Giao lưu văn hóa được hiểu sự tiếp xúc văn hóa, trao đổi ảnh hưởng tác động
qua lại giữa các nền văn hóa của các dân tộc khác nhau. Trong thời cổ trung đại,
sự giao lưu văn hóa giữa hai nền văn minh phương Đông phương Tây được diễn
ra thường xuyên và liên tục bằng nhiều con đường: Thương mại, chiến tranh, di
dân; du hành, thám hiểm,… Thông qua đây, giữa hai nền văn minh đã mở mang
được nhiều kiến thức về nhau trong hầu hết các lĩnh vực của hội. Trong những
con đường kể trên, thì tôi đặc biệt ấn tượng với con đường du hành, thám hiểm. Đó
thể chuyến đi của nhân trong trạng thái hòa bình, tự nguyện, do sự mò,
mong muốn được khám phá về những vùng đất xa xôi. Nhưng chính nhờ những
chuyến đi này cũng đã góp phần mang hai nền văn hóa Đông Tây tiến lại gần
nhau hơn.
rất nhiều biểu hiện thông qua con đường du hành, thám hiểm. thể kể đến
những chuyến đi của Pháp Hiển, Marco Polo, Trịnh Hòa hay những cuộc phát kiến
địa vào thế kỉ XV. Sau đây, tôi xin phép được điểm qua một vài nhân vật kể trên
ảnh hưởng từ chuyến đi của họ đến sự giao lưu văn hóa Đông Tây.
Đầu tiên, một nhân vật chúng ta không thể không nhắc đến. Đó chính
Trương Khiên ông được xem người đã đặt nền móng cho con đường lụa
huyền thoại. Ban đầu, ông được Hán Đế cử đi Tây Vực để tìm liên minh chống
lại người Hung Nô, không may ông đã b bắt chịu giam cầm trong suốt 10 năm
trời. Sau đó thì ông trốn được tiếp tục cuộc hành trình về phương Tây xa xôi.
Trở về, Trương Khiên đã tâu lại với Hoàng đế về những ông chứng kiến trên
suốt nh trình của mình. Đế vương vô cùng hài lòng thích thú với những chi
tiết Trương Khiên thuật lại về những vương quốc ông chưa từng biết đến Hoàng
đế đã liên tục gửi người đi với sứ mệnh khám phá con đường lụa huyền thoại.
Thật ngạc nhiên, mỗi lần cho người đi một lần quay trở lại với vô số những món
hàng phương Tây xa hoa n lông thú, nước hoa ngay cả ngựa. Đồng thời, nhu
cầu đối với các sản phẩm phương Đông q giá đặc biệt lụa cũng ngày càng
gia tăng, từ đó dẫn đến những mối quan hệ ngoại giao quan hệ kinh tế giá trị
giữa hai miền Đông Tây.
Tiếp theo đó phải kể đến nhà du hành đại nhất của thế kỉ XIII Marco Polo
( Venice Italia). Trong thời đại những hiểu biết của người phương Tây về
phương Đông huyền vẫn còn hồ thì chuyến đi của Polo sang phương Đông
trong 24 năm đã đặt nền tảng cho những kiến thức dầu tiên của người châu Âu về
phương Đông. Khi Polo đến Trung Quốc, ông đã mang theo bản vẽ của máy bắn
đá để trình lên Hốt Tất Liệt, sau đó đã được người Mông Cổ tiếp thu sử dụng
trong c cuộc chiến của mình. Ông cũng giới thiệu thuốc súng cho người Trung
Quốc, Với điều này, người Trung Quốc đã thể s dụng thuốc súng để chế tạo
không chỉ pháo hoa còn cả khí quân sự. Ngược lại ông cũng mang về từ
Trung Quốc những thứ người châu Âu chưa từng thấy trước đó như La bàn-
thiết bị định vị độc đáo. Nhờ đó thế giới điều hướng khám phá sẽ thay đổi
đối với người châu Âu, giờ đây họ có thể điều hướng cả trên đất liền trên biển
một ch dễ dàng hiệu quả hơn. Ông còn mang theo cả tiền giấy, đồ sứ, lụa thô,
ngà voi. Trong đó tiền giấy đã giúp cho các thương nhân giảm bớt được gánh nặng,
dễ dàng đi lại không phải mang theo những đồng tiền vàng lặt vặt khắp nơi.
phải đặc biệt kể đến cuốn Marco Polo du của ông, đã ảnh hưởng rất lớn đến
các nhà du hành thám hiếm sau này. Colombus một dụ điển hình nhất.
thể k thêm về chuyến đi của nhà thám hiểm người Morrocco - Ibn Battuta.
