo đảm
quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng
thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết
[5]
Cùng với việc ch cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con
người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật quốc
gia, trong đó ch cực nội luật hóa các nguyên tắc, êu chuẩn quốc tế về
quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp
luật quốc tế.
Xét riêng trên lĩnh vực lập pháp, chỉ nh từ năm 1996 đến năm 2002,
Nhà nước đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn
40 BLuật Luật, trên 120 Pháp lệnh, gần 850 văn bản pháp luật của
Chính phủ và trên 3.000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành, trong đó đã
“nội luật hóa” một cách toàn diện những công ước quốc tế về quyền con
người Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của
thế kỷ XX trong thời kỳ y. Đây điều trong giai đoạn trước hầu
như chúng ta chưa làm được.
Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao của hoạt động lập hiến về quyền con
người, khi dành trọn vẹn 36 điều trong tổng số 120 điều để quy định quyền
con người, quyền nghĩa vcủa công dân; cùng với các luật, bộ lut được
ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người. Điều y không chỉ xác lập sở pháp về các quyền
của chủ thởng quyền (cá nhân, công dân, các nhóm yếu thế trong xã
hội), còn đặt nghĩa vụ, trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước và các tổ chức phi nhà nước phải nâng cao nh thần
trách nhiệm hội, trách nhiệm pháp tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người đã được Hiến pháp quy định là Nhà nước có trách nhiệm công
nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm quyền con người, quyền công dân
(Điều 3 và khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013)
lOMoARcPSD| 46342985
2.1.2. Bảo đảm các quyền về dân sự, chính trị trong quá trình đổi mới
Xét trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, 5 quyền
quan trọng được ban hành mới hoặc bsung thêm, bao gồm: quyền sở hữu
tài sản (bao gồm cả liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra
nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo luật định; quyền được thông tin
theo luật định; quyền bình đẳng của các tôn giáo; quyền không bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa bản án kết tội và phải chịu hình phạt
khi chưa bản án kết tội của Tòa án đã hiệu lực pháp luật. Ngoài ra,
Hiến pháp năm 1992 còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính
đáng của người Việt Nam định nước ngoài mở rộng việc bảo vệ,
giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị của công dân, bên
cạnh Hiến pháp năm 1992, chỉ tính trong giai đoạn 1996 -2001, Quốc hội
đã thông qua 40 đạo luật, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 40
Pháp lệnh liên quan đến vấn đề này, tiêu biểu Bộ Luật Hình sự; Bộ
Luật Tố tụng hình sự; Bộ Luật Dân sự; Luật Hôn nhân Gia đình; Luật
Quốc tịch Việt Nam; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Báo chí; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Pháp lệnh Xuất nhập cảnh,
trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam. Gần đây nhất, ngày
27/5/2004, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Tố tụng dân sự đầu tiên ở Việt
Nam, bổ sung một công cụ pháp lý quan trọng để bảo đảm các quyền dân
sự.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự – chính trị nước ta được thể hiện một
cách cụ thể: Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân:
Bình đẳng trong bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt
bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh
vực văn hóa – giáo dục, khoa học công nghệ như quyền được học tập của
công dân, quyền nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết
quả nghiên cứu của mọi công dân.
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn
ngừanhững hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm
của con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo những phạm nhân
đang thi hành án phạt tù)…
lOMoARcPSD| 46342985
Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tdo ngônluận,
quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo…
Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản luật,
trong đó những bộ luật liên quan đến đảm bảo quyền con người, như
Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An
ninh mạng… Bằng việc tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình y dựng
luật pháp, nhân dân đã thực hiện các quyền tự do, dân chcủa mình;
các văn bản pháp luật quan trọng đều thể hiện được ý chí, lợi ích
nguyện vọng của nhân dân.
Quyền làm chủ của người dân Việt Nam được thể hiện ở: quyền bầu
cử ứng cử; quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tự do tôn giáo…
Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và thúc đẩy phát trin
kinh tế, hội trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà nước
ta đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh ến độ y dựng “Chính phủ
điện tử;” Cổng thông n điện tử của các quan Nhà nước, nhằm cung
cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, quan, tổ chức đối thoại trực ếp
với nhân dân, nâng cao hiệu quả ếp nhận phản ánh, kiến nghị của người
dân, doanh nghiệp.
Các quyền con người về dân sự, chính trị đã được bảo đảm một cách
chđộng trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật. Chẳng hạn, về vấn
đề bảo đảm quyền sống, pháp luật không chỉ quy định trừng phạt nghiêm
khắc các hành vi tước đoạt mạng sống của con người một cách tùy ện;
nghiêm cấm tra tấn nhục hình; chỉ áp dụng án tử hình với các loại tội đặc
biệt nghiêm trọng nhất.
Bộ luật Hình sự năm 2015 ếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không
áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội...
Vic bảo đảm quyền sống còn được quan tâm về khía cạnh kinh tế, xã
hội thông qua việc thực hiện các Mục êu phát triển bền vững; tăng cường
khnăng ếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của mẹ và trẻsinh;
thực hiện các biện pháp cứu trợ khẩn cấp đối với những vùng chịu thiệt
hại nặng do thiên tai, dịch bệnh.
Vì vậy, trong thời kỳ đổi mới tỷ lệ đói nghèo và tỷ lệ tử vong bà mẹ và
trsinh giảm rệt. Hoặc, đối với quyền tự do n ngưỡng, tôn giáo,
lOMoARcPSD| 46342985
Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp vững chắc về bảo đảm quyền
y trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016
Nghị định 162/2017 của Chính phủ, lần đầu ên quy định tổ chức tôn giáo
pháp nhân phi thương mại. Pháp luật đã điều chỉnh nhiều quy định về
thời gian, thủ tục để tạo thun lợi cho các hoạt động tôn giáo...
Trong lĩnh vực pháp hình sự, nhờ đường lối đúng đắn được xác định
trong các nghị quyết văn kiện của Đảng [6] về quyền pháp, hoạt động
pháp trong suốt 15 năm qua với mục êu bảo vệ công , quyền con
người, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong hoạt động
pháp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng cần phải knhư: công tác
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án việc bắt, giam, giữ, cải tạo được
thực hiện nghiêm minh, dân chủ, công bằng hơn, hạn chế được oan, sai,
bỏ lọt tội phạm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quc tế”[7].
2.1.3. Bảo đảm các quyền về kinh tế xã hội, văn hóa
Bảo đảm các quyền kinh tế, hội và n hóa cũng được thực hiện một
cách ch cực trong triển khai các chương trình, mục êu, chính sách quốc
gia như bảo đảm quyền thoát nghèo; quyn vviệc làm, thu nhập; quyền
sở hữu; an sinh xã hội, quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được
học tập, giáo dục; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa…
Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội đã được phát triển thành mạng lưới
an sinh xã hội, không ngừng mở rộng diện bao phủ các đối tượng an sinh
hội và ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của các đối tượng an sinh xã hội.
