Giải SGK Lịch Sử 9 Cánh diều Bài 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945)

Xin gửi tới quý thầy cô và các em học sinh Giải SGK Lịch sử 9 Bài 4: Chiến tranh thế giới thứ 2(1939- 1945) có đáp án chi tiết cho từng câu hỏi chương trình sách mới. Thông qua đây các em học sinh đối chiếu với lời giải của mình, hoàn thành bài tập hiệu quả và ôn tập đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

I. Nguyên nhân bùng nổ
Câu hỏi trang 17 Lịch Sử 9
Trình bày nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai?
Lời giải chi tiết:
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về thị trường
thuộc địa tiếp tục này sinh. Hai nhóm nước đối lập được hình thành: Anh, Pháp,
Mỹ (thỏa mãn với Trật tự Véc-xai - Oa-sinh-tơn) Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản (bất mãn
với Trật tự Véc-xai - Oa-sinh-tơn). Cuộc đại suy thoái kinh tế 1929 - 1933 khiến
những mâu thuẫn này trở nên sâu sắc , dẫn đến sự thắng thế của chủ nghĩa phát xít
Đức sự phục hồi của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Đức, Nhật Bản cùng với
I-ta-li-a chủ trương gây chiến tranh, nhằm chia lại thị trường thuộc địa trên thế
giới.
- Trong khi đó, các nước đế quốc cùng mâu thuẫn với Liên nên tiến hành
lập tìm cách tiêu diệt nhà nước hội chủ nghĩa. Trước những hành động xâm
lược của Đức châu u trong những năm 30 của thế kỷ XX, Anh, Pháp thực hiện
chính sách dung dưỡng, thoả hiệp với chủ nghĩa phát xít, nhằm chĩa mũi nhọn chiến
tranh về phía Liên Xô.
II. Diễn biến chính
Câu hỏi trang 18 Lịch Sử 9
Trình bày diễn biến chính của Chiến tranh thế giới thứ hai?
Lời giải chi tiết:
- Chiến tranh thế giới thứ hai lôi cuốn phần lớn các quốc gia vào quỹ đạo cuộc
chiến, chủ yếu giữa Đức, I-ta-li-n, Nhật Bản Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp. Chiến sự
diễn ra trên toàn thế giới, nhưng khốc liệt nhất chiến trường châu Âu châu Á -
Thái Bình Dương. Chiến tranh kéo dài từ tháng 9-1939 đến tháng 8-1945, chia
thành hai giai đoạn.
- Giai đoạn 1: Chiến tranh bùng nổ lan rộng ra toàn thể giới (1939 - 1941)
Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan, châm ngòi cho sự bùng nổ của Chiến tranh
thế giới thứ hai. mặt trận Tây Âu, bằng chiến thuật chớp nhoáng. Đức tổ chức
tổng tấn công, chiếm được hầu hết các nước châu Âu, ngoại trừ Anh một vài
nước trung lập. Tháng 6-1941, Đức tấn công tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô.
mặt trận Bắc Phi, tháng 9-1940, I-ta-li-a tấn công quân Anh Ai Cập. mặt trận
châu Á - Thái Bình Dương. Nhật Bản tiếp tục xâm lược Trung Quốc, kéo quân vào
Đông Dương (9-1940) các nước Đông Nam Á khác. Ngày 7-12-1941, quân Nhật
bất ngờ tấn công căn cứ quân sự của Mỹ tại Trân Châu Cảng (Thái Bình Dương).
Chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới.
- Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công, chiến tranh kết thúc (1942 - 1945)
- Tháng 11-1942, quân đội Liên mở chiến dịch phản công Xta-lin-grát giành
thắng lợi (2-1943), tạo ra bước ngoặt, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Từ
đây, quân Đồng minh chuyển từ giai đoạn phòng ngự sang giai đoạn phản công.