Ông đi trong vòng 30 năm qua hơn 44 quốc gia. Hay về chuyến đi của đô đốc
Trinh Hòa thời nhà Minh. Tuy nhiên, đây không phải chuyến thám hiểm tới các
vùng đất mới chỉ những chuyến viễn du chính thức do hoàng đế cử đi. Trịnh
Hòa đã đi theo các tuyến hải trình những thương nhân Rập Trung Hoa
trước đó đã đi qua, không h phát hiện mới.
Tiếp theo sau đó hai thế kỉ, vào thế kỉ XV. Các cuộc phát kiến đại bắt đầu diễn ra
một ch liên tục. Nguyên nhân đến từ việc kinh tế hàng hoá Tây Âu đã phát
triển khá nhanh đòi hỏi mở rộng mối quan hệ giao thương với các nước phương
Đông. Tuy nhiên, con đường thương mại giữa châu Âu và châu Á đang bị bế tắc
do sự chiếm giữ của người Rập, người Thổ Nhĩ người Hồi giáo. Chính
lẽ đó, hàng loạt các chuyến du hành đã được thực hiện. Năm 1487, nhà thám hiểm
Bartolomeu Dias đặt chân đến mũi Hảo Vọng thuộc châu Phi, mở ra tuyến đường
biển nối châu Âu với châu Á. 10 năm sau phát hiện của Dias, hy vọng về tuyến
đường biển nối châu Âu với châu Á mới thành hiện thực. Cuối năm 1497, nhà
thám hiểm Bồ Đào Nha Vasco da Gama trở thành người châu Âu đầu tiên dong
thuyền đi vượt Đại Tây Dương, đi qua Mũi Hảo Vọng vào Ấn Độ Dương. Người
Bồ Đào Nha đã mất 70 năm để tìm đường dọc theo bờ biển châu Phi từ quần đảo
Canary đến Cape. Vasco da Gama chỉ mất 23 ngày trên tàu Sao Gabriel để đi từ
châu Phi đến Ấn Độ. Năm 1492, Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên ông lại
nhầm tưởng vùng đất này n Độ. Cho đến năm 1501 thì thám hiểm Amerigo
mới đính chính lại đây vùng đất hoàn toàn mới, nằm giữa châu Âu châu Á,
được ông gọi là “Tân Thế Giới”.

Preview text:

Giao lưu văn hóa được hiểu là sự tiếp xúc văn hóa, trao đổi ảnh hưởng và tác động
qua lại giữa các nền văn hóa của các dân tộc khác nhau. Trong thời kì cổ trung đại,
sự giao lưu văn hóa giữa hai nền văn minh phương Đông và phương Tây được diễn
ra thường xuyên và liên tục bằng nhiều con đường: Thương mại, chiến tranh, di
dân; du hành, thám hiểm,… Thông qua đây, giữa hai nền văn minh đã mở mang
được nhiều kiến thức về nhau trong hầu hết các lĩnh vực của xã hội. Trong những
con đường kể trên, thì tôi đặc biệt ấn tượng với con đường du hành, thám hiểm. Đó
có thể là chuyến đi của cá nhân trong trạng thái hòa bình, tự nguyện, do sự tò mò,
mong muốn được khám phá về những vùng đất xa xôi. Nhưng chính nhờ những
chuyến đi này cũng đã góp phần mang hai nền văn hóa Đông – Tây tiến lại gần nhau hơn.
Có rất nhiều biểu hiện thông qua con đường du hành, thám hiểm. Có thể kể đến
những chuyến đi của Pháp Hiển, Marco Polo, Trịnh Hòa hay những cuộc phát kiến
địa lí vào thế kỉ XV. Sau đây, tôi xin phép được điểm qua một vài nhân vật kể trên
và ảnh hưởng từ chuyến đi của họ đến sự giao lưu văn hóa Đông – Tây.
Đầu tiên, một nhân vật mà chúng ta không thể không nhắc đến. Đó chính là
Trương Khiên – ông được xem là người đã đặt nền móng cho con đường tơ lụa
huyền thoại. Ban đầu, ông được Hán Vũ Đế cử đi Tây Vực để tìm liên minh chống
lại người Hung Nô, không may ông đã bị bắt và chịu giam cầm trong suốt 10 năm
trời. Sau đó thì ông trốn được và tiếp tục cuộc hành trình về phương Tây xa xôi.
Trở về, Trương Khiên đã tâu lại với Hoàng đế về những gì ông chứng kiến trên
suốt hành trình của mình. Đế vương vô cùng hài lòng và thích thú với những chi
tiết Trương Khiên thuật lại về những vương quốc ông chưa từng biết đến và Hoàng
đế đã liên tục gửi người đi với sứ mệnh khám phá con đường tơ lụa huyền thoại.