Điều y phản ánh nét qua những chuyển biến ch cực trên các phương
diện như: Hệ thống bảo hiểm xã hội; hệ thống hỗ trgiải quyết việc làm;
hệ thống trợ giúp xã hội; hệ thống chính sách ưu đãi cho người có công và
hệ thống bảo đảm ếp cận các dịch vụ hội bản (như giáo dục, y tế,
nhà ở, thông n, giao thông, nước sạch, v.v.) ngày càng được cải thiện về
chất lượng cũng nquy dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tối
thiểu của đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân tại các vùng sâu,
vùng xa, miền núi, hải đảo, những địa bàn đặc biệt khó khăn.
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân
dân trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm
1992, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong
lOMoARcPSD| 46342985
đó thể knhư Bộ Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật
Giáo dục (1998), Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật
Phổ cập giáo dục ểu học (1991), Pháp lệnh về người tàn tật (1998)
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, hội, văn hóa được cụ thtrong
các quyền êu biểu nhất:
Bảo đảm quyền làm việc: ớc ta, quyền làm việc được ghi nhận
trong các bản Hiến pháp được Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động
quyền nghĩa vcủa công dân. Nhà nước hội kế hoạch tạo
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” (Điều 55).
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, từ khi đổi mới đến nay,
Nhà nước đã xây dựng thực hiện hàng loạt chính sách, chương trình
kinh tế hội nhằm thúc đy việc bảo đảm quyền làm việc, tập trung vào
việc mở mang, phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trcác
doanh nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao
động…
Bảo đảm quyền được ếp cận với giáo dục: Ngay từ khi mới giành
được độc lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được ếp cn
với giáo dục của nhân dân. Cương lĩnh y dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH do Đảng đề ra năm 1991 xác định giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Quan điểm này được thể chế hóa trong Điều 35 Hiến pháp năm
1992: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đây là cơ sở tư tưởng
cho việc hiện thực hóa quyền được ếp cận với giáo dục của nhân dân
trong thời kỳ mới. Đến nay 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mm
non cho tr em năm tuổi và phổ cập giáo dục u hc.
Bên cạnh quy định ktrên, Hiến pháp năm 1992 cũng nêu , học tập
là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 59), đồng thời xác định nghĩa v
của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền y (Điều 36). Trên sở đó, một
loạt các văn bản pháp luật khác được ban hành nhằm cụ thể hóa việc bo
đảm quyền được ếp cận với giáo dục, trong đó quan trọng nhất Luật
Giáo dục (năm 1998).
Bảo đảm quyền được chăm c y tế: Tkhi đổi mới đến nay, cũng giống
như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về ớng ếp cn
việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hoàn toàn của
Nhà nước sang hình thức Nhà nước nhân dân cùng làm, đa dạng hóa
lOMoARcPSD| 46342985
các loại hình dịch vy tế, thực hiện chế độ BHYT, tạo điều kiện để mọi
người dân được chăm sóc sức khỏe. Sự chuyển đổi này không có nghĩa là
Nhà nước giảm bớt sự quan tâm đến việc bảo đảm quyền được chăm sóc
y tế của nhân dân, ngược lại, Nhà nước vẫn thừa nhận nỗ lực bảo
đảm quyền này, nhưng theo một cách thức phù hợp và hiệu quả hơn.
Ngoài sự phát triển các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe trực ếp,
Việt Nam còn thi hành nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức khỏe của người
dân, ngăn ngừa bệnh tật từ xa như chương trình cung cấp nước sạch
vệ sinh nông thôn. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch tăng lên qua các
năm.
Quyền được bảo đảm hội: Tkhi đổi mới, Đảng Nhà nước chủ
trương đổi mới chính sách bảo đảm hội theo hướng mọi người lao động
và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp
BHXH, tách quỹ BHXH với công nhân, viên chức nhà nước và những người
làm công ăn lương ra khỏi ngân sách theo hướng hội hóa công c
BHXH. Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quy định thời gian
lao động, chế độ ền lương, chế độ nghỉ ngơi chế độ BHXH đối với viên
chức nhà nước những người làm công ăn lương, khuyến khích phát
triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động. Ban hành Lut
BHXH (2006), hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 đối với BHXH bắt buộc,
từ ngày 1/1/2008 đối với BHXH tự nguyện từ ngày 1/1/2009 đối với bảo
hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm y tế được phát triển, mở rộng. Số ợng người tham gia bảo
hiểm y tế đã tăng từ 3,8 triệu (chiếm 5,4% dân số) năm 1993 lên gần 88
triệu người (gần 91% dân số) năm 2020.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vừa qua, Chính phủ đã kịp thời ban
hành nhiều chính sách chưa ền lệ [8] về bảo đảm quyền lợi của những
người bị tác động của đại dịch thông qua các gói an sinh hội hỗ tr
người dân vượt qua kkhăn trong đại dịch bằng những gói phúc lợi hàng
chục ngàn tỷ đồng [9], bảo đảm các quyền con người bản cho người
dân, đồng thời gia tăng năng lực hoạt động cho hệ thống an sinh hội để
ứng phó hiệu quả với những thách thức mang nh toàn cầu cũng như thiết
lập những bảo đảm cần thiết cho sphát triển bền vững với tầm nhìn
trung và dài hạn.
lOMoARcPSD| 46342985
Hiện nay, so với 20 năm trước đổi mới, đời sống của đại bộ phận người
dân Việt Nam đã được cải thiện rệt với sliên tục cải thiện các chỉ số
quan trọng liên quan đến con người như chỉ số phát triển con người (HDI)
(Việt Nam hiện xếp thứ 115/191 quốc gia), chỉ số bất bình đẳng giới (GII),
tuổi thọ bình quân đầu người, thu nhập bình quân đầu người... Việt Nam
cũng một trong những quốc gia hoàn thành sớm Mục êu phát triển
thiên niên kỷ của LHQ (MDGs). Theo xếp hạng của LHQ năm 2020 về thc
hiện SDGs, Việt Nam xếp thứ 51/193 quốc gia thành viên của LHQ, đt
thành ch cao hơn so với nhiều nước trong khu vực.
Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân
6,8%/năm. Năm 2020, mặc chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh,
nhưng tăng trưởng cả năm vẫn đạt 2,91%; một trong những quốc gia
tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế gii.
Một trong những thành tựu nổi bật nhất của Việt Nam bảo đảm quyền
con người đạt được những ến bộ ợt bậc về xóa đói giảm nghèo, phát
triển con người và chất lượng cuộc sống. Tính đến cuối năm 2020 tỷ lệ hộ
nghèo còn 2,75% (theo chuẩn nghèo ếp cận đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016-2020). Việt Nam quốc gia đạt được kết quả ấn tượng trong
việc thực hiện mục êu thiên niên kỷ về giảm nghèo, được cộng đồng quốc
tế ghi nhận.