Châu Âu tháng 9-1943, phát xít I-la-li-a đầu hàng. Ngày 6-0-1944, quân Đồng minh
mở mặt trận thứ hai Tây Âu, đổ bộ vào Noóc-măng-đi, giải phóng nước Pháp.
mặt trận phía đông, cuối năm 1944, quân đội Liên đầy lùi quân Đức ra khỏi lãnh
thổ, tiền quân giải phóng các nước Đông Âu, rồi tiến vào Đức. Từ ngày 16-4 đến
ngày 9-5-1945, Hồng quân Liên tiến hành chiến dịch Béc-lin, đánh bại buộc
phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, ngày
8-8-1945, Liên tuyên chiến với Nhật ngày 9-8 tiến đánh hơn 1 triệu quân Nhật
tại vùng Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 6 9-8-1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống
Hi-rô-si-ma Na-ga-sa-ki của Nhật Bản. Ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng quân
Đồng minh không điều kiện, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
III. Hậu quả
Câu hỏi trang 18 Lịch Sử 9
Phân tích hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai đối với lịch sử nhân loại?
Lời giải chi tiết:
- Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây ra hậu quả năng nẽ về sinh mạng vật chất
đối với toàn nhân loại.
- Hơn 1.7 tỉ người của hơn 70 quốc gia bị lôi kéo vào cuộc chiến, trong đó khoảng
60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế. Riêng Liên co hon 27 triệu người
chết.
- Hàng nghìn thành phố, làng mạc, sở kinh tế trên thế giới bị phá hủy. Thiệt hại
về vật chất trong Chiến tranh thế giới thứ hai bằng tất cả các cuộc chiến tranh của
1.000 năm trước cộng lại.
IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, vai trò của
Liên các nước khác thuộc phe Đồng minh trong
chiến thắng chủ nghĩa phát xít
Câu hỏi trang 19 Lịch Sử 9
Nêu nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, vai trò của Liên các nước khác
thuộc phe đồng minh trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít?
Lời giải chi tiết:
- Chủ nghĩa phát xít bị đánh bại nhờ sự đoàn kết trong phe Đồng minh, đặc
biệt sự phối hợp chiến đấu của quân đội Liên Xô, Mỹ Anh. Chiến thắng này
còn sự đóng góp của nhân dân các nước bị quân phát xít chiếm đóng. Đây cũng
thắng lợi của tính chính nghĩa, chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa do Đức,
I-ta-li-a Nhật Bản phát động.
- Chiến thắng chống chủ nghĩa phát xít của Liên các nước khác thuộc phe
Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai giúp nhân loại tránh khỏi thảm họa bị
diệt vong bởi chủ nghĩa phát xít; tạo ra thời cho các nước thuộc địa phụ thuộc
đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiêu biểu In-đô-nê-xi-a, Việt Nam, Lào;
đồng thời thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa hội, tạo điều kiện cho sự hình
thành hệ thống hội chủ nghĩa trên thế giới.
- Liên Xô, Mỹ, Anh giữ vai trò trụ cột quyết định đối với chiến thắng chống chủ
nghĩa phát xít, trong đó Liên nước đi đầu. Bên cạnh đó, các lực lượng yêu
chuộng hòa bình, các mặt trận đoàn kết chống phát xít trên thế giới cũng góp phần
vào việc tiêu diệt một bộ phận quân đội của phe phát xít.
Luyện tập - Vận dụng
Luyện tập 1 trang 19 Lịch Sử 9:
Lập bảng tóm tắt về nguyên nhân bùng nổ, diễn biến hậu quả của Chiến tranh
thế giới thứ hai vào vở ghi.
Trả lời:
Nội dung
Nguyên
nhân
- Sự phát triển không đồng đều về kinh tế chính trị giữa các
nước bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa đã làm so sánh lực
lượng giữa các nước thay đổi căn bản.
- Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 làm sâu sắc
thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa bản.
- Chính sách thỏa hiệp, nhượng bộ của các nước phương Tây
nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên đã tạo điều kiện
cho phe phát xít gây chiến.
Diễn biến
- Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra trong 6 năm, từ tháng 9/1939
đến tháng 8/1945, chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Chiến tranh bùng nổ lan rộng khắp thế giới
(1/9/1939 - tháng 11/1942)
+ Giai đoạn 2: Quân Đồng minh chuyển sang phản công, chiến
tranh kết thúc (tháng 11/1942 đến tháng 8/1945)
Hậu quả
- Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại những hậu quả nặng nề cho
nhân loại.
+ Lôi cuốn khoảng 76 quốc gia vào vòng khói lửa
+ Số quân được huy động tham gia vào chiến tranh lên tới 110
triệu người
+ Khiến cho 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương thiệt
hại về vật chất lên tới 4000 tỉ USD
Vận dụng 2 trang 19 Lịch Sử 9:
Sưu tầm liệu (bài viết, phim, tranh ảnh, câu chuyện nhân chứng,...) về một trong
những chiến thắng tiêu biểu của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Giới thiệu liệu đó với thầy bạn học.