Thật ngạc nhiên, mỗi lần cho người đi là một lần quay trở lại với vô số những món
hàng phương Tây xa hoa như lông thú, nước hoa và ngay cả ngựa. Đồng thời, nhu
cầu đối với các sản phẩm phương Đông quý giá đặc biệt là tơ lụa cũng ngày càng
gia tăng, từ đó dẫn đến những mối quan hệ ngoại giao và quan hệ kinh tế có giá trị
giữa hai miền Đông và Tây.
Tiếp theo đó phải kể đến nhà du hành vĩ đại nhất của thế kỉ XIII – Marco Polo
( Venice – Italia). Trong thời đại mà những hiểu biết của người phương Tây về
phương Đông huyền bí vẫn còn mơ hồ thì chuyến đi của Polo sang phương Đông
trong 24 năm đã đặt nền tảng cho những kiến thức dầu tiên của người châu Âu về
phương Đông. Khi Polo đến Trung Quốc, ông đã mang theo bản vẽ của máy bắn
đá để trình lên Hốt Tất Liệt, sau đó đã được người Mông Cổ tiếp thu và sử dụng
trong các cuộc chiến của mình. Ông cũng giới thiệu thuốc súng cho người Trung
Quốc, Với điều này, người Trung Quốc đã có thể sử dụng thuốc súng để chế tạo
không chỉ pháo hoa mà còn cả vũ khí quân sự. Ngược lại ông cũng mang về từ
Trung Quốc những thứ mà người châu Âu chưa từng thấy trước đó như La bàn-
thiết bị định vị độc đáo. Nhờ đó mà thế giới điều hướng và khám phá sẽ thay đổi
đối với người châu Âu, vì giờ đây họ có thể điều hướng cả trên đất liền và trên biển
một cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Ông còn mang theo cả tiền giấy, đồ sứ, lụa thô,
ngà voi. Trong đó tiền giấy đã giúp cho các thương nhân giảm bớt được gánh nặng,
dễ dàng đi lại và không phải mang theo những đồng tiền vàng lặt vặt khắp nơi. Và
phải đặc biệt kể đến cuốn Marco Polo du ký của ông, đã có ảnh hưởng rất lớn đến
các nhà du hành thám hiếm sau này. Colombus là một ví dụ điển hình nhất.
Có thể kể thêm về chuyến đi của nhà thám hiểm người Morrocco - Ibn Battuta.
Ông đi trong vòng 30 năm qua hơn 44 quốc gia. Hay về chuyến đi của đô đốc
Trinh Hòa thời nhà Minh. Tuy nhiên, đây không phải là chuyến thám hiểm tới các
vùng đất mới mà chỉ là những chuyến viễn du chính thức do hoàng đế cử đi. Trịnh
Hòa đã đi theo các tuyến hải trình mà những thương nhân Ả Rập và Trung Hoa
trước đó đã đi qua, không hề có phát hiện mới.
Tiếp theo sau đó hai thế kỉ, vào thế kỉ XV. Các cuộc phát kiến đại lí bắt đầu diễn ra
một cách liên tục. Nguyên nhân đến từ việc kinh tế hàng hoá ở Tây Âu đã phát
triển khá nhanh đòi hỏi mở rộng mối quan hệ giao thương với các nước phương
Đông. Tuy nhiên, con đường thương mại giữa châu Âu và châu Á đang bị bế tắc
do sự chiếm giữ của người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kì và người Hồi giáo. Chính vì
lẽ đó, hàng loạt các chuyến du hành đã được thực hiện. Năm 1487, nhà thám hiểm
Bartolomeu Dias đặt chân đến mũi Hảo Vọng thuộc châu Phi, mở ra tuyến đường
biển nối châu Âu với châu Á. 10 năm sau phát hiện của Dias, hy vọng về tuyến
đường biển nối châu Âu với châu Á mới thành hiện thực. Cuối năm 1497, nhà
thám hiểm Bồ Đào Nha Vasco da Gama trở thành người châu Âu đầu tiên dong
thuyền đi vượt Đại Tây Dương, đi qua Mũi Hảo Vọng vào Ấn Độ Dương. Người
Bồ Đào Nha đã mất 70 năm để tìm đường dọc theo bờ biển châu Phi từ quần đảo
Canary đến Cape. Vasco da Gama chỉ mất 23 ngày trên tàu Sao Gabriel để đi từ
châu Phi đến Ấn Độ. Năm 1492, Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên ông lại
nhầm tưởng vùng đất này là Ấn Độ. Cho đến năm 1501 thì thám hiểm Amerigo
mới đính chính lại đây là vùng đất hoàn toàn mới, nằm giữa châu Âu và châu Á,
được ông gọi là “Tân Thế Giới”.