Trên lĩnh vực văn hóa, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” được đy mạnh; Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về
công nhận các danh hiệu văn hóa; Việt Nam có nhiều di sản được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại…
Nói đến thành tựu bảo đảm quyền con người không thể không nói ti
những nỗ lực của Nnước Việt Nam trong chăm sóc, bảo đảm quyền của
nhóm xã hội dễ bị tổn thương, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật.
Phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người
dân tộc thiểu số, người HIV/AIDS…luôn chiếm một vị trí quan trọng
trong quá trình thực thi quan điểm, chtrương của Đảng, chính sách,
pháp luật của nnước. Trên thực tế quyn của các nhóm này đã đạt được
nhiều kết quả ch cực xét theo các êu chí, như: chống phân biệt đối xử;
tăng cường mức đsẵn của các dịch vụ; khả năng ếp cận bình đẳng
chất lượng các dịch vụ, cơ hội; mức độ bao phủ của hthống bảo hiểm
lOMoARcPSD| 46342985
hội; chi phí phù hợp… Tại kỳ bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, (nhiệm
kỳ 2021-2026), số ợng nữ đại biểu Quốc hội 151 người, chiếm
30,26% (đạt cao nhất từ trước đến nay[10]); Tlệ dân tộc thiểu số tham
gia Quốc hội khóa XV 89 người, chiếm 17,84%[11]. Tnăm học 2017-
2018, đã 22 tỉnh, thành phố tổ chức dạy học ếng dân tộc thiểu s(715
trường); 8 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được đưa thành môn học; 6 bộ
sách giáo khoa được xuất bản bằng ếng dân tộc thiểu số…[12]
Trong số đó, trẻ em ngày càng được chăm sóc bảo vệ tốt hơn để
phát triển toàn diện về thchất, trí tuệ, nh thần; tỷ lệ nữ giới được giáo
dục mọi cấp tăng cao. Các chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo
hội cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế-xã hội
của đất nước. Lao động nữ được quan tâm nhiều hơn trong thời kỳ thai
sản và tuổi nghỉ hưu. Người khuyết tật được quan tâm, giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi để đưc học văn hóa, được ưu ên bố trí việc làm…
Mục êu “không ai bị bỏ lại phía sau”xuyên suốt, nhất quán, đưc
Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị thực hiện triệt để, hiệu quả ngay từ
khi đại dịch COVID-19 xuất hiện. n thế, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định
con người vừa mục êu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tquốc, “lấy người dân là trung tâm phục vụ, là chủ thể phòng, chống
dịch”, “chiến thắng dịch bệnh là chiến thắng của nhân dân.
Không chtrong thiên tai, thảm họa, dịch bệnh bất luận trong hoàn
cảnh nào, người dân luôn được cấp ủy, chính quyền và các lực lượng chức
năng bảo vệ, bảo đảm cả về nh mạng, tài sản và điều kiện sống.
2.2. Mặt hạn chế
Mặc về bản nước ta đã đảm bảo được bản các quyền con
người trên, không mâu thuẫn với các êu chuẩn quốc tế về nhân quyền,
thậm chí mức ến bộ so với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong vic
bảo đảm quyền con người ớc ta hiện nay vẫn còn một số tồn tại nhất
định
Trước ên, về nhận thức của cán bộ, công chức còn hạn chế. Thực tế
cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ớc ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp
pháp của công dân, đặc biệt ở một số quan công quyền và một số
quan tư pháp. Shạn chế về nhận thức không chỉ chkhông hiểu biết
lOMoARcPSD| 46342985
các quy định của luật pháp quốc tế và nghĩa vcủa Việt Nam với cách
quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người,
còn cưa hiểu biết đầy đủ sứ mệnh phục vụ nhân dân trong thực thi công
vụ những yêu cầu bản về nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt
Nam. Không hiểu rõ chính sách, pháp luật và nhận thức hạn chế vquyn
con người một nguyên nhân của căn bệnh quan liêu hành chính cách
điều hành tùy ện đxảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế ảnh hưởng
đến việc thụ ởng quyền của người dân, thách thức lớn với sự vận
hành của chế bảo đảm thực hiện phát triển quyền con người.Nguyên
nhân của sự hạn chế này là do công tác giáo dục, tuyên truyền và đào to
đội ngũ cán bộ về nhân quyền chưa được đảm bảo.
Sự tham gia của các cơ quan thông n đại chúng trong hoạt động tuyên
truyền đấu tranh chống vi phạm nhân quyền cũng còn nhiều bất cập.
Các phương tiện thông tin đại chúng nước ta hiện nay chủ yếu đcập đến
vấn đề nhân quyền dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền
để chống phá ta của các thế lực phản động, thù địch. Nhân quyền được coi
là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được
đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thêm
vào đó shạn chế về tự do ngôn luận, Chính phủ Việt Nam thường áp
đặt các hạn chế nghiêm ngặt đối với tự do ngôn luận, bao gồm việc kiểm
duyệt kiểm soát nội dung trên internet, đặc biệt những nội dung
được cho là phản động hoặc xúc phạm chính quyền.
Ngoài ra, cơ chế bảo đam nhân quyền chưa hiệu quả. Hiện nay, nước
ta vẫn chưa một quan chuyên trách vvấn đề thúc đẩy bảo vệ
nhân quyền; chưa một quy chế chặt chẽ trong việc xử các tố cáo
vi phạm nhân quyền. Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, trong
lĩnh vực quyền con người nói riêng, còn chưa đồng bộ, chỗ còn chồng
chéo, mâu thuẫn dn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai, trong quá trình vận
d ụng và th ực thi pháp luật. Đây chính là vật cản ln đối với sự phát triển
của xã hội cũng như trong việc bảo đảm thực hiện, phát triển con người
Hơn thế nữa còn có sự thiếu hụt các ngun vật chất bảo đảm. Mặc dù
đòi hỏi mức đkhác nhau, song việc bảo đảm bất cứ quyền con người
nào cũng không thể tách rời các điều kiện vt chất. Do những khó khăn v
kinh tế, ớc ta hiện nay còn thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải quyết
việc làm cho các đối tượng: những người bnhiễm HIV/AIDS, những người
làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù…
lOMoARcPSD| 46342985
Tiểu kết chương II
Hiện nay tại Việt Nam, bảo vệ quyền con người đang chịu sự ảnh
ởng của nhiều yếu tố. Mặc dù đã có những ến bộ đáng kể trong việc
thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, nhưng vn tn ti
nhiều thách thức. Tóm lại, mặc dù còn nhiều hạn chế và thách thức, việc
bảo vệ quyền con người Việt Nam đang dần có sự ến bnhờ vào
những nỗ lực từ cả phía chính quyền và các tổ chức xã hội dân sự. Việc
ếp tục nỗ lực và cải thiện hthống pháp luật và thực thi quyền con
người là cần thiết để đảm bảo sự công bằng và tự do cho tất cả người
dân.
CHƯƠNG III.
GIẢI PHÁP BẢO VỆ, BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯI VIỆT NAM
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ
mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng một trong những nội dung và đặc
trưng rất bản quan trọng của Nnước pháp quyền XHCN chúng
ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu hội nhập
quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ
bản của nhân công dân phải được tôn trọng tăng cường hơn nữa.
Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa
quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải
pháp.
3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Tiếp tục xây dựng hoàn thiện các thiết chế pháp luật và xã hội, trên
sHiến pháp m 2013, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người;
nghiên cứu các phương án sắp xếp tổ chức lại quan nhân quyền quốc
gia Việt Nam hiện nay; trong đó ưu ên 2 phương án: thành lập “Hội
nhân quyền Việt Nam” ếp tục y dựng, hoàn thiện quan nhân
quyền chuyên trách cho đối tượng phụ nữ và trẻ em nkhuyến nghị của
ASEAN.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ớc ta
và trong các Văn kin Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X đều xác định: Nnước ta định ra các đạo luật quy định quyền con
người, quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước
cần ưu ên y dựng các luật về quyền công dân.nước ta, tồn tại một
lOMoARcPSD| 46342985
nguyên tắc Hiến định: các quyền con người, quyền nghĩa vụ của công
dân được quy định trong Hiến pháp và Luật. Nthế, các quyền được quy
định trong Hiến pháp tạo thành hthống các quyền và nghĩa vụ cơ bản có
nh nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định trong luật, một mặt,
là cụ thhóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển và bổ sung
thêm những quyền mới. Vì vậy, y dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi tăng cường hoạt động
lập pháp của Quốc hội như là điều kiện ên quyết để bảo đảm quyền con
người.
Để làm được điều đó, cần sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện sâu
sắc hệ thống pháp luật hiện nh, sự phân ch, so sánh đối chiếu với
các quy định quốc tế về quyn con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trước mắt, cần tập trung y dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền vkinh tế,
xã hội văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong
hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để
làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc
hệ thống pháp luật hiện hành, sự phân ch, so sánh đối chiếu với các
quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trên sở các quan điểm về y dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra
trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị
cần được chế định thêm, cụ thvà rõ ràng hơn trong Hiến pháp; ến tới
mỗi quyền trong Hiến pháp cần được quy định trong một đạo luật cụ th,
chẳng hạn như quyền được thông n (cần có Luật về thông n); quyn t
do lập hội, hội họp (cần phải sửa đổi luật hiện hành); các quyền tham gia
công việc nhà nước như quy định về trưng cầu dân ý (cần Luật trưng
cầu dân ý); các quy định về dân chủ sở (cần nâng cấp Quy chế dân
chủ ở cơ sở lên thành Luật về dân chủ ở cơ sở…).
Các quyền kinh tế, hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu
tổng kết thực ễn; trên cơ sở đó chế định quyn sở hữu cá nhân cần phi
được quy định cụ thhơn. Vì đây quyền givị trí chi phối các quyền
khác. Theo đó, cần hoàn thiện pháp luật cụ thhóa Điều 58 Hiến pháp
1992, tạo cơ sở phápvững chắc để nhân, công dân tự kiểm soát, bảo
vệ tài sản của mình Nhà nước thông qua công cụ pháp bộ máy
lOMoARcPSD| 46342985
chuyên chính trách nhiệm bảo vệ tài sản của nhân, công dân. Chỉ khi
quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào
sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân
nói chung xuất phát từ đặc thù về thchất, tâm , quyền lợi của trẻ
em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải
được coi đối tượng ưu ên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho vic
hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyn lợi của nhóm đối tượng này là:
Không được bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp
luật; quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế. Đồng thời, từ ch
nghĩa nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”, sớm hoàn thiện nâng lên thành
luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách mạng và người có công với
đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội những tác
động êu cực của nền kinh tế thị trường.
3.2. Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước
Trước mắt và trong thời gian tới đối với n bộ, công chức nhà nước trong
mối quan hệ với nhân dân (quan hệ nhân Nnước) đòi hỏi y dựng
chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước thể phát
huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cthể trách nhiệm cá nhân
của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm
thiểu nguy thể xâm phạm quyền của công dân. Theo đó, pháp lut
phải cụ thhóa mối quan hệ giữa nhân, công dân với Nhà nước. Nhà
ớc tổ chức công quyền, nghĩa người làm công, mang quyền lực
đưc ủy quyền tnhân dân, do đó xác định cụ thcác quyền của công
dân theo hướng công dân quyền được làm tất cả những luật pháp
không cấm, còn cán bộ, công chức nhà nước chỉ được phép làm những gì
mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn
trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người; công dân cũng phải làm
tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp
pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm nh ràng
buộc hai chiều, trước hết nâng cao nh thần trách nhiệm của cán bộ, công
chức phục vnhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng. Trong

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46342985
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TÊN ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP BẢO VỆ, BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN HỌC PHẦN
: LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
MÃ PHÁCH: …………………………………………………………….
Hà Nội – 202 4 lOMoAR cPSD| 46342985 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I ................................................................................................................................ 2
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM ....................................... 2
1.1. Quyền con người ......................................................................................................... 2
1.1.1. Khái niệm về quyền con người .......................................................................... 2
1.1.2. Nguồn gốc của quyền con người ....................................................................... 3
1.1.3. Tính chất của quyền con người ......................................................................... 4
Tiểu kết chương I:............................................................................................................... 6
CHƯƠNG II ............................................................................................................................... 6
THỰC TRẠNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM .................................. 6
2.1. Mặt tích cực ................................................................................................................. 6
2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người ....................................... 6
2.1.2. Bảo đảm các quyền về dân sự, chính trị trong quá trình đổi mới .................... 9
2.1.3. Bảo đảm các quyền về kinh tế xã hội, văn hóa ............................................... 11
2.2. Mặt hạn chế ............................................................................................................... 15
Tiểu kết chương II ............................................................................................................. 17
CHƯƠNG III .............................................................................................................................. 17
GIẢI PHÁP BẢO VỆ, BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM ............................................ 17
3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ............................................................. 17
3.2. Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước ............................... 19
3.3. Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hoá giàu nghèo ... 20
3.4. Chủ động tạo ra các điều kiện và cơ chế để người dân thực hiện tốt nhất quyền và
nghĩa vụ ............................................................................................................................ 21
3.5. Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự ...................... 22
Tiểu kết chương III ........................................................................................................... 23 lOMoAR cPSD| 46342985 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người từ lâu đã là một trong những đề tài được xã hội quan
tâm. Đồng thời hiện nay Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều
thách thức về bảo vệ quyền con người. Quyền lợi của người lao động,
quyền về tôn giáo, quyền sở hữu trí tuệ và tự do ngôn luận vẫn còn nhiều
bất cập. Đây là lý do quan trọng khiến việc nghiên cứu và đề xuất giải
pháp bảo vệ và bảo đảm quyền con người tại Việt Nam trở nên cấp bách.
Đề tài này không chỉ đáp ứng nhu cầu cải thiện về quyền con người từ
chính phủ và xã hội, mà còn phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia. Việc nghiên cứu và áp dụng các giải pháp nhằm tăng
cường hệ thống pháp luật, nâng cao nhận thức cộng đồng và khuyến
khích hoạt động của các cá nhân, tổ chức có thể mang lại hiệu quả lớn
trong việc bảo vệ quyền con người và thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.
2. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 phần như sau
Chương I: LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Chương II: THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chương III: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM, BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1.1. Quyền con người
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa
khác nhau. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người
phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ lOMoAR cPSD| 46342985
quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền
con người (Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR)
thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền
con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees)
có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
(actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của
con người. (1) giáo trình
Bên cạnh định nghĩa trên, còn có những định nghĩa khác về quyền con
người theo các phương diện khác nhau. Nhưng nhìn chung quyền con
người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. (1)
Cho đến nay nguồn gốc về quyền con người vẫn đang tiếp tục được
tranh luận. Tuy nhiên trong các văn kiện pháp luật quốc tế và quốc gia
đều khẳng định rõ rang quyền con người là các quyền tự nhiên, vốn có và
không thể tước bỏ được của mọi cá nhân.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa
nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân
văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi
người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình
nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển
đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù
cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là
quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ
trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Nguồn gốc của quyền con người
Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra
hai quan điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự
nhiên (natural rights) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn
có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành
viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc
vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân,
giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng nhà nước nào. Vì vậy, không một lOMoAR cPSD| 46342985
chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con
người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Hai học giả tiêu biểu cho học thuyết về quyền pháp lý có thể kể là
Edmund Burke (1729-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Edmund
Burke, trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp(Reflections on the
Revolution in France,1770) và Jeremy Bentham, trong tác phẩm Phê phán
học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể tước bỏ(Critique of the
Doctrine of Inalienable, Natural Rights, 1843) cùng cho rằng ý tưởng về
các quyền tự nhiên là vô nghĩa (nonsense uponstilts) và chẳng có quyền
nào lại không thể tước bỏ (inalienable). [1]
Như vậy Quyền con người được hình thành từ hai nguồn gốc: Nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Xét về mặt lịch sử, quyền con người
được nhận thức và được thúc đẩy do thực tiễn bị áp bức, bóc lột và bị tước
đoạt về quyền trong các xã hội có giai cấp. Theo nghĩa này, quyền con
người chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp và chỉ mất đi khi các giai cấp và
điều kiện tồn tại giai cấp không còn; do đó, quyền con người là một phạm
trù lịch sử. Theo nghĩa rộng, quyền con người bắt nguồn từ phẩm giá vốn
có của con người. Chính phẩm giá con người làm nảy sinh những nhu cầu
về quyền. Nhưng chỉ khi nào những nhu cầu về quyền này được xã hội thừa
nhận và bảo vệ mới trở thành quyền.Với cách hiểu này, quyền con người
sẽ tồn tại mãi mãi, gắn liền với sự tồn tại của con người và phát triển cùng
với tiến trình văn minh nhân loại.
1.1.3. Tính chất của quyền con người
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các
tính chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể tước bỏ, tính không thể
phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể như sau: Tính phổ biến (universal)
Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con người là những
gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả
mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì
bất cứ lý do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ
tuổi, thành phần xuất thân...
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về
quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền,
mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Ở đây, mọi thành
viên của nhân loại đều có được công nhận có các quyền con người, song lOMoAR cPSD| 46342985
mức độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng
người, cũng như vào hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá mà người đó đang sống. )
Tính không thể tước bỏ (inalienable)
Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con
người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ
chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Ở đây, khía cạnh
“tuỳ tiện” nói đến giới hạn của vấn đề. Nó cho thấy không phải lúc nào
nhân quyền cũng “không thể bị tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc
biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự
do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống [2]
Tính không thể phân chia
Tính không thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng
các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc
không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ
hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân
phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, tính chất không thể
phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con người đều cần phải được chú
ý quan tâm với mức độ giống hệt nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong từng
bối cảnh cụ thể, cần và có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định,
miễn là phải dựa trên những yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền
đó chứ không phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền đó.
Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh tật,
quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế; còn trong bối
cảnh nạn đói, quyền được ưu tiên phải là quyền về lương thực, thực phẩm.
Ở góc độ rộng hơn, trong một số hoàn cảnh, cần ưu tiên thực hiện quyền
của một số nhóm xã hội
dễ bị tổn thương trong khi vẫn tôn trọng quyền của tất cả các nhóm khác.
Điều này không có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá
trị cao hơn các quyền khác, mà là bởi các quyền đó trong thực tế đang bị
đe doạ hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc
bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên
hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lOMoAR cPSD| 46342985
lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Thực tế cho thấy, để bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền
chính trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm
sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng... vì nếu không, các quyền bầu
cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ.
Tương tự, việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá đều gắn liền
với sự phát triển của các quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả của việc bảo
đảm các quyền dân sự, chính trị chính là sựổn định, lành mạnh và hiệu quả
trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội – yếu tố nền tảng để thúc đẩy các
điều kiện sống về kinh tế, xã hội, văn hoá của mọi người dân.
Tiểu kết chương I:
Nhìn chung, quyền con người là những quyền cơ bản và bất khả xâm
phạm mà mọi người đều được hưởng, đặc biệt là do tính chất con người
và sự đáng kính trọng của họ. Các quyền này bao gồm những quyền cơ
bản như quyền sống, tự do, và sự bình đẳng trước pháp luật.
Một trong những đặc điểm chính của quyền con người là tính bao quát
và không thể cắt cỏi của chúng. Điều này có nghĩa là quyền con người áp
dụng cho tất cả mọi người mà không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới
tính, hoặc bất kỳ điều kiện nào khác. Quyền con người cũng được coi là
bất khả xâm phạm và không thể bị thu hẹp hay từ chối mà không có lý do hợp lý. CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM 2.1. Mặt tích cực
2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người
Quyền con người ở Việt Nam hiện nay nhìn chung đã được đảm bảo
những tiêu chí cơ bản, được nhà nước đặt ra và quy định trong Hiến pháp.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối lOMoAR cPSD| 46342985
đổi mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi
phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua.
Cùng với việc coi trọng vị thế và vai trò của con người, vấn đề quyền
con người cũng được coi trọng và đánh giá tương ứng. Hiến pháp năm 1992
(Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con người và khẳng
định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở
các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” [3] Cùng
với khái niệm quyền con người, các khái niệm có liên quan khác như quyền
bình đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề cập trong
các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước
Nhận thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy
và bảo vệ quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực không
ngừng nghỉ cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người.
Ngay sau khi Việt Nam là thành viên của LHQ (năm 1977), vào những
năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia vào các
công ước quốc tế về quyền con người của LHQ. Vào những năm 1981,
1982 và 1983 Việt Nam đã gia nhập 7 công ước quốc tế về quyền con
người, bao gồm: Công ước quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị tội ác diệt
chủng; Công ước quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị Tội ác A-pacthai; Công
ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD);
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR);
Công ước quốc tế về các kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR); Công ước về
không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với Tội phạm chiến tranh và Tội phạm
chống lại nhân loại; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ (CEDAW).