Trả lời:
(*) Tham khảo: liệu về chiến thắng Xtalingrat của Hồng quân Liên
Mùa năm 1942, tranh thủ thời chưa phải đối phó với mặt trận phía tây, phát
xít Đức mở cuộc tiến công lớn cánh phía nam mặt trận - Đức hòng nhanh
chóng đánh chiếm vùng dầu lửa Capcadơ các dải đất phì nhiêu của sông Đông,
Cuban Hạ Vonga.
Trước tình hình đó, Tổng hành dinh quân đội viết đã thành lập Phương diện
quân Xtalingrat, đảm nhiệm phòng ngự trên mặt trận chính diện với chiều dài toàn
tuyến 520km, nhằm chặn đứng cuộc tiến công của địch khu vực Xtalingrat, tạo
điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công.
Ngày 17-7-1942, chiến dịch phòng ngự bắt đầu. Quân đội phát xít cố gắng tiến công
thọc hậu từ hai bên sườn bao vây quân đội Liên Calaxơ, rồi từ đó tiếp tục tiến
công vào Xtalingrat. Các tập đoàn quân 62 64 Hồng quân đã phòng ngự rất
ngoan cường cùng các tập đoàn quân T4 4 liên tục phản kích, làm phá sản ý
định ban đầu của địch.
Trong tháng 8/1942, Bộ chỉ huy quân sự Đức đã điều thêm lực lượng đến bổ sung,
đưa quân số tham chiến tại mặt trận Xtalingrat lên đến 80 đoàn. Ngày 23-8, cùng
với tiến công trên mặt đất, địch đã dùng trên 2.000 lần chiếc máy bay ném bom tàn
phá thành phố. Quân đội viết đã đưa vào chiến đấu lực lượng dự bị gồm Tập
đoàn quân 24, 66 sau đó Tập đoàn quân CV1 cùng Phương diện quân
Xtalingrat Sông Đông liên tục phản đột kích, chặn đứng quân địch ngoại ô
thành phố. Từ ngày 12-9, địch tiến công mãnh liệt từ các hướng tây - tây bắc tây
nam. Các trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trên từng đường phố, từng căn nhà.
Địch tập trung mọi nỗ lực cao nhất để đánh chiếm thành phố nhưng không kết quả,
lại bị tổn thất quá nhiều, kiệt sức, phải dừng lại.
Ngày 18-11-1942, chiến dịch phòng ngự kết thúc. Hồng quân đã loại khỏi vòng chiến
đấu gần 700.000 tên địch, phá huỷ 2.000 pháo, cối, 1.000 xe tăng 1.400 máy bay,
chặn đứng được cuộc tiến công của địch chuyển sang phản công.
Ngày 19-11-1942, các Phương diện quân Tây Nam Sông Đông, ngày 20-11,
Phương diện quân Xtalingrat bắt đầu những đòn đột kích vào trận địa phòng ngự
địch, đã đẩy quân địch lùi sâu từ 15 - 20km. Ngày 23-11, bằng các cánh vu hồi
của các quân đoàn tăng thuộc các phương diện quân Tây Nam Xtalingrat, cụm
22 đoàn (330.000 quân) địch đã bị hợp vây. Giai đoạn 1 chiến dịch phản công
hoàn thành, từ đây quyền chủ động chiến lược trên cánh Nam mặt trận - Đức
(gồm vùng Capcadơ Xtalingrat) chuyển vào tay quân đội viết.
Trong tháng 12/1942, những nỗ lực mới của địch nhằm giải vây cho cụm quân
Xtalingrat đều hiệu.
Cuộc công kích tiêu diệt cụm địch bị hợp vây được tiến hành từ 10-1-1943, sau khi
tối hậu thư của Hồng quân bị địch bác bỏ. Phương diện quân Sông Đông đảm
đương nhiệm vụ này, đến cuối tháng 1 đã chia cắt tập đoàn địch làm hai phần.
Ngày 31-1, cụm phía nam do Thống chế Paolut trực tiếp chỉ huy đã đầu hàng. Ngày
2-2, cụm phía Bắc chấm dứt kháng cự. Chiến dịch phản công kết thúc thắng lợi với
việc Phương diện quân Sông Đông đã bắt 91.000 địch đầu hàng tiêu diệt
147.000 tên khác.
| 1/5

Preview text:

I. Nguyên nhân bùng nổ
Câu hỏi trang 17 Lịch Sử 9
Trình bày nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai? Lời giải chi tiết:
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về thị trường
và thuộc địa tiếp tục này sinh. Hai nhóm nước đối lập được hình thành: Anh, Pháp,
Mỹ (thỏa mãn với Trật tự Véc-xai - Oa-sinh-tơn) và Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản (bất mãn
với Trật tự Véc-xai - Oa-sinh-tơn). Cuộc đại suy thoái kinh tế 1929 - 1933 khiến
những mâu thuẫn này trở nên sâu sắc , dẫn đến sự thắng thế của chủ nghĩa phát xít
Đức và sự phục hồi của chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật Bản. Đức, Nhật Bản cùng với
I-ta-li-a chủ trương gây chiến tranh, nhằm chia lại thị trường và thuộc địa trên thế giới.
- Trong khi đó, các nước đế quốc cùng có mâu thuẫn với Liên Xô nên tiến hành cô
lập và tìm cách tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước những hành động xâm
lược của Đức ở châu u trong những năm 30 của thế kỷ XX, Anh, Pháp thực hiện
chính sách dung dưỡng, thoả hiệp với chủ nghĩa phát xít, nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô.
II. Diễn biến chính
Câu hỏi trang 18 Lịch Sử 9
Trình bày diễn biến chính của Chiến tranh thế giới thứ hai? Lời giải chi tiết:
- Chiến tranh thế giới thứ hai lôi cuốn phần lớn các quốc gia vào quỹ đạo cuộc
chiến, chủ yếu giữa Đức, I-ta-li-n, Nhật Bản và Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp. Chiến sự
diễn ra trên toàn thế giới, nhưng khốc liệt nhất ở chiến trường châu Âu và châu Á -
Thái Bình Dương. Chiến tranh kéo dài từ tháng 9-1939 đến tháng 8-1945, chia thành hai giai đoạn.
- Giai đoạn 1: Chiến tranh bùng nổ và lan rộng ra toàn thể giới (1939 - 1941)
Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan, châm ngòi cho sự bùng nổ của Chiến tranh
thế giới thứ hai. Ở mặt trận Tây Âu, bằng chiến thuật chớp nhoáng. Đức tổ chức
tổng tấn công, chiếm được hầu hết các nước châu Âu, ngoại trừ Anh và một vài
nước trung lập. Tháng 6-1941, Đức tấn công và tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Ở
mặt trận Bắc Phi, tháng 9-1940, I-ta-li-a tấn công quân Anh ở Ai Cập. Ở mặt trận
châu Á - Thái Bình Dương. Nhật Bản tiếp tục xâm lược Trung Quốc, kéo quân vào
Đông Dương (9-1940) và các nước Đông Nam Á khác. Ngày 7-12-1941, quân Nhật
bất ngờ tấn công căn cứ quân sự của Mỹ tại Trân Châu Cảng (Thái Bình Dương).
Chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới.
- Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công, chiến tranh kết thúc (1942 - 1945)
- Tháng 11-1942, quân đội Liên Xô mở chiến dịch phản công Xta-lin-grát và giành
thắng lợi (2-1943), tạo ra bước ngoặt, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Từ
đây, quân Đồng minh chuyển từ giai đoạn phòng ngự sang giai đoạn phản công. Ở
Châu Âu tháng 9-1943, phát xít I-la-li-a đầu hàng. Ngày 6-0-1944, quân Đồng minh
mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu, đổ bộ vào Noóc-măng-đi, giải phóng nước Pháp. Ở
mặt trận phía đông, cuối năm 1944, quân đội Liên Xô đầy lùi quân Đức ra khỏi lãnh
thổ, tiền quân giải phóng các nước Đông Âu, rồi tiến vào Đức. Từ ngày 16-4 đến
ngày 9-5-1945, Hồng quân Liên Xô tiến hành chiến dịch Béc-lin, đánh bại và buộc
phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. Ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, ngày
8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và ngày 9-8 tiến đánh hơn 1 triệu quân Nhật
tại vùng Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 6 và 9-8-1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống
Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki của Nhật Bản. Ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng quân
Đồng minh không điều kiện, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. III. Hậu quả
Câu hỏi trang 18 Lịch Sử 9
Phân tích hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai đối với lịch sử nhân loại?
Lời giải chi tiết:
- Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây ra hậu quả năng nẽ về sinh mạng và vật chất
đối với toàn nhân loại.
- Hơn 1.7 tỉ người của hơn 70 quốc gia bị lôi kéo vào cuộc chiến, trong đó có khoảng
60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế. Riêng Liên Xô co hon 27 triệu người chết.
- Hàng nghìn thành phố, làng mạc, cơ sở kinh tế trên thế giới bị phá hủy. Thiệt hại
về vật chất trong Chiến tranh thế giới thứ hai bằng tất cả các cuộc chiến tranh của
1.000 năm trước cộng lại.
IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, vai trò của
Liên Xô và các nước khác thuộc phe Đồng minh trong
chiến thắng chủ nghĩa phát xít

Câu hỏi trang 19 Lịch Sử 9
Nêu nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, vai trò của Liên Xô và các nước khác
thuộc phe đồng minh trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít? Lời giải chi tiết:
- Chủ nghĩa phát xít bị đánh bại là nhờ có sự đoàn kết trong phe Đồng minh, đặc
biệt là sự phối hợp chiến đấu của quân đội Liên Xô, Mỹ và Anh. Chiến thắng này
còn có sự đóng góp của nhân dân các nước bị quân phát xít chiếm đóng. Đây cũng
là thắng lợi của tính chính nghĩa, chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa do Đức,
I-ta-li-a và Nhật Bản phát động.
- Chiến thắng chống chủ nghĩa phát xít của Liên Xô và các nước khác thuộc phe
Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai giúp nhân loại tránh khỏi thảm họa bị
diệt vong bởi chủ nghĩa phát xít; tạo ra thời cơ cho các nước thuộc địa và phụ thuộc
đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiêu biểu là In-đô-nê-xi-a, Việt Nam, Lào;
đồng thời thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cho sự hình
thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
- Liên Xô, Mỹ, Anh giữ vai trò trụ cột và quyết định đối với chiến thắng chống chủ
nghĩa phát xít, trong đó Liên Xô là nước đi đầu. Bên cạnh đó, các lực lượng yêu
chuộng hòa bình, các mặt trận đoàn kết chống phát xít trên thế giới cũng góp phần
vào việc tiêu diệt một bộ phận quân đội của phe phát xít.
Luyện tập - Vận dụng
Luyện tập 1 trang 19 Lịch Sử 9:
Lập bảng tóm tắt về nguyên nhân bùng nổ, diễn biến và hậu quả của Chiến tranh
thế giới thứ hai vào vở ghi. Trả lời: Nội dung Nguyên
- Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị giữa các nhân
nước tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa đã làm so sánh lực
lượng giữa các nước thay đổi căn bản.
- Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 làm sâu sắc
thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
- Chính sách thỏa hiệp, nhượng bộ của các nước phương Tây
nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô đã tạo điều kiện
cho phe phát xít gây chiến.
Diễn biến - Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra trong 6 năm, từ tháng 9/1939
đến tháng 8/1945, chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Chiến tranh bùng nổ và lan rộng khắp thế giới (1/9/1939 - tháng 11/1942)
+ Giai đoạn 2: Quân Đồng minh chuyển sang phản công, chiến
tranh kết thúc (tháng 11/1942 đến tháng 8/1945) Hậu quả
- Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại những hậu quả nặng nề cho nhân loại.
+ Lôi cuốn khoảng 76 quốc gia vào vòng khói lửa
+ Số quân được huy động tham gia vào chiến tranh lên tới 110 triệu người
+ Khiến cho 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương và thiệt
hại về vật chất lên tới 4000 tỉ USD
Vận dụng 2 trang 19 Lịch Sử 9:
Sưu tầm tư liệu (bài viết, phim, tranh ảnh, câu chuyện nhân chứng,...) về một trong
những chiến thắng tiêu biểu của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Giới thiệu tư liệu đó với thầy cô và bạn học. Trả lời:
(*) Tham khảo:
Tư liệu về chiến thắng Xtalingrat của Hồng quân Liên Xô
Mùa Hè năm 1942, tranh thủ thời cơ chưa phải đối phó với mặt trận phía tây, phát
xít Đức mở cuộc tiến công lớn ở cánh phía nam mặt trận Xô - Đức hòng nhanh
chóng đánh chiếm vùng dầu lửa Capcadơ và các dải đất phì nhiêu của sông Đông, Cuban và Hạ Vonga.
Trước tình hình đó, Tổng hành dinh quân đội Xô viết đã thành lập Phương diện
quân Xtalingrat, đảm nhiệm phòng ngự trên mặt trận chính diện với chiều dài toàn
tuyến 520km, nhằm chặn đứng cuộc tiến công của địch ở khu vực Xtalingrat, tạo
điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công.
Ngày 17-7-1942, chiến dịch phòng ngự bắt đầu. Quân đội phát xít cố gắng tiến công
thọc hậu từ hai bên sườn bao vây quân đội Liên Xô ở Calaxơ, rồi từ đó tiếp tục tiến
công vào Xtalingrat. Các tập đoàn quân 62 và 64 Hồng quân đã phòng ngự rất
ngoan cường và cùng các tập đoàn quân T4 và 4 liên tục phản kích, làm phá sản ý
định ban đầu của địch.
Trong tháng 8/1942, Bộ chỉ huy quân sự Đức đã điều thêm lực lượng đến bổ sung,
đưa quân số tham chiến tại mặt trận Xtalingrat lên đến 80 sư đoàn. Ngày 23-8, cùng
với tiến công trên mặt đất, địch đã dùng trên 2.000 lần chiếc máy bay ném bom tàn
phá thành phố. Quân đội Xô viết đã đưa vào chiến đấu lực lượng dự bị gồm Tập
đoàn quân 24, 66 và sau đó là Tập đoàn quân CV1 cùng Phương diện quân
Xtalingrat và Sông Đông liên tục phản đột kích, chặn đứng quân địch ở ngoại ô
thành phố. Từ ngày 12-9, địch tiến công mãnh liệt từ các hướng tây - tây bắc và tây
nam. Các trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trên từng đường phố, từng căn nhà.
Địch tập trung mọi nỗ lực cao nhất để đánh chiếm thành phố nhưng không kết quả,
lại bị tổn thất quá nhiều, kiệt sức, phải dừng lại.
Ngày 18-11-1942, chiến dịch phòng ngự kết thúc. Hồng quân đã loại khỏi vòng chiến
đấu gần 700.000 tên địch, phá huỷ 2.000 pháo, cối, 1.000 xe tăng và 1.400 máy bay,
chặn đứng được cuộc tiến công của địch và chuyển sang phản công.
Ngày 19-11-1942, các Phương diện quân Tây Nam và Sông Đông, ngày 20-11,
Phương diện quân Xtalingrat bắt đầu những đòn đột kích vào trận địa phòng ngự
địch, và đã đẩy quân địch lùi sâu từ 15 - 20km. Ngày 23-11, bằng các cánh vu hồi
của các quân đoàn tăng thuộc các phương diện quân Tây Nam và Xtalingrat, cụm
22 sư đoàn (330.000 quân) địch đã bị hợp vây. Giai đoạn 1 chiến dịch phản công
hoàn thành, từ đây quyền chủ động chiến lược trên cánh Nam mặt trận Xô - Đức
(gồm vùng Capcadơ và Xtalingrat) chuyển vào tay quân đội Xô viết.
Trong tháng 12/1942, những nỗ lực mới của địch nhằm giải vây cho cụm quân Xtalingrat đều vô hiệu.
Cuộc công kích tiêu diệt cụm địch bị hợp vây được tiến hành từ 10-1-1943, sau khi
tối hậu thư của Hồng quân bị địch bác bỏ. Phương diện quân Sông Đông đảm
đương nhiệm vụ này, và đến cuối tháng 1 đã chia cắt tập đoàn địch làm hai phần.
Ngày 31-1, cụm phía nam do Thống chế Paolut trực tiếp chỉ huy đã đầu hàng. Ngày
2-2, cụm phía Bắc chấm dứt kháng cự. Chiến dịch phản công kết thúc thắng lợi với
việc Phương diện quân Sông Đông đã bắt 91.000 địch đầu hàng và tiêu diệt 147.000 tên khác.