Tính đến nay (2022), Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước
cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của
ILO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. So với nhiều nước trong khu vực và
các nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số lượng là thành viên
các công ước quốc tế về quyền con người. Ngay cả Mỹ hiện nay vẫn là
nước duy nhất trên thế giới chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về trẻ em lOMoAR cPSD| 46342985
năm 1989. Quốc gia này cũng chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. [4]
Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên,
chúng ta đều cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý
của Nhà nước. Điều này là quan điểm nhất quán, xuyên suốt mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đó là, “Coi trọng chăm
lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng
và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết” [5]
Cùng với việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con
người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật quốc
gia, trong đó tích cực nội luật hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về
quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
Xét riêng trên lĩnh vực lập pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002,
Nhà nước đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn
40 Bộ Luật và Luật, trên 120 Pháp lệnh, gần 850 văn bản pháp luật của
Chính phủ và trên 3.000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành, trong đó đã
“nội luật hóa” một cách toàn diện những công ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của
thế kỷ XX và trong thời kỳ này. Đây là điều mà trong giai đoạn trước hầu
như chúng ta chưa làm được.
Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao của hoạt động lập hiến về quyền con
người, khi dành trọn vẹn 36 điều trong tổng số 120 điều để quy định quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; cùng với các luật, bộ luật được
ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người. Điều này không chỉ xác lập cơ sở pháp lý về các quyền
của chủ thể hưởng quyền (cá nhân, công dân, các nhóm yếu thế trong xã
hội), mà còn đặt nghĩa vụ, trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước và các tổ chức phi nhà nước phải nâng cao tinh thần
trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lý tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người đã được Hiến pháp quy định là Nhà nước có trách nhiệm công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân
(Điều 3 và khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013) lOMoAR cPSD| 46342985
2.1.2. Bảo đảm các quyền về dân sự, chính trị trong quá trình đổi mới
Xét trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền
quan trọng được ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu
tài sản (bao gồm cả tư liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra
nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo luật định; quyền được thông tin
theo luật định; quyền bình đẳng của các tôn giáo; quyền không bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra,
Hiến pháp năm 1992 còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính
đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ,
giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị của công dân, bên
cạnh Hiến pháp năm 1992, chỉ tính trong giai đoạn 1996 -2001, Quốc hội
đã thông qua 40 đạo luật, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 40
Pháp lệnh có liên quan đến vấn đề này, tiêu biểu là Bộ Luật Hình sự; Bộ
Luật Tố tụng hình sự; Bộ Luật Dân sự; Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật
Quốc tịch Việt Nam; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Báo chí; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Pháp lệnh Xuất nhập cảnh,
cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam. Gần đây nhất, ngày
27/5/2004, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Tố tụng dân sự đầu tiên ở Việt
Nam, bổ sung một công cụ pháp lý quan trọng để bảo đảm các quyền dân sự.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự – chính trị ở nước ta được thể hiện một
cách cụ thể: – Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân:
Bình đẳng trong bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt
là bình đẳng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh
vực văn hóa – giáo dục, khoa học – công nghệ như quyền được học tập của
công dân, quyền nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết
quả nghiên cứu của mọi công dân.
– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn
ngừanhững hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm
của con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân
đang thi hành án phạt tù)… lOMoAR cPSD| 46342985
– Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngônluận,
quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo…
Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản luật,
trong đó có những bộ luật liên quan đến đảm bảo quyền con người, như
Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An
ninh mạng… Bằng việc tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng
luật pháp, nhân dân đã thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình; và
các văn bản pháp luật quan trọng đều thể hiện được ý chí, lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân.
Quyền làm chủ của người dân Việt Nam được thể hiện rõ ở: quyền bầu
cử và ứng cử; quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tự do tôn giáo…
Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà nước
ta đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng “Chính phủ
điện tử;” Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm cung
cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực tiếp
với nhân dân, nâng cao hiệu quả tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp.
Các quyền con người về dân sự, chính trị đã được bảo đảm một cách
chủ động trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật. Chẳng hạn, về vấn
đề bảo đảm quyền sống, pháp luật không chỉ quy định trừng phạt nghiêm
khắc các hành vi tước đoạt mạng sống của con người một cách tùy tiện;
nghiêm cấm tra tấn nhục hình; chỉ áp dụng án tử hình với các loại tội đặc
biệt nghiêm trọng nhất.
Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không
áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội...
Việc bảo đảm quyền sống còn được quan tâm về khía cạnh kinh tế, xã
hội thông qua việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững; tăng cường
khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh;
thực hiện các biện pháp cứu trợ khẩn cấp đối với những vùng chịu thiệt
hại nặng do thiên tai, dịch bệnh.
Vì vậy, trong thời kỳ đổi mới tỷ lệ đói nghèo và tỷ lệ tử vong bà mẹ và
trẻ sơ sinh giảm rõ rệt. Hoặc, đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lOMoAR cPSD| 46342985
Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý vững chắc về bảo đảm quyền
này trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và
Nghị định 162/2017 của Chính phủ, lần đầu tiên quy định tổ chức tôn giáo
là pháp nhân phi thương mại. Pháp luật đã điều chỉnh nhiều quy định về
thời gian, thủ tục để tạo thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo...
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, nhờ đường lối đúng đắn được xác định
trong các nghị quyết và văn kiện của Đảng [6] về quyền tư pháp, hoạt động
tư pháp trong suốt 15 năm qua với mục tiêu bảo vệ công lý, quyền con
người, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng cần phải kể như: “công tác
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và việc bắt, giam, giữ, cải tạo được
thực hiện nghiêm minh, dân chủ, công bằng hơn, hạn chế được oan, sai,
bỏ lọt tội phạm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”[7].
2.1.3. Bảo đảm các quyền về kinh tế xã hội, văn hóa
Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng được thực hiện một
cách tích cực trong triển khai các chương trình, mục tiêu, chính sách quốc
gia như bảo đảm quyền thoát nghèo; quyền về việc làm, thu nhập; quyền
sở hữu; an sinh xã hội, quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được
học tập, giáo dục; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa…
Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội đã được phát triển thành mạng lưới
an sinh xã hội, không ngừng mở rộng diện bao phủ các đối tượng an sinh
xã hội và ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của các đối tượng an sinh xã hội.
Điều này phản ánh rõ nét qua những chuyển biến tích cực trên các phương
diện như: Hệ thống bảo hiểm xã hội; hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm;
hệ thống trợ giúp xã hội; hệ thống chính sách ưu đãi cho người có công và
hệ thống bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (như giáo dục, y tế,
nhà ở, thông tin, giao thông, nước sạch, v.v.) ngày càng được cải thiện về
chất lượng cũng như quy mô dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tối
thiểu của đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân cư tại các vùng sâu,
vùng xa, miền núi, hải đảo, những địa bàn đặc biệt khó khăn.
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân
dân trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm
1992, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong lOMoAR cPSD| 46342985
đó có thể kể như Bộ Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật
Giáo dục (1998), Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật
Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Pháp lệnh về người tàn tật (1998)…
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong
các quyền tiêu biểu nhất:
Bảo đảm quyền làm việc: ở nước ta, quyền làm việc được ghi nhận
trong các bản Hiến pháp và được Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động
là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” (Điều 55).
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, từ khi đổi mới đến nay,
Nhà nước đã xây dựng và thực hiện hàng loạt chính sách, chương trình
kinh tế – xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc, tập trung vào
việc mở mang, phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các
doanh nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động…
Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục: Ngay từ khi mới giành
được độc lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được tiếp cận
với giáo dục của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH do Đảng đề ra năm 1991 xác định giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Quan điểm này được thể chế hóa trong Điều 35 Hiến pháp năm
1992: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đây là cơ sở tư tưởng
cho việc hiện thực hóa quyền được tiếp cận với giáo dục của nhân dân
trong thời kỳ mới. Đến nay 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học.
Bên cạnh quy định kể trên, Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ, học tập
là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 59), đồng thời xác định nghĩa vụ
của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền này (Điều 36). Trên cơ sở đó, một
loạt các văn bản pháp luật khác được ban hành nhằm cụ thể hóa việc bảo
đảm quyền được tiếp cận với giáo dục, trong đó quan trọng nhất là Luật Giáo dục (năm 1998).
Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng giống
như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng tiếp cận
việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hoàn toàn của
Nhà nước sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa lOMoAR cPSD| 46342985
các loại hình dịch vụ y tế, thực hiện chế độ BHYT, tạo điều kiện để mọi
người dân được chăm sóc sức khỏe. Sự chuyển đổi này không có nghĩa là
Nhà nước giảm bớt sự quan tâm đến việc bảo đảm quyền được chăm sóc
y tế của nhân dân, mà ngược lại, Nhà nước vẫn thừa nhận và nỗ lực bảo
đảm quyền này, nhưng theo một cách thức phù hợp và hiệu quả hơn.
Ngoài sự phát triển các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe trực tiếp,
Việt Nam còn thi hành nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức khỏe của người
dân, ngăn ngừa bệnh tật từ xa như chương trình cung cấp nước sạch và
vệ sinh nông thôn. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch tăng lên qua các năm.
Quyền được bảo đảm xã hội: Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ
trương đổi mới chính sách bảo đảm xã hội theo hướng mọi người lao động
và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp
BHXH, tách quỹ BHXH với công nhân, viên chức nhà nước và những người
làm công ăn lương ra khỏi ngân sách theo hướng xã hội hóa công tác
BHXH. Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quy định thời gian
lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với viên
chức nhà nước và những người làm công ăn lương, khuyến khích phát
triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Ban hành Luật
BHXH (2006), hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 đối với BHXH bắt buộc,
từ ngày 1/1/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ ngày 1/1/2009 đối với bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm y tế được phát triển, mở rộng. Số lượng người tham gia bảo
hiểm y tế đã tăng từ 3,8 triệu (chiếm 5,4% dân số) năm 1993 lên gần 88
triệu người (gần 91% dân số) năm 2020.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vừa qua, Chính phủ đã kịp thời ban
hành nhiều chính sách chưa có tiền lệ [8] về bảo đảm quyền lợi của những
người bị tác động của đại dịch thông qua các gói an sinh xã hội hỗ trợ
người dân vượt qua khó khăn trong đại dịch bằng những gói phúc lợi hàng
chục ngàn tỷ đồng [9], bảo đảm các quyền con người cơ bản cho người
dân, đồng thời gia tăng năng lực hoạt động cho hệ thống an sinh xã hội để
ứng phó hiệu quả với những thách thức mang tính toàn cầu cũng như thiết
lập những bảo đảm cần thiết cho sự phát triển bền vững với tầm nhìn trung và dài hạn. lOMoAR cPSD| 46342985
Hiện nay, so với 20 năm trước đổi mới, đời sống của đại bộ phận người
dân Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt với sự liên tục cải thiện các chỉ số
quan trọng liên quan đến con người như chỉ số phát triển con người (HDI)
(Việt Nam hiện xếp thứ 115/191 quốc gia), chỉ số bất bình đẳng giới (GII),
tuổi thọ bình quân đầu người, thu nhập bình quân đầu người... Việt Nam
cũng là một trong những quốc gia hoàn thành sớm Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ của LHQ (MDGs). Theo xếp hạng của LHQ năm 2020 về thực
hiện SDGs, Việt Nam xếp thứ 51/193 quốc gia thành viên của LHQ, đạt
thành tích cao hơn so với nhiều nước trong khu vực.
Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân
6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh,
nhưng tăng trưởng cả năm vẫn đạt 2,91%; là một trong những quốc gia
tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những thành tựu nổi bật nhất của Việt Nam bảo đảm quyền
con người là đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói giảm nghèo, phát
triển con người và chất lượng cuộc sống. Tính đến cuối năm 2020 tỷ lệ hộ
nghèo còn 2,75% (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016-2020). Việt Nam là quốc gia đạt được kết quả ấn tượng trong
việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Trên lĩnh vực văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” được đẩy mạnh; Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về
công nhận các danh hiệu văn hóa; Việt Nam có nhiều di sản được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại…
Nói đến thành tựu bảo đảm quyền con người không thể không nói tới
những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong chăm sóc, bảo đảm quyền của
nhóm xã hội dễ bị tổn thương, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật.
Phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người
dân tộc thiểu số, người có HIV/AIDS…luôn chiếm một vị trí quan trọng
trong quá trình thực thi quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước. Trên thực tế quyền của các nhóm này đã đạt được
nhiều kết quả tích cực xét theo các tiêu chí, như: chống phân biệt đối xử;
tăng cường mức độ sẵn có của các dịch vụ; khả năng tiếp cận bình đẳng
và chất lượng các dịch vụ, cơ hội; mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm lOMoAR cPSD| 46342985
xã hội; chi phí phù hợp… Tại kỳ bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, (nhiệm
kỳ 2021-2026), số lượng nữ là đại biểu Quốc hội là 151 người, chiếm
30,26% (đạt cao nhất từ trước đến nay[10]); Tỷ lệ dân tộc thiểu số tham
gia Quốc hội khóa XV là 89 người, chiếm 17,84%[11]. Từ năm học 2017-
2018, đã có 22 tỉnh, thành phố tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số (715
trường); 8 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được đưa thành môn học; 6 bộ
sách giáo khoa được xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số…[12]
Trong số đó, trẻ em ngày càng được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn để
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần; tỷ lệ nữ giới được giáo
dục ở mọi cấp tăng cao. Các chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo cơ
hội cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế-xã hội
của đất nước. Lao động nữ được quan tâm nhiều hơn trong thời kỳ thai
sản và tuổi nghỉ hưu. Người khuyết tật được quan tâm, giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi để được học văn hóa, được ưu tiên bố trí việc làm…
Mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” là xuyên suốt, nhất quán, được
Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị thực hiện triệt để, hiệu quả ngay từ
khi đại dịch COVID-19 xuất hiện. Hơn thế, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, “lấy người dân là trung tâm phục vụ, là chủ thể phòng, chống
dịch”, “chiến thắng dịch bệnh là chiến thắng của nhân dân.”
Không chỉ trong thiên tai, thảm họa, dịch bệnh mà bất luận trong hoàn
cảnh nào, người dân luôn được cấp ủy, chính quyền và các lực lượng chức
năng bảo vệ, bảo đảm cả về tính mạng, tài sản và điều kiện sống. 2.2. Mặt hạn chế
Mặc dù về cơ bản nước ta đã đảm bảo được cơ bản các quyền con
người trên, không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền,
thậm chí là ở mức tiến bộ so với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong việc
bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số tồn tại nhất định
Trước tiên, về nhận thức của cán bộ, công chức còn hạn chế. Thực tế
cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp
pháp của công dân, đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền và một số cơ
quan tư pháp. Sự hạn chế về nhận thức không chỉ ở chỗ không hiểu biết lOMoAR cPSD| 46342985
các quy định của luật pháp quốc tế và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách
là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, mà
còn cưa hiểu biết đầy đủ sứ mệnh phục vụ nhân dân trong thực thi công
vụ và những yêu cầu cơ bản về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Không hiểu rõ chính sách, pháp luật và nhận thức hạn chế về quyền
con người là một nguyên nhân của căn bệnh quan liêu hành chính và cách
điều hành tùy tiện để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế và ảnh hưởng
đến việc thụ hưởng quyền của người dân, là thách thức lớn với sự vận
hành của cơ chế bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người.Nguyên
nhân của sự hạn chế này là do công tác giáo dục, tuyên truyền và đào tạo
đội ngũ cán bộ về nhân quyền chưa được đảm bảo.
Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên
truyền và đấu tranh chống vi phạm nhân quyền cũng còn nhiều bất cập.
Các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay chủ yếu đề cập đến
vấn đề nhân quyền dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền
để chống phá ta của các thế lực phản động, thù địch. Nhân quyền được coi
là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được
đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thêm
vào đó là sự hạn chế về tự do ngôn luận, Chính phủ Việt Nam thường áp
đặt các hạn chế nghiêm ngặt đối với tự do ngôn luận, bao gồm việc kiểm
duyệt và kiểm soát nội dung trên internet, đặc biệt là những nội dung
được cho là phản động hoặc xúc phạm chính quyền.
Ngoài ra, cơ chế bảo đam nhân quyền chưa hiệu quả. Hiện nay, nước
ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ
nhân quyền; chưa có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và
vi phạm nhân quyền. Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, trong
lĩnh vực quyền con người nói riêng, còn chưa đồng bộ, có chỗ còn chồng
chéo, mâu thuẫn dẫn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai, trong quá trình vận
d ụng và th ực thi pháp luật. Đây chính là vật cản lớn đối với sự phát triển
của xã hội cũng như trong việc bảo đảm thực hiện, phát triển con người
Hơn thế nữa còn có sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo đảm. Mặc dù
đòi hỏi ở mức độ khác nhau, song việc bảo đảm bất cứ quyền con người
nào cũng không thể tách rời các điều kiện vật chất. Do những khó khăn về
kinh tế, ở nước ta hiện nay còn thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải quyết
việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm HIV/AIDS, những người
làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù… lOMoAR cPSD| 46342985
Tiểu kết chương II
Hiện nay tại Việt Nam, bảo vệ quyền con người đang chịu sự ảnh
hưởng của nhiều yếu tố. Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong việc
thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, nhưng vẫn tồn tại
nhiều thách thức. Tóm lại, mặc dù còn nhiều hạn chế và thách thức, việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam đang dần có sự tiến bộ nhờ vào
những nỗ lực từ cả phía chính quyền và các tổ chức xã hội dân sự. Việc
tiếp tục nỗ lực và cải thiện hệ thống pháp luật và thực thi quyền con
người là cần thiết để đảm bảo sự công bằng và tự do cho tất cả người dân. CHƯƠNG III.
GIẢI PHÁP BẢO VỆ, BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ
mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc
trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng
ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập
quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ
bản của cá nhân công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa.
Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa
quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các thiết chế pháp luật và xã hội, trên
cơ sở Hiến pháp năm 2013, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người;
nghiên cứu các phương án sắp xếp tổ chức lại cơ quan nhân quyền quốc
gia ở Việt Nam hiện nay; trong đó ưu tiên 2 phương án: thành lập “Hội
nhân quyền Việt Nam” và tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ quan nhân
quyền chuyên trách cho đối tượng phụ nữ và trẻ em như khuyến nghị của ASEAN.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
và trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con
người, quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước
cần ưu tiên xây dựng các luật về quyền công dân.’ nước ta, tồn tại một lOMoAR cPSD| 46342985
nguyên tắc Hiến định: các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công
dân được quy định trong Hiến pháp và Luật. Như thế, các quyền được quy
định trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản có
tính nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định trong luật, một mặt,
là cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển và bổ sung
thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi tăng cường hoạt động
lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu
sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với
các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế,
xã hội và văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã
hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để
làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc
hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các
quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra
trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị
cần được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp; tiến tới
mỗi quyền trong Hiến pháp cần được quy định trong một đạo luật cụ thể,
chẳng hạn như quyền được thông tin (cần có Luật về thông tin); quyền tự
do lập hội, hội họp (cần phải sửa đổi luật hiện hành); các quyền tham gia
công việc nhà nước như quy định về trưng cầu dân ý (cần có Luật trưng
cầu dân ý); các quy định về dân chủ ở cơ sở (cần nâng cấp Quy chế dân
chủ ở cơ sở lên thành Luật về dân chủ ở cơ sở…).
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và
tổng kết thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải
được quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền
khác. Theo đó, cần hoàn thiện pháp luật cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp
1992, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, công dân tự kiểm soát, bảo
vệ tài sản của mình và Nhà nước thông qua công cụ pháp lý và bộ máy lOMoAR cPSD| 46342985
chuyên chính có trách nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân. Chỉ khi
quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào
sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân
nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ
em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải
được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc
hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là:
Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp
luật; quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế. Đồng thời, từ chủ
nghĩa nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”, sớm hoàn thiện nâng lên thành
luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách mạng và người có công với
đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội và những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
3.2. Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong
mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng
chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát
huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân
của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm
thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của công dân. Theo đó, pháp luật
phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với Nhà nước. Nhà
nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực
được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của công
dân theo hướng công dân có quyền được làm tất cả những gì luật pháp
không cấm, còn cán bộ, công chức nhà nước chỉ được phép làm những gì
mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn
trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người; và công dân cũng phải làm
tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng
buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công
chức là phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong