Giáo trình học giáo dục - Giáo dục học (p2) | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Giáo trình học giáo dục - Giáo dục học (p2) | Đại học Sư Phạm Hà Nội giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
(Dành cho sinh viên Đại học sư phạm)
Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên)
Phần 3: LÝ LUẬN GIÁO DỤC
luận giáo dục hệ thống luận về tổ chức quá trình giáo dục (theo
nghĩa hẹp) hướng chủ yếu vào việc hình thành cho người được giáo dục
những quan điểm, niềm tin, giá trị, động thái độ, hành vi, thói quen phù
hợp với những chuẩn mực của hội, góp phần phát triển toàn diện nhân
cách theo mục đích giáo dục. Hệ thống lí luận này bao gồm những vấn đề cơ
bản về bản chất, đặc điểm, quy luật của quá trình giáo dục; về nguyên tắc,
phương pháp nội dung giáo dục, sự thống nhất các môi trường giáo dục,
đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả.
Chương 12: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
I. KHÁI NIỆM QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Quá trình giáo dục là gì?
Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá
trình giáo dục tổng thể. Quá.trình giáo dục theo nghĩa hẹp quá trình dạy
học và đều hướng vào hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục
đã xác định. Trong đó quá trình giáo dục với chức năng trội làm cho học
sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực xã hội và có hành vi,
thói quen hành động tương ứng, một trong những kết quả, mục đích
quan trọng nhất của hoạt động dạy học trong nhà trường. Quá trình dạy học
nhiệm vụ truyền thụ cho học sinh tri thức rèn luyện các năng,
xảo tương ứng, phát triển trí tuệ, trên sở đó hình thành cho họ những giá
trị đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Như vậy dạy học với
chức năng trội truyền thụ tri thức, rèn luyện năng, xảo tương ứng cho
học sinh sẽ phải dẫn đến quá trình giáo dục, nó được xem là một con đường,
phương tiện hữu hiệu nhất để thực hiện quá trình giáo dục.
Như vậy quá trình giáo dục quá trình hoạt động mục đích, tổ
chức của giáo viên và học sinh, hình thành những quan điểm, mềm tin, giá trị,
động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị,
đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, văn hoá, làm phát triển nhân cách học sinh theo
mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội.
2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình giáo dục một hệ thống bao
gồm trong các thành tố cấu trúc như: mục đích và nhiệm vụ giáo dục; nội
dung giáo dục; phương pháp giáo dục; nhà giáo dục; người được giáo dục;
kết quả giáo dục. Mỗi thành tố chức năng riêng mối quan hệ biện
chứng với nhau.
Mục đích giáo dục một hình dự kiến về nhân cách học sinh đáp
ứng được các yêu cầu khách quan của hội, của đất nước trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ giáo dục
của nhà trường phải hình thành và phát triển các mặt tư tưởng, chính trị, tình
cảm, thái độ, hành vi đạo đức, pháp luật, trí tuệ, thể chất, lao động - kĩ thuật -
nghề... góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mục đích giáo dục
thành tố hàng đầu, vai trò định hướng cho sự vận động, phát triển của
các thành tố khác của quá trình giáo dục (nội dung, phương pháp, phương
thức giáo dục...) và định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục. Mục đích giáo
dục được ví là "đơn đặt hàng của xã hội".
Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhà
giáo dục cần quán triệt mục đích, nhiệm vụ giáo dụcchuyển tải nó tới học
sinh (đối tượng giáo dục). Đồng thời, nhà giáo dục lựa chọn nội dung,
phương pháp, các hình thức tổ chức giáo dục tổ chức quá trình giáo dục
học sinh. Nhà giáo dục ở nhà trườngcác thầy giáo, tập thể sư phạm,
gia đình là các bậc cha mẹ, ông bà, người lớn và các mối quan hệ khác.
Vai trò của giáo viên trong quá trình giáo dục thể hiện ở những mặt sau:
- Định hướng sự phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục
của Đảng, Nhà nước và mục tiêu giáo dục cụ thể của nhà trường.
- kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lí, khoa học, hệ thống các
hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường.
- Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh.
- Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục
đồng bộ, thống nhất của Hội đồng giáo dục trong nhà trường các lực
lượng, tổ chức giáo dục khác.
Học sinh với cách khách thể của quá trình giáo dục nhận sự tác
động định hướng, kế hoạch, phương pháp, tổ chức hệ
thống của giáo viên, nhà giáo dục. Quá trình giáo dục luôn sự tác động
qua lại, thống nhất giữa chthể giáo dục (nhà giáo dục) khách thể giáo
dục (người được giáo dục). Tuy nghiên, học sinh trong quá trình giáo dục tiếp
nhận có chọn lọc các tác động giáo dục và tự vận động để biến các tác động,
các yêu cầu giáo dục từ bên ngoài thành nhu cầu được giáo dục bên trong
của bản thân. Trong quá trình giáo dục, học sinh luôn nhận các tác động giáo
dục từ phía nhà giáo dục và các lực lượng giáo dục, khi đó, học sinh là khách
thể của quá trình giáo dục. Khi tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học
không thụ động một thực thể hội ý thức, người học ý thức được
mục đích, ý nghĩa, các yêu cầu giáo dục đối với mình, rồi diễn ra quá trình
đấu tranh động trong khi lựa chọn định hướng giá trị. Tức khi đứng
trước những tác động giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau, người được
giáo dục tiếp nhận theo nhu cầu ý thức của mình, nên mọi tác động
giáo dục bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan của họ, khi đó học sinh được
xem chủ thể của quá trình giáo dục. Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ
thuộc rất lớn vào tính chủ thể này, vớicách là chủ thể, học sinh sẽ tự giáo
dục, tự tu dưỡng và rèn luyện để phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Nội dung giáo dục hệ thống những tri thức, những chuẩn mực đạo
đức cần giáo dục cho học sinh, những tình cảm, thái độ, hành vi - thói quen
trong các lĩnh vực của đời sống hội. Nội dung giáo dục chịu sự quy định,
chi phối, định hướng của mục đích giáo dục sở để xác định các
phương pháp giáo dục.
Phương pháp giáo dụcnhững cách thức, biện pháp hoạt động phối
hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục để giúp cho người
được giáo dục chuyển hoá các yêu cầu, các chuẩn mực xã hội thành hành vi
thói quen ứng xử, tức hình thành phát triển các em những phẩm
chất hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đã được
hội quy định.
Kết quả giáo dục thành tố biểu hiện tập trung kết quả vận động
phát triển của quá trình giáo dục nói chung kết quả làm hình thành thói
quen hành vi, thái độ nói riêng học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu
giáo dục của nhà trường. Nếu mục đích giáo dục là dự kiến mô hình giáo dục
- đào tạo mong muốn thì kết quả giáo dục đích cần đạt được, mục tiêu
thực tế của quá trình giáo dục. Giữa mục đích giáo dục (M) kết quả giáo
dục (Kq) sẽ có các mối tương quan sau:
Kq -> M; Kq ~ M; Kq < M; Kq trái (lệch hoặc ngược) với M.
Các thành tố của quá trình giáo dục nêu trên liên quan mật thiết, thống
nhất biện chứng tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Mặt khác chúng lại
quan hệ bị chi phối bởi môi trường kinh tế - văn hoá - KHKT các
quan hệ sản xuất. Sản phẩm của quá trình giáo dục nhân cách học sinh
được phát triển. Sản phẩm đó phải thoả mãn được hai tiêu chí cơ bản:
- Một là phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định mang tính
bền vững, phổ biến.
- Hai phải đáp ứng, phục vụ được các yêu cầu tồn tại, phát triển
không ngừng của xã hội, tạo ra sự thích ứng cao giữa cá nhân và sự biến đổi
của môi trường kinh tế - xã hội. Từ sự phân tích các mối quan hệ biện chứng
giữa các thành tố của quá trình giáo dục, ta có thể thiết lập sơ đồ về mối quan
hệ đó như sau:
M: Mục đích giáo dục
C: Chủ thể giáo dục (giáo viên)
N: Nội dung, nhiệm vụ giáo dục
P: Phương pháp giáo dục
Pt: Phương tiện giáo dục
HTTC: Hình thức tổ chức giáo dục
Kq: Kết quả giáo dục
K: Khách thể giáo dục (học sinh)
II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Bản chất của quá trình giáo dục
Bản chất quá trình giáo dục được xác định căn cứ vào những sở
sau:
Thứ nhất, quá trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách
trong xã hội. Sự phát triển cá nhân con người được quy định bởi tác động qua
lại của các nhân tố hội nhân tố học sinh, trong đó sự ưu tiên hàng đầu
thuộc về các nhân tố hội. nhân được phát triển dưới ảnh hưởng của
chương trình. Quá trình hội hoá nhân quá trình biến nhân thành
một thành viên của xã hội (ứng với các giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của
xã hội); có đầy đủ các giá trị hội để tham gia vào những hoạt động của xã
hội. Do đó muốn xác định được bản chất của quá trình giáo dục phải xuất
phát từ chế tính hội của sự truyền đạt lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ trước trong các lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các giá trị văn hoá của loài
người.
Thứ hai, trong quá trình giáo dục luôn mối quan hệ giữa nhà giáo
dục và người được giáo dục (cá nhân hoặc tập thể), đó là quan hệ sư phạm -
một loại quan hệ hội đặc thù. Quan hệ phạm này luôn luôn chịu sự chi
phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hoá,hội, kinh tế, khoa học -
thuật..., đặc biệt những quan hệ chính trị - hội. Quan hệ phạm
sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục, đó sự thống nhất giữa
sự tác động giáo dục của nhà giáo dục sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của
người được giáo dục trong quá trình giáo dục.
Bản chất của quá trình giáo dục là gì?
Quá trình giáo dục - một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển
nhân trở thành những thành viên hội, những thành viên đó phải thoả
mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu của xã hội ở mỗi
giai đoạn phát triển, vừa khả năng tác động cải tạo, xây dựng hội, làm
cho tồn tại phát triển. Những nét bản chất của nhân do các mối
quan hệ hội hợp thành. Quá trình giáo dục quá trình làm cho người
được giáo dục (học sinh) ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó
(các quan hệ chính trị - tưởng, kinh tế, pháp luật, đạo đức) để rồi biết vận
dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá - xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật,
gia đình...
Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh
(người được giáo dục) tích luỹ được kinh nghiệm hội (thực tiễn) tốt
nhu cầu, hành vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội. Chính
trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội như vậy sẽ giúp cho học sinh
khẳng định những quan hệ mới, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống
biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn
cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội ngày nay.
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người - xã hội trong
mỗi nhân một cách ý thức, quá trình tổ chức để mỗi nhân chiếm
lĩnh được các lực lượng bản chất hội của con người, được biểu hiện
toàn bộ các quan hệ xã hội của họ. Triết học mác xít đã khẳng định: Bản chất
hội của con người chỉ được khi tham gia vào đời sống hội đích
thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hoá (văn hoá vật
chất và tinh thần). Do đó việc tiếp cận bản chất quá trình giáo dục buộc chúng
ta phải xem xét quá trình tổ chức đời sống, hoạt động giao lưu của đối
tượng giáo dục.
Mỗi con người đều sống trong một môi trường lịch sử hội cụ thể.
Quá trình giáo dục quá trình tổ chức cuộc sống cho mỗi nhân hoặc
nhóm, tầng lớp hội theo các chuẩn mực các yêu cầu của sự phát triển
hội, làm cho cá nhân biết sống phù hợp với các quan hệ xã hội.
Hoạt động giao lưu hai mặt bản, thống nhất trong cuộc sống
của con người cũng điều kiện tất yếu của sự hình thành phát triển
nhân cách củanhân. Các lí thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người
muốn tồn tại phát triển phải hoạt động giao lưu. Nếu các hoạt động
và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người) được tổ chức một cách khoa học
với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến, phong phú, đa dạng;
nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có nhiều cơ hội
tốt cho sự phát triển. bất một hoạt động nào của con người cũng đều
phải đặt vào (có quan hệ) những mối quan hệ xã hộinhững hình thái giao
lưu nhất định. Chính vậy quá trình giáo dục vừa mang bản chất của hoạt
động vừa mang bản chất của giao lưu. Giáo dục một quá trình tác động
qua lại mang tính hội giữa nhà giáo dục người được giáo dục, giữa
những người được giáo dục (học sinh) với nhau với các lực lượng, các
quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.
Như vậy bản chất của quá trình giáo dục quá trình tổ chức các hoạt
động giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự
giác, tích cực, độc lập chuyển hoá những yêu cầu những chuẩn mực của
xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng.
2. Đặc điểm quá trình giáo dục
a. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát tư yêu cầu của xã hội
và diễn ra lâu dài
Quá trình giáo dục nhằm hình thành những phẩm chất, những nét tính
cách của cá nhân nên đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả.
Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
- Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc
đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa.
- Việc hình thành trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói
quen của cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài không thể một sớm, một chiều
ngay được. Những phẩm chất mới của nhân cách (niềm tin, động
đúng, tình cảm mới...) chỉ có được và trở nên vừng chắc khi người được giáo
dục tiếp nhận trải qua một thời gian tập luyện, thể nghiệm, đấu tranh bản
thân (đấu tranh động cơ) trong cuộc sống thực để trở thành kinh nghiệm sống
của chính mình càng đòi hỏi một thời gian lâu dài.
- Kết quả tác động giáo dục, nhất các tác động nhằm hình thành
nhận thức mới, niềm tin... thường khó nhận thấy ngay (khó đánh giá, lượng
hoá mộtch cụ thể) khi kết quả đó lại bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó
công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn
định, lâu dài, đồng thời trong quá trình giáo dục lại phải phát huy được cao độ
tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người được giáo dục thì
mới đạt được hiệu quả giáo dục, kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ
điều đó.
- Việc sửa chữa, thay đổi những nếp nghĩ; thói quen cũ, lạc hậu, không
đúng, nhất những thói quen - hành vi xấu thường diễn ra dai dẳng, trở đi
trở lại mãi trong ý thức, hành vi của mỗi người nên việc khắc phục chúng rất
khó khăn và lâu dài.
b. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố
Quá trình giáo dục quá trình tổ chức các hoạt động phong phú, các
dạng giao lưu đa dạng để hình thành những phẩm chất nhân cách bền vững
cho người được giáo dục, rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình này
như: Các sự kiện, quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng - văn hoá, phong
tục, tập quán; các hoạt động giáo dục trong ngoài nhà trường; các nội
dung thông tin - văn hoá - nghthuật tuyên truyền qua các phương tiện
các kênh thông tin khác nhau; các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích,
nội dung, phương pháp, phương tiện) cách tổ chức được chủ thể khách
thể quá trình giáo dục tác động để vận hành phát triển nhằm đem lại
hiệu quả giáo dục; các yếu tố tâm lí, trình độ được giáo dục, điều kiện, hoàn
cảnh riêng tư... của người được giáo dục; các mối quan hệ phạm được
tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với giáo viên, giữa học
sinh với các lực lượng giáo dục khác.
Các yếu tố tác động từ nhiều phía đan kết, xen kẽ, bổ sung cho nhau
tạo thành một thể thống nhất hướng tới việc hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên,
các yếu tố tác động đến quá trình giáo dục với nhiều mức độ khác nhau,
chúng có thể thống nhất hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có th
mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí làm hiệu hoá kết quả của
quá trình giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục cần chủ động phối hợp
thống nhất các tác động giáo dục, đồng thời phải linh hoạt vận dụng các
nguyên tắc, phương pháp giáo dục để hạn chế tới mức tối đa những tác động
tiêu cực, tự phát, phát huy những tác động tích cực đối với quá trình giáo
dục.
c. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao
lưu của mỗi nhân. Với tư cáchngười được giáo dục, nhân tiếp nhận
các tác động giáo dục theo những quy luật chung, đồng thời lại phải chú ý
đến những điểm riêng biệt cụ thể thì mới hiệu quả tránh được những
tác động giáo dục một cách cứng nhắc, công thức, giáo điều. Tính cụ thế của
quá trình giáo dục được thể hiện như sau:
- Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những
tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt. Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết
các mâu thuẫn xung đột cụ thể giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục với phẩm
chất, năng lực, tâm lí chủ quan của người được giáo dục.
- Quá trình giáo dục phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối
tượng cụ thể. Mỗi học sinh đềumột cá nhântính độc lập tương đối của
nó về trình độ được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, tình cảm, thói
quen.. đặc điểm tâm lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biến
phức tạp, éo le của từng tình huống cụ thể. Nhà giáo dục cần phải nhìn thấy
hoặc dự đoán được những nguyên nhân (sâu xa trước mắt) của các biểu
hiện (tốt, xấu) của thái độ, hành vi, thói quen... từ đó mới biện pháp tác
động phù hợp.
Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian
với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ
thể đối với từng loại đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú
ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, năng thể hiện các yêu cầu,
nội dung, chuẩn mực xã hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, biến những yêu cầu
đó từ bên ngoài thành nét tính cách riêng, độc đáo của mỗi con người.
Tóm lại quá trình giáo dục luôn diễn ra cụ thể trong những tình huống
giáo dục, điều kiện giáo dục và với những con người (đối tượng giáo dục) cụ
thể.
d. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và
phát triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Dạy học nhằm tổ
chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung
học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen...
hai hoạt động này không tách biệt quan hệ biện chứng với nhau. Trên
cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo
đức của học sinh được hình thành phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các
phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học quá trình điều
khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát.
III. ĐỘNG LỰC VÀ CÁC KHÂU CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Động lực của quá trình giáo dục
Theo quan điểm triết học biện chứng, các sự vật, hiện tượng, quá trình
luôn vận động và phát triển, động lực của sự phát triển được hình thành trong
quá trình giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn cơ bản, nội tại của chúng.
Trong cuộc sống, con người luôn chịu những tác động khách quan từ
môi trường, chúng có thể tác động ngẫu nhiên, tự phát hoặc tác động có mục
đích. Mỗi nhân cần tiếp thu những tác động để chuyển hoá thành ý
thức, hành vi phù hợp với các chuẩn mực được xã hội chấp nhận.
Trong quá trình đó tồn tại rất nhiều mâu thuẫn phải được giải quyết,
giữa cái tốt cái xấu, cái tích cực cái tiêu cực, giữa cái mới tính tích
cực với thói quen lạc hậu. Chính sự đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn sẽ
thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách.
Quá trình giáo dục có nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn cơ bản của
bản thân quá trình giáo dục, trở thành động lực chủ yếu của quá trình giáo
dục. Động lực của quá trình giáo dục chính là kết quả giải quyết tốt mâu thuẫn
giữa một bên các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới đang đặt ra cho người
được giáo dục với một bên là trình độ được giáo dục và phát triển hiện có của
người được giáo dục. Các nhiệm vụ giáo dục luôn được đặt ra trước những
nhu cầu, động muốn vươn lên hoàn thiện nhân cách, đòi hỏi người được
giáo dục tự giác, tính cực tìm các cách thức, phương tiện khác nhau để thực
hiện các nhiệm vụ giáo dục, trình độ được giáo dục được nâng cao. Tiếp tục
những yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới khác cao hơn, phức tạp hơn được
đặt ra lại mâu thuẫn với trình đđược giáo dục đang có, học sinh lại nhu
cầu muốn giải quyết nhiệm vụ giáo dục mới đó. Cứ như vậy, quá trình giáo
dục vận động và phát triển không ngừng, ngày một đi lên.
2. Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thànhphát triển bất
một phẩm chất nhân cách nào đều phải tác động vào tất cả các mặt của
đời sống tâm nhân: nhận thức, ý chí, niềm tin, tình cảm, năng hành
động... Từ luận thực tiễn giáo dục ta thể nêu ra các khâu của quá
trình giáo dục như sau:
a. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức làm cơ sở cho hành động
Quá trình giáo dục trước hết phải làm cho học sinh nhận thức đúng, đủ,
chính xác các nội dung khái niệm về tưởng, chính trị, đạo đức, văn hoá,
thẩm mĩ, quyền lợi, nghĩa vụ, bơn phận, các quy định, chuẩn mực hành vi
trong các quan hệ hội... Từ nhận thức đúng đắn, học sinh mới thể biết
hành động như thế nào trong các tình huống của đời sống hội. Nhận
thức làm kim chỉ nam cho hành động. Nếu có nhận thức đúng sẽ có cơ hội để
dẫn đến hành động đúng. Quá trình giáo dục quá trình giúp học sinh phát
triển về mặt nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết
những điều đơn giản đến phức tạp hơn, cao hơn... để rồi biết vận dụng vào
đời sống xã hội.
Chính quá trình vận dụng, trải nghiệm những điều đã thu nhận được
trong quá trình giáo dục lại củng cố nhận thức, xây dựng được ý thức niềm tin
cho cá nhân.
b. Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, lành mạnh phù hợp với các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ - ứng xử xã hội
Quá trình giáo dục, trên cơ sở làm cho cá nhân có nhận thức đúng đắn
sẽ hình thành thái độ, niềm tin và tình cảm đúng. Thái độ, tình cảm là sự biểu
hiện cụ thể của quan điểm sống với những giá trị, chuẩn mực hội của
bản thân. Từ nhận thức đến hành động phải sự thúc đẩy của tình cảm.
Tình cảm - sức mạnh tinh thần to lớn đchuyển hoá nhận thức thành hành
động. Với vai tròđộng cơ thúc đẩy hành động nên trong quá trình giáo dục
cần phải bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp đúng đắn cho học sinh. Thực tiễn
đời sống đã cho thấy: nhận thức đúng nhưng do tình cảm sai lệch thì
chưa chắc đã dẫn đến hành động đúng, khi còn làm sai lệch, xuyên tạc,
bóp méo sự thật. như "yêu nên tốt, ghét nên xấu", "yêu nhau củ ấu cũng
tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông...". Để bồi dưỡng, hình thành được
những tình cảm tốt đẹp cho học sinh phải dựa vào cơ chế hình thành của tình
cảm: tạo nhiều hội nảy sinh các xúc cảm đồng loại được tổng hợp lại.
Muốn vậy, các quan hệ giáo dục (quan hphạm) thầy - trò phải tốt đẹp,
tạo được nhiều ấn tượng tình cảm học sinh. Quá trình giáo dục cũng cần
chú ý uốn nắn, sửa chữa, khắc phục những xúc cảm, tình cảm sai lệch, thiếu
trong sáng ở học sinh..
c. Rèn luyện hình thành hành vi thói quen
Quá trình giáo dục không dừng lại chỗ nhận thức như thế nào,
phải dẫn đến đích là con người phải biết thể hiện nhận thức bằng hành động.
Hành vi đạo đức bộ mặt đạo đức của nhân. Trong thực tiễn nhiều khi
không có sự thống nhất giữa nhận thức và hành vi đạo đức, như "nói hay, làm
dở", "chỉ nói không làm", hành động trái với nhận thức "nghĩ một đằng,
làm một nẻo". Qua đây ta thấy: hình thành hành vi thói quen, tức hành vi
của nhân đã vững chắc trong mọi trường hợp, kết quả của quá trình
giáo dục, và cũng chính kết quả của việc thực hiện tốt hai khâu bồi dưỡng
nhận thức và tình cảm trong quá trình giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, cần căn cứ vào nội dung và yêu cầu giáo dục
cụ thể, vào đối tượng giáo dục cụ thể vận dụng các khâu của quá trình
giáo dục theo trình tự và mức độ khác nhau. Ví dụ, để giáo dục cho học sinh ý
thức tổ chức, kỉ luật, trật tự, vệ sinh thì chú ý tác động thường xuyên o
khâu rèn luyện thói quen. Hoặc để nâng cao tình yêu quê hương, đất nước thì
vừa bồi dưỡng về nhận thức vừa đặc biệt gây nhiều ấn tượng tốt về quê
hương, đất nước. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải tác động đầy đủ vào
cả ba khâu (nhận thức, tình cảm, hành vi). Tuy nhiên do tính không đồng đều
của sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi nhân về nhận thức, tình
cảm, hành vi thói quen, nên có khi phải tập trung nhiều hơn vào một nhiệm vụ
trong một thời gian nhất định để giải quyết dứt điểm nhiệm vụ đó. Mặt khác
khi tác động vào khâu này, đồng thời lại có tác động đến khâu khác trong quá
trình giáo dục. dụ, khi ta giảng giải về một yêu cầu, một chuẩn mực đạo
đức, làm cho học sinh nhận thức được thì đồng thời cũng c động đến
việc hình thành tình cảm đạo đức và có phương hướng trong hành vi.
Tóm lại: Ba khâu nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen trong quá trình
giáo dục không tách biệt nhau quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể
thiếu được khâu nào bởi giáo dục một quá trình toàn vẹn. Khi vận dụng
các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục phải tuỳ theo đối tượng,
yêu cầu, nhiệm vụ giáo đục cụ thể, đối tượng hoàn cảnh cụ thể để lựa
chọn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các khâu cho phù hợp.
IV. TỰ GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC LẠI
1. Tự giáo dục
Tự giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục. Tự giáo dục là hoạt
động ý thức, mục đích của mỗi nhân để tự hoàn thiện những phẩm
chất nhân cách của bản thân theo những định hướng giá trị nhất định. Ví dụ,
tự mình nỗ lực khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập đạt đến một trình
độ học vấn cao hơn. Tự học hỏi những điều hay, điều tốt đẹp trong quan hệ
ứng xử...
Nhu cầu tự giáo dục nảy sinh theo từng giai đoạn phát triển của
nhân. Trẻ em thường bắt chước những người lớn chúng yêu thích,
hấp dẫn bởi những biểu hiện bề ngoài. Học sinh trung học có nhu cầu tự giáo
dục mạnh mẽ, đã tự ý thức, khao khát những giá trị mà các em cho là hữu ích
với cuộc sống. dụ như, tự tìm cách tập luyện thể dục, thể thao, rèn luyện
thể lực để thể cường tráng, khoẻ mạnh. Tự tu dưỡng theo các mẫu
hình nhân cách trong các tác phẩm văn học - nghệ thuật, tự đề ra kế hoạch
cho mình những thói quen tốt, những phẩm chất ý chí của nhân cách. Tuổi
thanh niên - các lớp cuối phổ thông trung học luôn tự ý thức về nghề nghiệp,
lập nghiệp trong tương lai, tự phấn đấu, nỗ lực học tập để thực hiện được
ước mơ hoài bão của mình.
Quá trình tự giáo dục bao gồm những yếu tố cơ bản sau:
- Năng lực tự ý thức của học sinh về sự phát triển nhân cách của bản
thân, về một phẩm chất hay năng lực nào đó cần được phát triển hơn, hoặc
cần phải thay đổi, sửa chữa cho phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mới cao
hơn. Năng lực tự ý thức này được thôi thúc bởi ước nguyện tưởng của
nhân muốn vươn tới, đạt được những mục đích tốt đẹp trong cuộc sống, đòi
hỏi người được giáo dục phải khả năng phân tích tự đánh giá những
phẩm chất và hành động, thói quen của bản thân. Trình độ được giáo dục của
nhân phải được phát triển đến một mức độ nhất định mới khả năng tự
đánh giá đúng đắn những phẩm chất và năng lực của bản thân, từ sự tự đánh
giá này, học sinh thấy cần phải hướng đích đến những giá trị mong muốn.
- Năng lực tổ chức tự giáo dục như: l) lập kế hoạch, đòi hỏi người được
giáo dục tự nêu cho mình yêu cầu, nội dung, mức đ cần sẽ thực hiện
nhằm đạt được một vấn đề, một hoạt động hay một công việc nhất định, dự
định thời gian thực hiện, hoàn thành kế hoạch. Bước lập kế hoạch trong tự
giáo dục tiến hành tốt được xemtự cam kết phấn đấu, rèn luyện bản thân.
2) lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các cam kết dobản
thân đề ra.
- Sự nỗ lực của bản thân đvượt qua được những khó khăn, trở ngại
gặp phải trong quá trình thực hiện kế hoạch tự giáo dục. Tính tự giáo dục tích
cực cao giúp cho người được giáo dục vượt lên chính bản thân mình, hình
thành được các phẩm chất ý chí.
- Tự kiểm tra xem đã đạt được những kết quả tự giáo dục như thế nào,
cần phải phấn đấu tiếp như thế nào để hoàn thiện những điều đã dự kiến
trong kế hoạch tự giáo dục. Tự đánh giá tự rút ra những bài học kinh
nghiệm cho bản thân.
2. Giáo dục lại
Do ảnh hưởng của môi trường hội, gia đình, nhà trường do
những thiếu sót, sai lầm trong phương pháp, điều kiện giáo dục, một số, một
bộ phận thanh thiếu niên học sinh đã hình thành những ý nghĩ tình cảm, thái
độ, hành vi, thói quen xấu, trái ngược với những quy định tính chuẩn mực
trong các lĩnh vực, trong c mối quan hệ hội đời sống... Chẳng hạn
thanh thiếu niên chơi bời lêu lổng, sống tuỳ tiện, buông thả, liều lĩnh... Những
biểu hiện như thế (hành vi lệch chuẩn) cần được giáo dục, uốn nắn để trở
thành người tốt. Quá trình giáo dục đó gọi là giáo dục lại.
Giáo dục lại hoạt động tổ chức giáo dục nhằm uốn nắn, sửa chữa,
điều chỉnh làm thay đổi những quan điểm, tình cảm, thái độ, lối sống... đặc
biệt những thói quen, hành vi không đúng, không tốt đã hình thành học
sinh trong quá trình sống. Giáo dục lại được xem là một quá trình giáo dục đối
với những cá nhân có những biểu hiện lệch chuẩn để họ trở thành những con
người ích cho hội, biết sống theo những yêu cầu, chuẩn mực của
hội.
Giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp hơn quá trình giáo dục
bình thường rất nhiều. Vì khi những sai lệch, những tật xấu của hành vi đã trở
thành thói quenmuốn thay đổi được rất khó, rất lâu dài. Đối với những
nhân đã bị nhiễm những tưởng, quan điểm sai lầm, đạo đức suy thoái,
những hành vi xâm hại đến hội người khác thì phải được giáo dục
trong các tổ chức giáo dục lại đặc biệt (giáo dục - cải tạo). Những tổ chức
giáo dục lại đó có những điều kiện, phương tiện lực lượng cán bộ chuyên
làm công tác giáo dục lại như: các trung tâm giáo dục cải tạo trẻ em hư, lang
thang - phạm pháp, nghiện ngập.... Khi tiến hành quá trình giáo dục lại cần
chú ý một số yêu cầu sau:
- Xác định đúng, cụ thể hệ thống các nguyên nhân y ra những sai
lệch trong quá trình phát triển nhân cách. Chú ý những nguyên nhân sâu xa
được xem như sự "tiềm ẩn" để dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, đồng
thời phải xác định được những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi sai
lệch. Chỉ khi nào xác định đúng, đầy đủ nguyên nhân gây ra sai lệch hoặc hư
hỏng, suy thoái nhân cách của mỗinhân thì biện pháp giáo dục lại mới
hiệu quả.
- phương pháp tổ chức, tác động giáo dục khoa học, phợp với
đối tượng giáo dục lại. Các trường giáo dưỡng ở nước ta đã vận dụng lí luận
giáo dụctiến hành giáo dục lại thành công, đã tích luỹ được hệ thống kinh
nghiệm về giáo dục lại.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Quá trình giáo dục gì? Nêu các chức năng trội của quá trình giáo
dục, dạy học.
2. Phân ch các thành tố của quá trình giáo dục mối quan hệ biện
chứng của chúng.
3. Phân tích bản chất quá trình giáo dục.
4. Phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục rút ra những kết
luận sư phạm cần thiết trong quá trình giáo dục học sinh.
5. Trình bày động lực của quá trình giáo dục, lấy các dụ trong thực
tiễn để minh hoạ cho các mâu thuẫn của quá trình giáo dục.
6. Phân tích các khâu của quá trình giáo dục mối quan h biện
chứng của chúng.
7. Thế nào là tự giáo dục?
8. Thế nào giáo dục lại, quá trình tiến hành giáo dục lại cần đặc biệt
chú ý đến những yêu cầu nào? Tại sao?
BÀI TẬP
1. Đọc các tài liệu về giáo dục lại. Viết thu hoạch về các nguyên nhân
của trẻ em hư, lang thang - phạm pháp.
2. Đi thực tế ở trường giáo dưỡng, nghiên cứu một học sinh của trường
để viết bài tập về các hiện tượng phạm pháp vị thành niên, nguyên nhân
những biện pháp giáo dục lại của nhà trường đó.
Chương 13: NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
I. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
Quá trình giáo dục quá trình vận động phát triển quy luật,
hoạt động có tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Hoạt động giáo dục muốn
đạt kết quả mong muốn đòi hỏi nhà giáo dục không phải chỉ nắm được các
quy luật mà còn phải biết vận dụng những quy luật đó một cách linh hoạt sáng
tạo. Các quy luật của giáo dục được phản ánh trong những luận điểm chung
bản, mang tính chất chỉ đạo toàn bộ tiến trình giáo dục đó các nguyên
tắc giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản tính quy
luật của luận giáo dục, tác dụng chđạo việc lựa chọn vận dụng nội
dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu
mục đích và nhiệm vụ giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục kết quả nhận thức của con người về các quy
luật giáo dục, do đó nguyên tắc giáo dục sở khách quan, phản ánh
những quy luật của quá trình giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là những tri thức,
kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn giáo dục của nhà trường, các sở
giáo dục của các nhà giáo dục tiên tiến trên thế giới trong nước đã đạt
được thành công trong quá trình giáo dục, từ đó rút ra những phương hướng
chỉ đạo hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Ví dụ như giáo dục trong lao động
tập thể, tôn trọng nhân cách học sinh được nhà giáo dục Nga Macarencô
đúc rút từ thực tiễn giáo dục sinh động mà ông đã thực hiện.
Như vậy nguyên tắc giáo dục trở thành sở cho mọi hoạt động giáo
dục, giúp cho những người làm công tác giáo dục nói chung giáo viên nói
riêng vận dụng, làm chỗ dựa để tiến hành các quá trình giáo dục đúng
phương hướng và đạt hiệu quả. Tuy nhiên nguyên tắc giáo dục không phải là
những "đơn thuốc", những cẩm nang sẵn ứng với các hoạt động giáo dục
thực tiễn. chỉ cung cấp cho nhà giáo dục hệ thống những sở luận,
làm chỗ dựa để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đa dạng và sinh động.
Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp cho nhà giáo dục biết kết
hợp những kinh nghiệm thực tiễn với lí luận giáo dục để vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong quá trình giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt
hiệu quả cao.
II. HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục
Hoạt động của con người bao giờ cũng hướng tới mục đích nhất định.
Giáo dục hoạt động mục đích, do đó nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức quá trình giáo dục đều phải căn cứ vào mục đích phải đạt được
mục đích giáo dục đó. Mục đích của hoạt động giáo dục phải được cụ thể hoá
bằng các mục tiêu giáo dục.
Toàn bộ hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường đều phải hướng vào
mục đích xây dựng phẩm chất nhân cách cho con người. Trong thời công
nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta cần hướng vào mục đích xây dựng nhân
cách phát triển toàn diện, đó mẫu người tưởng hoạt động giáo dục
phải đạt tới. Giáo dục phải làm cho học sinh thấm nhuần đường lối quan điểm
của Đảng Nhà nước; sống làm việc theo hiến pháp pháp luật; tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo vệ phát triển những giá trị vật chất
tinh thần của dân tộc; xây dựng nếp sống văn hoá mới, xoá bỏ tàn của
nếp sống cũ lạc hậu...
Giáo dục thực chất tổ chức tổ chức các hoạt động giáo lưu cho
người được giáo dục. vậy, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục đều
phải đặt ra những mục tiêu cụ thể đạt được chúng, tức khi tổ chức các
quá trình giáo dục cụ thể phải chú ý dự kiến kết quả sẽ đạt được theo mục
đích giáo dục, dụ việc tổ chức lao động sản xuất cho học sinh phải đạt
được hai mục đích: giáo dục phẩm chất đạo đức hiệu quả kinh tế. Giáo
dục lao động - hướng nghiệp trong nhà trường phải đạt được mục đích
hình thành nâng cao ý thức, tinh thần, thái độ lao động mới, có tri thức,
năng lao động - nghề nghiệp để học sinh có thể hướng nghiệp và định hướng
nghề nghiệp đúng, có hiệu quả. Như vậy, thông qua tổ chức hoạt động có thể
giúp học sinh nhận thức một khái niệm mới, hình thành xúc cảm, tình cảm
tích cực hay những thói quen hành vi đúng đắn... Mục đích giáo dục bao gồm
những mục đích trước mắt, mục đích tương lai gần mục đích chiến lược,
giáo dục cần xác định và đạt được các mục đích đó.
2. Giáo dục gắn với đời sống xã hội
Quá trình giáo dục học sinh quá trình làm hình thành các em
những phẩm chất, năng lực, thái độ, quan hệ của nhân đối với hội
với người khác. Tất cả những phẩm chất năng lực đó của nhân phải
phù hợp với các quan hệ hội. vậy quá trình giáo dục phải gắn với đời
sống xã hội về hai phương diện cơ bản.
Thứ nhất là sự chuyển hoá các quan hệ xã hội thành ý nghĩa, giá trị đối
với các nhân được thể hiện trong các hành động tương ứng trong các
lĩnh vực đời sống. Bởi vậy, không thể chỉ cung cấp cho học sinh những giáo lí
chết cứng, khép kín trong sách vở mà phải gắn tri thức lí luận với đời sống xã
hội đang phát triển sinh động.
Thứ hai, quá trình giáo dục là quá trình đào tạo những con người phục
vụ cho một hội nhất định nên phải tạo điều kiện cho họ khả năng thích
ứng cao với đời sống hội những biến động không ngừng của nó. Quá
trình giáo dục thế hệ trẻ phải phát huy, tận dụng những ảnh hưởng, tác động
giáo dục của các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá
- thẩm mĩ, pháp luật...) làm cho học sinh không bị xa rời, thoát li thực tế
hội.
Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống hội
để xây dựng những phẩm chất nhân cách cho học sinh là:
- Tạo mối liên hệ gắn giữa việc giảng dạy, học tập, giáo dục trong
nhà trường với đời sống hội bên ngoài. Để tạo sự gắn này đòi hỏi một
mặt phải đưa vào trong chương trình, nội dung giáo dục những sự kiện, hiện
tượng sinh động trong đời sống hội, các quan hệ hội phong phú, mặt
khác cần chỉ ra phương hướng, cách vận dụng những điều đã học vào thực
tiễn cuộc sống, thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh của hội; rèn luyện
cho học sinh những thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực của xã hội
- Làm cho thanh thiếu niên học sinh luôn ý thức quan tâm đến các
sự kiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - hội của đất nước; làm
cho học sinh từ khi còn học trong nhà trường sau này một công dân
chân chính phải biết được những khó khăn, thuận lợi và những vấn đề gì của
hội cần phải giải quyết trong thực tiễn, từ đó nảy nở những tình cảm, thái
độ, suy nghĩ đúng đắn của học sinh đối với Tổ quốc.
- Tổ chức cho học sinh được tham gia thường xuyên vào công cuộc lao
động xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân
(làng, xóm, xã, khối phố...) và quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, thiết lập kỉ
cương, trật tự hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức chính
quyền, đoàn thể.
- Phê phán, khắc phục những biểu hiện của phương thức giáo dục của
nhà trường kiểu cũ. Tách rời giáo dục với đời sống, không rèn luyện học sinh
trong thực tế cuộc sống. Mặt khác cũng cần khắc phục hiện tượng giáo dục là
chỉ chú trọng học kiến thức văn hoá - khoa học -kĩ thuật, chạy theo văn bằng
mà không (hoặc ít) chú trọng việc giáo dục lí tưởng, đạo đức, lối sống, lẽ sống
cho thanh thiếu niên. Hậu quả là một số bộ phận thanh niên học sinh bị xa rời
cuộc sống, sai lệch trong lối sống, khó thích ứng với sự biến động của xã hội.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong giáo dục
Quá trình giáo dục diễn ra từ khâu nhận thức - hình thành ý thức
nhân đến việc chuyển hoá ý thức thành hành vi Quá trình đó lại làm nảy nở
những xúc cảm, tình cảm, ý chí cho cá nhân, giúp cho sự chuyển hoá ý thức
thành hành vi mạnh mẽ hơn, nhu cầu thể hiện hành vi theo ý thức (nhận
thức) đã của bản thân. Sự thống nhất giữa ý thức hành vi trong quá
trình giáo dục học sinh được thể hiện như sau: - Hiểu được những khái niệm,
quy tắc, chuẩn mực về tưởng, chính trị, đạo đức, pháp luật... Đối với mỗi
chuẩn mực đó, yêu cầu học sinh trước hết phải hiểu đúng, đủ, cao hơn
hiểu đúng, chính xác các góc độ, khía cạnh khác nhau, trong các trường hợp,
tình huống khác nhau. dụ biết phân biệt thế nào sự khéo léo, tế nhị với
sự giả tạo trong quan hệ, giao tiếp...
- Trên sở nắm vững các chuẩn mực (nội dung, ý nghĩa, ch thể
hiện) chuyển hoá thành niềm tin.
- Quá trình rèn luyện, tập luyện, thể hiện các chuẩn mực về đạo đức,
chính trị, lối sống... trong các điều kiện, tình huống sẽ chuyển hoá ý thức
thành hành vi - thói quen. Quá trình giáo dục phải hình thành củng cố
những hành vi - thói quen tương ứng với ý thức, niềm tin về những chuẩn
mực hành vi được xã hội quy định. Đây là bước quan trọng của quá trình giáo
đục, vì chỉ có hành vi - thói quen mới xác định bộ mặt của nhân cách.
Ý thức hành vi trong quá trình giáo dục mối quan hệ biện chứng
với nhau. ý thức sở cho hành vi. ý thức đúng tiền đề quan trọng cho
hành vi đúng, được coi kim chỉ nam cho hành động, xây dựng niềm tin
vững chắc. Hành vi thói quen được hình thành lại củng cố ý thức, niềm tin
làm cho nhân nhu cầu thực hiện, thể hiện các hành vi đạo đức đã ý
thức được.
Để vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi
trong quá trình giáo dục, cần thực hiện một số yêu cầu như:
- Giúp cho học sinh (tuỳ theo lứa tuổi trình độ được giáo dục)
hiểu biết đúng, ràng về các khái niệm, các chuẩn mực đạo đức, chính trị,
pháp luật, các quan hệ hội, lối sống... Từ những hiểu biết về thuyết cần
làm cho học sinh thấy được ý nghĩa, giá trị của những chuẩn mực đó trong
thực tiễn đời sống, sức thuyết phục, biến thành niềm tin thúc đẩy hình
thành hành vi.
- Cần đề phòng và ra sức khắc phục tình trạng tách rời, không ăn khớp
giữa ý thức hành vi của học sinh. dụ như "nói hay, làm dở". những
trường hợp học sinh không biết thể hiện những chuẩn mực của hành vi là do
chưa hiểu là gì và phải làm như thế nào trong các tình huống cụ thể khác
nhau, điều đó cũng dẫn đến sự tách rời giữa ý thức và hành vi.
- Tổ chức rèn luyện - giáo dục học sinh trong các loại hình hoạt động
phong phú, đa dạng như hoạt động học tập, lao động, vui chơi, hoạt động xã
hội, lao động công ích, sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thể
dục - thể thao... Trong quá trình tham gia trực tiếp vào các loại hình hoạt
động, học sinh sẽ thể nghiệm những điều được giáo dục, tích luỹ được kinh
nghiệm hội cho bản thân kĩ năng vận dụng những kinh nghiệm đó
vào thực tiễn cuộc sống.
- Tổ chức cho học sinh tự rèn luyện, tự giáo dục thường xuyên, liên tục
trong các môi trường giáo dục khác nhau để hình thành các thói quen hành vi
tốt, đúng, đồng thời biết tự uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh những thói quen
hành vi xấu, không đúng, không phù hợp với các quy định, chuẩn mực của
hội.
4. Nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động
Giáo dục trong lao động tổ chức một cách khoa học các loại hình
hoạt động lao động đ thông qua đó giáo dục học sinh, nhằm hình thành
các em những phẩm chất nhân cách cần thiết của người lao động kiểu mới.
Giáo dục bằng lao động là dùng lao động như là một phương tiện để giáo dục
học sinh, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống và rèn luyện những đức tính, phẩm chất tốt đẹp.
Yêu cầu để thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động bằng lao
động cần tổ chức đưa học sinh trực tiếp tham gia vào c loại hình lao
động đcác em điều kiện được thực sự rèn luyện trong lao động. Khi tổ
chức lao động cho học sinh cần bảo đảm các yêu cầu:
Rèn luyện tính tự giác, tích cực tham gia lao động của học sinh. Muốn
vậy hình thức lao động phải phong phú, hấp dẫn. Sự chỉ đạo, lãnh đạo lao
động phải chặt chẽ, nghiêm túc, tránh hình thức chủ nghĩa, vì thành tích.
- Kích thích tính sáng tạo trong lao động của học sinh.
- Cần giúp cho giáo viên học sinh nhận thức đúng đắn đưa
giáo dục lao động vào nhà trường để giáo dục học sinh yêu cầu mới,
tính nguyên tắc của giáo dục. Do đó cần khắc phục những biểu hiện, khuynh
hướng không đúng khi thực hiện nguyên tắc này như không tổ chức giáo dục,
rèn luyện học sinh trong và bằng lao động; đơn giản hoá, hình thức chủ nghĩa
hoặc thực dụng trong việc tổ chức lao động cho học sinh; không gắn lao động
của học sinh với tri thức khoa học - thuật - công nghệ, không chú ý rèn
luyện những phẩm chất nhân cách cho học sinh trong lao động nội ngoại
khoá của nhà trường.
5. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể
Giáo dục trong tập thể là xem tập thể học sinh (trường lớp các đoàn thể
học sinh) là một môi trường giáo dục, bởi vì:
- Tập thể học sinh một tập hợp tổ chức chặt chẽ, hoạt động
chung với mục đích thống nhất - mục đích giáo dục - xã hội.
- Tập thể học sinh bộ máy tự quản, xây dựng thực hiện một hệ
thống các mối quan hệ trong tập thể: trách nhiệm giữa các thành viên trong
tập thể với nhau với tập thể, quan hệ chỉ huy, quyết định - thi hành, quan
hệ hợp tác, nhân ái...
- Tập thể học sinh luôn duy trì các dư luận xã hội lành mạnh, phê phán,
điều chỉnh những thái độ, hành vi trái với các chuẩn mực hội của mỗi
nhân - thành viên của tập thể.
- Sống trong tập thể, học sinh luôn ý thức về tập thể do bầu không khí
thân ái, đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên; làm hình thành tinh thần ý thức
tập thể ở học sinh - yêu cầu quan trọng của giáo dục trong nhà trường.
Giáo dục bằng tập thể xem tập thể như một lực lượng, một phương
tiện giáo dục tác dụng hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các yêu
cầu giáo dục của nhà trường, của giáo viên thông qua tập thể tác động đến
các thành viên trong tập thể, các thành viên lại tác động giáo dục lẫn nhau
(tác động giáo dục liên nhân cách). Các hoạt động chung của tập thể tính
chất tự quản điều kiện cho các thành viên trong tập thể tự rèn luyện, tự
giáo dục, tự điều chỉnh nh vi thói quen cho phù hợp với yêu cầu giáo dục
xã hội. Nó còn đánh giá và buộc cá nhân phải biết tự đánh giá kết quả tự giáo
dục, rèn luyện của mình so với các quy định, quy chế của tập thể.
Những yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng
tập thể:
- Thực hiện các tác động giáo dục song song, đòi hỏi công tác giáo dục
của nhà trường, của giáo viên phải tác động đến tập thể học sinh; làm cho nó
trở thành một môi trường, một phương tiện giáo dục đối với từng học sinh -
thành viên của tập thể. Đồng thời, giáo viên tác động giáo dục đến từng học
sinh song không thiên về "giáo dục tay đôi" giữa giáo viên và một học sinh.
thể diễn tả quá trình tác động giáo dục song song đó theo đ
sau:
GV: giáo viên tác động đến tập thể
TT: tập thể tác động đến mỗi thành viên (học sinh)
HS - HS: các thành viên của tập th học sinh lạic động giáo dục
lẫn nhau
GV - HS: tác động giáo dục từng học sinh
- Xây dựng tập thể học sinh phát triển vững mạnh đảm bảo cho
thực sự là một môi trường, một lực lượng giáo dục hữu hiệu. Cần khắc phục
hiện tượng tập thể thiếu tổ chức chặt chẽ, không tác dụng giáo dục nhân
cách cho các thành viên.
6. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách học sinh kết hợp với yêu cầu hợp
trong quá trình giáo dục
Tôn trọng nhân cách học sinh trong quá trình giáo dục đòi hỏi phải tôn
trọng phẩm giá, danh dự, thân thể học sinh và kích thích lòng tự trọng của các
em. Khi học sinh những hành vi, lời nói trái với chuẩn mực hành vi, giáo
viên phải biết tự kiềm chế, bình tĩnh, nghiêm khắc, chân tình giúp đỡ các em
nhận ra lỗi lầm, không mạt sát sỉ nhục, đánh đập, thể hiện sự thiếu tôn trọng
các em. Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải lạc quan tin tưởng đối với sự
tiến bộ của học sinh. Tuyệt đối không thành kiến với học sinh, ngay cả đối với
những học sinh mắc phải những lỗi lầm lớn. nếu ác cảm, định kiến với
học sinh thì sẽ làm cho các em mất tự tin mặc cảm xa lánh nhà giáo dục,
bạn bè và tập thể nên càng mất cơ hội được giáo dục.
Giáo dục cần phát huy mặt tốt, ưu điểm của học sinh là chính, phải nhìn
thấy mặt tốt của con người để động viên phát triển lên. Đồng thời khi các
em mắc lỗi, mắc sai lầm thì cũng phải có phương pháp giáo dục, không được
hắt hủi, sỉ nhục. Nhà giáo dục cần xác định những yêu cầu hợp cho học
sinh, tức trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục luôn nêu ra những đòi hỏi
phạm - những yêu cầu để học sinh phấn đấu rèn luyện theo, tính hợp
của yêu cầu đó thể hiện ở các mặt sau đây: - Học sinh phải nỗ lực ở mức độ
nhất định mới thực hiện được. Điều đó có nghĩa là yêu cầu không quá cao để
học sinh không thể thực hiện được mà cũng không quá dễ để học sinh không
cần có sự cố gắng nào cũng làm được ngay.
Yêu cầu đề ra ngày một cao hơn để học sinh luôn phải cố gắng tích
cực hơn mới thực hiện được.
- Yêu cầu phải tính khả thi, đáp ứng được nguyện vọng muốn hoàn
thành tốt các nhiệm vụ giáo dục của giáo viên giao cho. Những yêu cầu của
nhà giáo dục phải rõ ràng, cụ thể, phù hợp với trình độ đã được giáo dục của
học sinh và có tính chất dẫn dắt, khuyến khích các em vươn lên cao hơn nữa.
Hai mặt tôn trọng nhân cách yêu cầu cao trong giáo dục không mâu
thuẫn mà thống nhất với nhau vì:
- Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp
cho các em vươn lên, phát triển nhân cách tốt hơn.
- Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong
quan hệ ứng xử sư phạm phải thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các
em tiến bộ.
Trong thực tiễn giáo dục cần tránh hiện tượng thiếu tôn trọng nhân
cách học sinh (coi thường học sinh, đối xử thô bạo) hoặc ngược lại quá dễ
dãi, nuông chiều, thoả mãn mọi yêu cầu của học sinh một cách điều kiện,
không đòi hỏi học sinh thực hiện nghiêm túc những yêu cầu giáo dục đã nêu
ra. Tất cả những hiện tượng đó đều làm giảm hoặc không đem lại hiệu quả
giáo dục. một số trường hợp còn dẫn đến hậu quả làm cho học sinh
do sự buông thả, nuông chiều, tự do quá mức, điều này hay xảy ra trong
giáo dục gia đình.
7. Nguyên tắc thống nhất giữa sự tổ chức lãnh đạo phạm của giáo
viên với việc phát huy tính tự giác tích cực độc lập tự giáo dục của học
sinh
Trong quá trình giáo dục, giáo viên - nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo,
tổ chức lãnh đạo quá trình hình thành, phát triển những phẩm chất, hành vi
thói quen ở học sinh, thể hiện:
- Nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò lãnh đạo phạm của giáo viên
trong việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của tập
thể học sinh và của từng học sinh.
- Thuyết phục học sinh biết định hướng quyết tâm phấn đấu đạt
những mục đích đã đề ra.
- Lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ
giáo dục cho phù hợp.
Để phát huy vai trò tự giác tích cực, độc lập, tự rèn luyện, tự giáo dục
của học sinh, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải: - Tôn trọng sáng kiến sự độc
lập của học sinh.
- Động viên kịp thời ý chí quyết tâm vươn lên của học sinh.
- Biến yêu cầu giáo dục của nhà trường thành yêu cầu tự giáo dục của
tập thể và trách nhiệm của từng cá nhân học sinh.
- Lựa chọn các biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục, giúp học sinh
tự định hướng rèn luyện, hoạt động.
Trong quá trình giáo dục, tính tự giác, tích cực chủ động, sáng tạo của
học sinh giữ vai trò quyết định trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân
cách.
8. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống kế tiếp liên tục trong công tác giáo
dục
Nguyên tắc này yêu cầu phải tiến hành một cách lâu dài, hệ thống
các tác động giáo dục nhằm hình thành dần dần, từng bước các phẩm chất
nhân cách. Quá trình giáo dục bao gồm hệ thống các nhiệm vụ, nội dung,
phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục. Giáo viên phải xem xét các
tác động và hiệu quả giáo dục trong toàn bộ hệ thống đó. Tính hệ thống và kế
tiếp liên quan tới nhau. Hệ thống kế tiếp từ thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp dần lên, từ dễ đến khó... trong việc hình thành các tri thức chuẩn
mực, hành vi thói quen cho học sinh. Những phẩm chất mới phải được hình
thành dựa trên cơ sở trình độ đã được giáo dục trước đó.
Trong quá trình giáo dục phải chú ý củng cố tập luyện liên tục, kéo dài
để nâng cao dần các kết quả giáo dục ở học sinh, làm cho nhận thức, thái độ,
tình cảm, hành vi đã được hình thành trở nên ổn định vững chắc.
Giáo dục bất kì một phẩm chất nào của nhân cách, đặc biệt là việc hình
thành một thói quen, nếp sống, lối sống cần phải được tiến hành liên tục,
thường xuyên. Các yêu cầu giáo dục phải được học sinh thực hiện ở mọi nơi,
mọi lúc.
Thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ là ở nơi nào (nhà trường, gia đình, tập
thể...) công tác giáo dục được ý thức đầy đủ, được tiến hành có hệ thống, liên
tục, thường xuyên thì sẽ đạt được hiệu quả cao. Trong quá trình giáo dục lại,
cải tạo những thói quen xấu đã tiêm nhiễm lâu trong mỗi cá nhân thì càng đòi
hỏi tính kiên trì, tác động giáo dục thường xuyên, liên tục và có hệ thống.
9. Nguyên tắc thống nhất giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia
đình và giáo dục của cộng đồng xã hội
Quá trình giáo dục con người diễn ra mọi nơi, mọi lúc. Học sinh luôn
sống, hoạt động trong các môi trường gia đình, trường học cộng đồng
hội (làng xóm, khu phố...) luôn nhận được các tác động giáo dục từ nhiều
phía, nhiều lực lượng. Để nâng cao hiệu quả giáo dục, hạn chế những mặt
tiêu cực làm giảm kết quả giáo đục cần phải sự thống nhất giữa giáo dục
nhà trường, gia đình và xã hội.
Mỗi lực lượng giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) có vị trí nhất định
trong giáo dục học sinh.
- Giáo dục gia đình: Đặt cơ sở nền móng đầu tiên cho sự hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ. thể nói "Người mẹ người thầy giáo đầu
tiên của đứa trẻ", gia đình cái nôi nuôi dưỡng làm nảy nở những tâm
hồn tốt đẹp cho trẻ. Hoàn cảnh, điều kiện sống, bầu không khí văn hoá, tâm lí
các quan hệ trong gia đình thường xuyên tác động, ảnh hưởng đến nhân
cách của trẻ trong gia đình.
- Giáo dục xã hội có vai trò rất quan trọng. Các quan hệ xã hội (kinh tế,
văn hoá, khoa học, kĩ thuật, tư tưởng, chính trị...) thường xuyên tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp qua nhiều kênh đến các nhân. Các ảnh hưởng, tác
động của xã hội đến cá nhân theo cả hai hướng: tích cực, có mục đích tốt
tự phát tiêu cực. Những tác động tiêu cực của xã hội có khi làm giảm sút hoặc
trái ngược với giáo dục của nhà trường.
- Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo: bao hàm những tác động,
nội dung giáo dục mục đích, kế hoạch tổ chức chặt chẽ. Giáo dục
nhà trường khai thác lựa chọn những tác động giáo dục tích cực của gia
đình và của xã hội, góp phần điều chỉnh những tác động tiêu cực từ gia đình,
xã hội.
Giáo dục nhà trường được tiến hành một cách khoa học (có hệ thống,
có phương pháp, kế hoạch, tổ chức chặt chẽ) do những nhà giáo dục có năng
lực phạm thực hiện nên đã đạt được hiệu quả cao trong việc hình thành
phát triển nhân cách học sinh.
Trong thực tiễn giáo dục vẫn còn sự thiếu thống nhất, còn khoảng
cách giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Ví dụ, nhà trường giáo dục
những giá trị, tình cảm, thái độ tích cực theo các chuẩn mực hội, nhưng
nếu ở gia đình lại có những tác động khác, có khi trái ngược với tác động giáo
dục của nhà trường thì những tác động ngược chiều như vậy sẽnh hưởng
đến hiệu quả giáo dục.
10. Nguyên tắc chú ý đến đặc điểm của đối tượng giáo dục
Nguyên tắc này yêu cầu những người làm công tác giáo dục phải nắm
được các đặc điểm của đối tượng giáo dục. Căn cứ vào đặc điểm trình độ
được giáo dục đã trưởng thành về mặt xã hội đến mức độ nào để làm căn cứ
nhằm đề ra kế hoạch giáo dục cho sát hợp.
Đối tượng giáo dục nhiều đặc điểm khác nhau như: đặc điểm quá
trình tâm lí cá nhân (nhận thức, xúc cảm, tình cảm, lí trí, xu hướng, tính cách,
nhu cầu, động cơ...); những đặc điểm riêng của đời sống nhân (gia đình,
bố mẹ, sự phát triển trí tuệ, đạo đức); đặc điểm tâm lứa tuổi; đặc điểm của
các điều kiện môi trường, vùng, miền có những sự phát triển kinh tế văn hoá,
phong tục tập quán khác nhau. Nhà giáo dục phải căn cứ vào các đặc điểm
đó để lựa chọn nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức giáo dục phù hợp,
có hiệu quả cao.
Các nguyên tắc giáo dục là một hệ thống toàn diện, chúng không tồn tại
tách biệt mà có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau. Người giáo viên cần biết vận dụng và phối hợp các nguyên tắc giáo dục
một cách linh hoạt, sáng tạo để có được những kết quả mong muốn.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Trình bày khái niệm nguyên tắc giáo dục. sở luận thực tiễn
của các nguyên tắc giáo dục.
2. So sánh đánh giá hệ thống các nguyên tắc giáo dục trong một số
giáo trình giáo dục học hiện nay.
3. Phân tích nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc bảo đảm
tính mục đích trong giáo dục.
4. Phân tích nội dung, yêu cầu thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với
đời sống xã hội.
5. Hiểu như thế nào giáo dục trong lao động bằng lao động trong
quá trình giáo dục?
6. Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động
bằng lao động. Nêu thực trạng thực hiện nguyên tắc này trường phổ thông
mà anh chị biết.
7. Nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập
thể và bằng tập thể.
8. Nội dung của nguyên tắc giáo dục thống nhất tôn trọng nhân cách và
yêu cầu hợp lí trong giáo dục là gì? Nêu các yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc
giáo dục này.
9. Tại sao trong giáo dục lại phải thực hiện nguyên tắc kết hợp thống
nhất sự lãnh đạo của giáo viên phát huy tính tự giác, tích cực chủ động
của học sinh?
10. Bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp liên tục có ý nghĩa như thế nào trong
quá trình giáo dục? Lấy dẫn chứng thực tiễn để minh họa.
BÀI TẬP
Điều tra 20 học sinh của một lớp (ở trường Tiểu học, Trung học sở
hoặc Trung học phổ thông) để thấy được các đặc điểm về tinh thần, thái độ
đối với tập thể lớp của các em. Nêu những mặt mạnh, mặt yếu phân tích
nguyên nhân.
Chương 14: NỘI DUNG GIÁO DỤC
Giáo dục quá trình tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa
dạng nhằm hình thành phát triển các phẩm chất năng lực của con
người, đáp ứng được các yêu cầu của xã hội, thời đại. Để thực hiện mục tiêu
giáo dục - đào tạo, nhà trường phải chuyển tải các nội dung giáo dục tương
ứng đến học sinh, giúp cho các em chiếm lĩnh được các nội dung giáo dục đó
để hình thành nhân cách.
I. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC CƠ BẢN TRONG NHÀ TRƯỜNG
1. Giáo dục đạo đức và ý thức công dân
a. Giáo dục đạo đức
Ý nghĩa của giáo dục đạo đức
Đạo đức một hình thái ý thức hội, hệ thống các quan niệm về
cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Đạo đức
về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ hội, được
hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Đạo đức
quy tắc sống, vị trí to lớn trong đời sống nhân loại, đạo đức định
hướng giá trị cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với chuẩn mực của xã hội. Những giá trị phổ biến của đạo đức thể hiện trong
các khái niệm: thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn minh, lương tâm, trách
nhiệm... thang giá trị của đạo đức diễn biến theo lịch sử và mang tính dân tộc
Giáo dục đạo đức hoạt động của nhà giáo dục dựa theo yêu cầu
hội, tác động hệ thống lên người được giáo dục một cách có mục đích
kế hoạch để bồi dưỡng những phẩm chất tưởng mà nhà giáo dục
vọng, chuyển hóa những quan điểm, yêu cầu ý thức hội liên quan
thành phẩm chất đạo đức, tư tưởng của mỗi cá nhân.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, giáo dục đạo đức ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo và đối với toàn xã hội.
- Giáo dục đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định lâu dài của xã hội, xã
hội ổn định tiền đề, sở đphát triển, giáo dục đạo đức chính bảo
đảm cho sự ổn định lâu dài của xã hội. Lí tưởng, niềm tin, đạo đức được hình
thành qua công tác giáo dục đạo đức ở trong và ngoài nhà trường.
- Giáo dục đạo đức vị trí hàng đầu chủ đạo trong giáo dục nhà
trường, giáo dục đạo đức với tư tưởng chính trị rõ ràng có vai trò định hướng
cho các nội dung giáo dục khác. Nhà trường thông qua thực hiện công c
giáo dục thể nâng cao hiệu quả giáo dục, thúc đẩy hoàn thành các nhiệm
vụ giáo dục khác.
- Đối với sự phát triển của thanh thiếu niên, giáo dục đạo đức hình
thành cho họ hệ thống lập trường chính trị, quan điểm, thế giới quan mácxít
và phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trước xu
thế hội nhập của thế giới hiện đại, giáo dục đạo đức trong nhà trường giữ vai
trò rất quan trọng trong định hướng cuộc sống lựa chọn giá trị của thế hệ
trẻ.
Nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong nhà trường có thể khái quát như sau:
- Hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, nắm được những
quy luật bản của sự phát triển hội, ý thức thực hiện nghĩa vụ của
người công dân, từng bước trang bị cho học sinh định hướng chính trị kiên
định, rõ ràng.
- Giúp cho học sinh hiểu nắm vững những vấn đề bản trong
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ý thức học tập,
làm việc tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật.
- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phán đoán, đánh giá đạo đức, hình
thành niềm tin đạo đức, yêu cầu học sinh phải thấm nhuần các nguyên tắc
chuẩn mực đạo đức do hội quy định, biết tiếp thu văn minh nhân loại kết
hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc.
- Dẫn dắt học sinh biết rèn luyện đểnh thành hành vi, thói quen đạo
đức, có ý thức tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, có ý thức đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu.
Những nội dung chủ yếu để giáo dục đạo đức cho học sinh:
- Giáo dục luận bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh;
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước;
- Giáo dục lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản;
- Giáo dục chủ nghĩa tập thể;
- Giáo dục lòng nhiệt tình, hăng say lao động, ý thức bảo vệ tài sản
XHCN;
- Giáo dục dân chủ và pháp chế XHCN;
- Giáo dục hành vi văn minh trong c lĩnh vực của đời sống hội,
giáo dục ý thức công dân và các nội dung đạo đức mới XHCN.
Nội dung chủ yếu của giáo dục đạo đức phải phù hợp với yêu cầu của
công cuộc xây dựng phát triển đất nước, thực hiện ý nguyện của Đảng:
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Các bước của quá trình giáo dục đạo đức bao gồm:
- Quá trình tác động ng cao nhận thức về tưởng, chính trị, đạo
đức làm cơ sở cho sự hình thành, phát triển và thể hiện các hành vi đạo đức.
- Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, trong sáng, phù hợp với các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ, ứng xử của xã hội.
- Rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức.
Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là: Giảng dạy
môn Giáo dục công dâncác môn học khác qua hoạt động ngoại khóa, lao
động sản xuất, hoạt động của Đoàn thanh niên Đội thiếu niên, công tác
chủ nhiệm lớp. Hoạt động ngoại khóa các hoạt động ngoài nhà trường
con đường quan trọng thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh một cách
sinh động, hấp dẫn.
b. Giáo dục ý thức công dân
Toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường đều hướng vào mục
tiêu đào tạo một thế hệ công dân mới, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Học sinh hôm nay là công dân trong tương lai, họ sẽ là chủ nhân xây dựng và
bảo vệ đất nước, họ cần được giáo dục ý thức công dân, để trở thành những
công dân có ích nhất đối với Tổ quốc.
Ý thức công dân là một phạm trù xã hội học, nó phản ánh trình độ nhận
thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Nhà nước
với tư cách là những công dân chân chính của xã hội và của cộng đồng.
Nhiệm vụ giáo dục ý thức công dân trong nhà trường như sau:
Giáo dục chính trị - tưởng cho học sinh: giáo dục cho học sinh lòng
yêu nước; giáo dục cho học sinh hiểu rõ chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá
xã hội, mục tiêu là tiến tới xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; làm
cho học sinh quan tâm đến những vấn đề chính trị, hội đang diễn ra trong
nước trên thế giới; rèn luyện cho học sinh thói quen năng tham gia
các hoạt động xã hội, tham gia vào các phong trào chính trị, văn hoá được tổ
chức ở địa phương và nhà trường.
Giáo dục cho học sinh ý thức hành vi pháp luật: giúp cho học sinh
hiểu biết về nghĩa vụ quyền lợi của công dân để biết sống hành động
theo pháp luật, có ý thức đấu tranh với những biểu hiện vi phạm pháp luật, có
ý thức tuyên truyền, giúp đỡ mọi người xung quanh thực hiện đúng pháp luật.
Nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường bao gồm các
quyền nghĩa vụ của trẻ em trong quan hệ với gia đình, nhà trường
ngoài hội như: quyền được nuôi dưỡng, giáo dục; được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khoẻ danh dự; quyền được học tập, vui chơi, lao động,
được tham gia vào các hoạt động đoàn thể, xã hội; nghĩa vụ vâng lời dạy bảo
của cha mẹ, thầy giáo kính trọng người lớn; nghĩa vụ học tập phấn
đấu vươn lên để trở thành người công dân có ích cho Tổ quốc; nghĩa vụ tuân
theo các quy định của pháp luật (Luật An toàn giao thông, Luật Bảo vệ môi
trường, Luật Bảo vệ di sản văn hoá...).
2. Giáo dục thẩm mĩ
Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ
Thẩm giá trị khách quan vốn của các đối tượng trong tự
nhiên, hội con người, được con người nhận thức, đánh giá, thưởng
thức và sáng tạo.
Giáo dục thẩm là vận dụng cái đẹp của nghệ thuật, của tự nhiên
nét đẹp của cuộc sống hội để bồi dưỡng quan điểm thẩm năng lực
cảm thụ, thưởng thức, sáng tạo cái đẹp đúng đắn cho học sinh. Giáo dục
thẩm mĩ là bộ phận cấu thành cần thiết của mục tiêu giáo dục phát triển toàn
diện.
Con ngườichủ thể của đời sống xã hội, vừa có nhu cầu về đời sống
vật chất vừa có nhu cầu về đời sống tinh thần, trong đó nhu cầu thẩm mĩ.
Bồi dưỡng hun đúc cái đẹp hiệu quả nhất bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ.
Làm tốt công tác giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường sẽ nâng cao tố chất văn
minh tinh thần cho thế hệ trẻ và toàn dân tộc.
Giáo dục thẩm thmở rộng tầm nhìn cho học sinh, phát triển trí
lực tinh thần sáng tạo của học sinh. Con người thể nhận thức thế giới
bằng nhiều con đường, trong đó nghệ thuật. Nghệ thuật tái hiện đời sống
hiện thực thông qua hình tượng nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật một
phương thức phản ánh thế giới một cách sinh động, mới mẻ.
Giáo dục thẩm thể thúc đẩy trí lực của học sinh phát triển. Khi
học sinh cảm nhận và thể nghiệm tình cảm trước cái đẹp của tự nhiên, xã hội
và nghệ thuật sẽ thúc đẩy năng lực tư duy và năng lực sáng tạo phát triển.
- Giáo dục thẩm vai trò làm cho tâm hồn của học sinh trở nên
trong sáng hơn, rèn luyện cảm xúc, hoàn thiện phẩm chất đạo đức choc
em.
Sự thống nhất giữa cái đẹp cái thiện đã được đề cập đến từ lâu,
ngày nay với mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện, vấn đ y lại càng
được nhấn mạnh. Giáo dục thẩm ảnh hưởng to lớn tới giáo dục đạo
đức, thông qua hình tượng đẹp chúng ta có thể giáo dục, nâng cao năng lực,
phân biệt xấu, đẹp, thiện, ác, đồng thời tạo ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm,
tư tưởng của học sinh, gợi lên tiếng gọi từ nội tâm, hình thành phẩm chất đạo
đức và tình cảm cao thượng của học sinh.
- Giáo dục thẩm mĩ thúc đẩy học sinh vươn tới cái đẹp, biết thể hiện cái
đẹp trong mọi lĩnh vực của đời sống, tức là biết xây dựng cuộc sống theo quy
luật của cái đẹp.
Giáo dục thẩm mĩ và các nội dung giáo dục khác là điều kiện cho nhau,
tương hỗ lẫn nhau cùng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh. Vì vậy,
tăng cường giáo dục thẩm cho các cấp học, các ngành học xu thế tất
yếu hiện nay.
Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường là:
- Giúp học sinh hình thành quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nâng cao
năng lực thẩm mĩ. Quan điểm thẩm mĩ là thái độ và cách nhìn của con người
trong hoạt động thẩm mĩ. Mỗi thời đại có tiêu chuẩn thẩm mĩ riêng biệt. Trong
hội giai cấp giáo dục thẩm mang tính giai cấp. thế, nhiệm vụ của
giáo dục thẩm trong nhà trường trước hết giáo dục học sinh xây dựng
quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nắm vững tiêu chuẩn, phân biệt và đánh giá cái
đẹp, đồng thời phải bồi dưỡng cho học sinh tình cảm thẩm cao thượng.
Muốn nâng cao năng lực cảm thụ, hiểu biết thưởng thức cái đẹp của học
sinh thì phải tăng cường bồi dưỡng, truyền thụ tri thức nghệ thuật cơ bản, cần
thiết cho các em, bao gồm: tri thức mĩ học, văn học, âm nhạc, mĩ thuật... hiểu
biết tri thức nghệ thuật, cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, phân tích nét đẹp đời
sống xã hội, nâng cao năng lực thẩm mĩ.
- Bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ lành mạnh, kích thích học sinh yêu thích
và vươn tới cái đẹp chân chính. Con người thưởng thức cái đẹp theo sắc thái
tình cảm. Hướng dẫn học sinh thưởng thức các hình thái của cái đẹp, kích
thích c em tình cảm vui thích, yêu mến cái đẹp, hình thành tình cảm
thẩm lành mạnh, cao thượng tinh thần sáng tạo phấn đấu vươn lên để
thực hiện ý tưởng tốt đẹp.
- Giúp cho học sinh phát triển năng lực biểu hiện sáng tạo cái đẹp.
Con người ai cũng yêu thích cái đẹp. Điều này không chỉ biểu hiện hứng
thú, sở thích đối với sự vật đẹp, tác phẩm nghệ thuật còn mong muốn
biểu hiện và sáng tạo cái đẹp trong thực tiễn hội, phát triển nét đẹp mọi
nơi mọi lúc trong đời sống hội, trong cuộc sống hàng ngày (chú ý làm đẹp
môi trường, hành vi cử chỉ văn minh, phục trang hợp lí; đối nhân xử thế
khiêm nhường, lịch sự...).
Các nhiệm vụ giáo dục thẩm mối liên hệ với nhau, trong đó bồi
dưỡng quan điểm thẩm đúng đắn nhiệm vụ hạt nhân. quan điểm
đúng đắn mới thể hình thành tình cảm thẩm lành mạnh quan điểm
thẩm mĩ được thể nghiệm trong hoạt động thẩm mĩ, sáng tạo thẩm mĩ.
Giáo dục thẩm mĩ thông qua các con đường sau đây:
- Giáo dục nghệ thuật: Giáo dục nghệ thuật chiếm vị trí chủ yếu trong
nội dung giáo dục thẩm mĩ. Nghệ thuật bắt đầu từ cuộc sống và cao hơn cuộc
sống. Nghệ thuật phản ánh vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội một cách tập trung,
điển hình mang tính tiêu biểu nên sức truyền cảm tác dụng
giáo dục to lớn. Hình thức nghệ thuật có: văn học, mĩ thuật, âm nhạc,đạo
(múa), kịch, điện ảnh, truyền hình với nội dung phong phú, hình thức đa dạng.
Tác phẩm nghệ thuậthình thức nào cũng đặc điểm vai trò riêng, độc
đáo. Giáo viên cần dựa vào nội dung đặc điểm cụ thể của chúng để giáo
dục thẩm cho học sinh. Con đường giáo dục nghệ thuật trong nhà trường
bao gồm: 1. Giáo dục nghệ thuật trên lớp, bao gồm việc dạy các môn học
trong đó văn học, mĩ thuật, âm nhạc chiếm vị trí và vai trò quan trọng. 2. Hoạt
động văn học nghệ thuật ngoại khóa.
- Giáo dục thẩm thông qua dạy học các bộ môn khoa học, đặc
biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Mỗi môn học đều chứa đựng những tiềm
năng trong việc giáo dục cái đẹp, những tiềm năng này không giống nhau,
giáo viên cần căn cứ vào tiềm năng của từng môn học để khai thác chúng,
biết tìm ra cái đẹp ngay trong hệ thống kiến thức học sinh lĩnh hội. Ngày
nay, quá trình dạy học có sự hỗ trợ của phương tiện kĩ thuật hiện đại nên giáo
viên có điều kiện để làm sáng tỏ các góc độ của đối tượng thẩm mĩ.
- Thông qua xây dưng môi trường văn hoá lành mạnh trong gia đình,
nhà trường và xã hội. Nét đẹp trong cuộc sống gia đình được biểu hiện thông
qua quan hệ trực tiếp thường xuyên của ông bà, cha mẹ, anh chị em, những
người thân yêu ruột thịt. Sự thương yêu đùm bọc, chăm sóc của gia đình
sở để học sinh thể hiện những nét đẹp đó trong các mối quan hệ. Do đó
nhà trường cần phối hợp với gia đình, cung cấp cho họ những kiến thức,
phương pháp, hình thức giáo dục thẩm mĩ, giúp cho họ thấy được lợi ích của
những giá trị thẩm trong quan hệ gia đình. hội đẹp cội nguồn quan
trọng của giáo dục thẩm mĩ, nhà trường cần phối hợp với chính quyền, với
các quan văn hoá - nghệ thuật địa phương xây dựng nên môi trường
văn hoá trong sạch. nhà trường, cảnh quan môi trường phạm, các mối
quan hệ giao lưu trong trường, phong cách, cử chỉ, trang phục, ngôn ngữ, nét
mặt... được coiphương tiện quan trọng để giáo dục thẩm cho học sinh.
Giáo viên cần vận dụng thực tiễn sinh động đ giáo dục thẩm cho học
sinh, đồng thời tích cực gợi mở, hướng dẫn học sinh thể nghiệm, cảm thụ để
phát huy tác dụng thẩm mĩ của chúng. –
Giáo dục cái đẹp trong tự nhiên:
Cái đẹp tồn tại trong tự nhiên nphong cảnh đất nước, quê hương,
danh lam thắng cảnh... chính nguồn liệu sống không bao giờ cạn kiệt
của giáo dục thẩm mĩ, cần tạo điều kiện đhọc sinh tiếp xúc với cảnh quan
thiên nhiên.
3. Giáo dục lao động và hướng nghiệp
a. Giáo dục lao động
Lao động là phạm trù xã hội,vừa là điều kiện vừa là kết quả cho sự
tồn tại của xã hội loài người cũng như sự phát triển của mỗi cá nhân.
Nhờ lao động con người tạo ra những giá trị vật chất tinh
thần. Lao động trở thành thuộc tính bản chất của con người, thể hiện sự khác
biệt giữa con người và loài vật. Trong quá trình lao động, các mối quan hệ
hội giữa con người với con người được hình thành, qua đó thiết lập bộ mặt
nhân cách riêng cho mỗi con người.
Lao động không chỉ với mục đích chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt
động thực tiễn mà còn là phương tiện hình thành nhân cách, phát triển về mặt
thể lực, tác động đến sự phát triển trí tuệ của học sinh.
Mục đích của giáo dục lao động trong n trường phổ thông hình
thành cho học sinh quan điểm đúng đắn về lao động, hình thành thái độ tích
cực đối với lao động, nhu cầu và thói quen đối với lao động.
Nhiệm vụ của giáo dục lao động
- Giáo dục cho học sinh thái độ đúng đắn đối với lao động: Có tinh thần
trách nhiệm cao đối với công việc, nghề nghiệp, có thói quen lao động cần cù,
bền bỉ, ý thức tổ chức, kỉ luật, lao động sáng tạo, năng suất cao, lao
động với lương tâm nghề nghiệp, bổn phận nghĩa vụ lợi ích của bản
thân, gia đình, tập thể hội. Giáo dục ý thức đúng đắn đối với lao động,
lao động trung thực có năng suất cao vì phúc lợi xã hội và cá nhân.
- Cung cấp cho học sinh học vấnthuật tổng hợp, phát triển tư duy
thuật hiện đại. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,
đặc biệtsự phát triển của công nghệ thông tin đòi hỏi học sinh phải có học
vấn cần thiết để đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội hiện đại.
- Chuẩn bị cho học sinh những năng lao động thuật nghề
nghiệp một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định trong các khu vực kinh tế của
đất nước, của địa phương.
- Hình thành cho học sinh thói quen lao động văn hóa: làm việc
kế hoạch, khoa học, biết tiết kiệm, quý trọng của cải sức lao động, thực
hiện công việc được giao chuẩn xác, đúng thời hạn, biết lao động, nghngơi
hợp lí, khoa học v.v....
- Tổ chức các hoạt động để làm cho học sinh có những hiểu biết cơ bản
về các ngành, nghềthị trường lao động trước mắt sự phát triển lâu dài
của kinh tế, sản xuất để có khả năng lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng
lực, nguyện vọng của bản thân và yêu cầu của xã hội.
Tổ chức cho học sinh trực tiếp tham gia lao động sản xuất các loại
hình lao động khác để góp phần sáng tạo những giá trị vật chất tinh thần
cho bản thân và xã hội.
Một số loại hình lao động
Lao động học tập: Là dạng lao động cơ bản, chiếm thời gian nhiều nhất
trong các hoạt động của học sinh trong nhà trường, mục đích chủ yếu là cung
cấp cho học sinh hệ thống kiến thức khoa học. Hoạt động học tập chỉ thực sự
một dạng lao động mang tính giáo dục đối với học sinh khi sự tham gia
gia tích cực của trí tuệ và được tổ chức một cách khoa học, hợp lí.
- Lao động sản xuất của học sinh trong nhà trường: dạng lao động
ý nghĩa to lớn, đó sự tham gia trực tiếp của học sinh vào một lĩnh vực
nghề nghiệp nào đó, đem lại những sản phẩm cụ thể, thông qua đó hình
thành những phẩm chất quý báu của người lao động điều kiện để thử
sức mình những nghề nghiệp nhất định. Lao động sản xuất của học sinh
thường được tiến hành ở cơ sở sản xuất ngoài xã hội hay trong vườn trường,
xưởng trường.
- Lao động công ích hội: Lao động công ích của học sinh rất phong
phú như tu sửa trường lớp, sân chơi, thư viện, vệ sinh đường phố, đường
làng, trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường sinh thái... Lao động công ích
thường lao động không thù lao, rất ưu thế trong việc giáo dục ý
thức trách nhiệm, hình thành tình cảm, tinh thần đoàn kết trong tập thể
- Được học sinh tiến hành ở gia đình (vệ sinh nhàLao động tự phục vụ:
cửa, sửa chữa đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc cây, vật nuôi trong gia đình...)
tiến hành ở nhà trường (vệ sinh trường lớp, sửa chữa đồ dùng học tập, chăm
sóc vườn trường....).
Nội dung, chương trình giáo dục lao động cho học sinh trong nhà
trường phổ thông thể hiện trong chương trình môn Kĩ thuật được Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành và áp dụng trong tất cả các trường phổ thông. Trong đó
những phần bắt buộc (phần chung) nhằm trang bị cho học sinh tri thức,
năng cần thiết đối với hoạt động thuật. Học phần riêng (do nhà trường tự
chọn) sẽ giúp học sinh hiểu được thuật công, nông nghiệp, nghề địa
phương đang phát triển. Nhờ đó học sinh được định hướng cụ thể trước hệ
thống nghề của địa phương các vùng lân cận, giúp cho việc sử dụng học
sinh ra trường được hợp lí.
Một số yêu cầu để tổ chức lao động cho học sinh có hiệu quả:
- Tổ chức cho học sinh tham quan các sở sản xuất theo kế hoạch,
phân bố nội dung của giáo dục lao động theo trình tự giáo dục.
- Lựa chọn các dạng lao động đ học sinh thể làm quen với một
phạm vi rộng các dạng lao động xã hội.
- Lựa chọn các hình thức lao động theo hướng phức tạp dần đảm
bảo phù hợp với trình độ, lứa tuổi, giới tính của học sinh.
- Cần tổ chức lao động phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hoá, hội
của địa phương để khai thác kinh nghiệm của học sinh thu hút các em đi
vào lĩnh vực nghề nghiệp mà địa phương đang yêu cầu.
- Những người hướng dẫn lao động cần phải kiến thức năng
về lĩnh vực lao động để đảm bảo lao động mang lại hiệu quả.
b. Giáo dục hướng nghiệp
Hướng nghiệp một hoạt động của tập thể phạm nhằm giúp học
sinh chọn nghề một cách hợp lí, phù hợp với hứng thú, nguyện vọng, năng
lực của cá nhân và yêu cầu của xã hội.
Hướng nghiệp được coi một bộ phận cấu thành trong toàn bộ công
tác giáo dục. Việc chọn nghề của học sinh không thể đ diễn ra một cách
ngẫu nhiên, tự phát phải một quá trình giáo dục. Dưới sự hướng dẫn,
ảnh hưởng của thầy giáo, cha mẹ, bạn bè, thông tin luận hội v.v... làm
cho quá trình chọn nghề của học sinh từ chỗ "định hướng ban đầu" đến chỗ
"tự quyết định con đường đi vào nghề nghiệp tương lai" được đúng đắn.
Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
Thứ nhất, định hướng nghề nghiệp: Công việc chủ yếu của định hướng
nghề nghiệp thông tin về sự phát triển củac nghề trong hội, nhất
những nghề đang cần nhiều nhân lực kể cả những nghề trong khu vực kinh tế
Nhà nước các thành phần kinh tế khác trong cả nước nói chung địa
phương nói riêng. Những thông tin này bao gồm:
- Yêu cầu tâm - sinh lí của nghề
- Tình hình phân công lao động, yêu cầu tuyển chọn; - Điều kiện lao
động và triển vọng của nghề;
- Những quan niệm (thường biểu hiện dưới dạng luận hội) đúng
hoặc sai lệch về một số nghề trong xã hội hiện tại.
- Yêu cầu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ trong những giai đoạn
trước mắtlâu dài của đất nước và địa phương liên quan đến sự phát triển
của các ngành nghề.
- Hệ thống các trường dạy nghề.
- Các tổng công ti, công ti, nhà máy, xí nghiệp, công - nông trường, hầm
mỏ, hợp tác v.v... Các sở sản xuất (địa điểm, cấu hoạt động, sản
phẩm...) để có hướng chọn cho mình một chỗ đứng sau này.
Đối tượng tác động để định hướng nghề nghiệp học sinh, đặc biệt là
những học sinh lớp cuối cấp (lớp 9 trường PTCS và lớp 12 trường PTTH).
Biện pháp và phương tiện thông tin nghề nghiệp cho học sinh là:
- Giới thiệu, tuyên truyền về nghề qua buổi sinh hoạt hướng nghiệp.
Công việc này thể do giáo viên làm, thể mời người sử dụng lao động,
người đã từng lao động các sở đến báo cáo, nói chuyện, trao đổi với
học sinh về nghề.
- Tạo điều kiện cho học sinh được làm quen với một số nghề hiện
trong hội. dụ như: Tổ chức cho các em tham quan sản xuất, tham gia
lao động ở một số cơ sở sản xuất nếu có điều kiện (nhận gia công một số chi
tiết hoặc một số mặt hàng theo hợp đồng cho nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã);
tổ chức lao động sản xuất ở trường.
- Tăng cường mở rộng các phương tiện thông tin đại chúng (phát
thanh tuyên truyền, báo chí, phim ảnh, quảng cáo...) để giới thiệu về nghề.
Quá trình thông tin nghề nghiệp trong xã hội cho học sinh cần bảo đảm
một số yêu cầu như: giúp học sinh định hướng vào những nghề đang có nhu
cầu nhân lực lớn, cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, những nghề đòi hỏi
năng khiếu đặc biệt để gây hứng thú nghề nghiệp cho học sinh.
Thứ hai, tư vấn nghề nghiệp: Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp các
nhân, đặc biệt thanh thiếu niên trong quá trình định hướng, tìm chọn
cũng như thay đổi nghề. Để vấn nghề nghiệp các nước thường thành lập
những ban vấn nghề nghiệp trong trường học. Việt Nam, trong các
trường phổ thông hiện nay, công tác hướng nghiệp được coi một nội dung
giáo dục của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp thường người vấn
nghề nghiệp cho học sinh. Cũng thể thành lập những trung tâm vấn
nghề nghiệp ngoài nhà trường. Người làm công tác vấn qua quá trình
tiếp xúc với học sinh, với cha mẹ học sinh, với các giáo viên bộ môn... nắm
được đặc điểm nhân cách của học sinh, hoặc dựa vào sự khảo sát, điều tra,
đánh giá các môn văn hóa, môn kĩ thuật và lao động sản xuất, nghiên cứu các
sản phẩm hoặc kết quả hoạt động... người làm công tác tư vấn lập sổ hướng
nghiệp cho từng học sinh, ghi lại những cần thiết; cuối cùng trên sở đó
cho học sinh những lời khuyên trong việc chọn nghề.
Thứ ba là tuyển chọn nghề (Thích hợp nghề)
Ngoài ra, người làm công tác vấn nghề nghiệp phải xây dựng một
phác đồ nghề nghiệp để giới thiệu cho học sinh, chỉ ra cho học sinh thấy
được mức độ phù hợp hay không phù hợp giữa nhận thức, khả năng của
nhân với yêu cầu thực tế khách quan của nghề, tức là mối quan hệ giữa nghề
với cá nhân. Từ đó học sinh sẽ quyết định chọn nghề gì.
Trường phổ thông căn cứ vào nhu cầu nhân lực của mỗi nghcụ thể
trong kế hoạch phát triển kinh tế để định hướng, tư vấn nghề nghiệp cho học
sinh. Nghiên cứu, tham khảo sổ hướng nghiệp của học sinh, các trường dạy
nghề, trường trung học chuyên nghiệp, đại học, cao đẳng, nhà máy, xí nghiệp,
hợp tác xã sẽ có những cứ liệu quan trọng để tuyển chọn người phù hợp, làm
rõ được mối quan hệ nghề - cá nhân trong việc sắp xếp, bố trí nghề.
Ba nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông có mối
quan hệ gắn hữu với nhau, thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng
đồ tam giác hướng nghiệp.
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp được thực hiện bằng các con
đường sau:
- Hướng nghiệp qua dạy học các môn khoa học bản, trước hết
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và có hệ thống về khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và tư duy. Đó là những khái niệm, quy luật, lí thuyết cơ
bản liên quan đến thuật sản xuất. Những môn học này cung cấp
những cơ sở khoa học cho việc thực hiện giáo dục kĩ thuật tổng hợp, giúp cho
việc xây dựng và phát triển những năng lực phong phú, đa dạng của học sinh;
chuẩn bị cho các em đi vào lao động nghề nghiệp.
- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học môn thuật lao động sản
xuất trong trường học.
- Tổ chức cho học sinh tham gia sản xuất các nhà máy, nghiệp,
công nông trường, hợp tác xã, sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp... nhằm
giúp học sinh có biểu tượng rõ hơn về những nghề đang cần tìm hiểu.
- Hướng nghiệp qua sinh hoạt hướng nghiệp: Thông số 31/TT của
Bộ Giáo dục Đào tạo đã nêu: "Để giúp học sinh hiểu các ngành nghề,
các trường tạm thời sử dụng mỗi tháng một buổi lao động để giới thiệu, tuyên
truyền, giải thích về ngành nghề". Sinh hoạt hướng nghiệp nhằm giúp học
sinh được bước chuẩn bị, sẵn sàng về tâm để đi vào lao động sản xuất
xã hội. Các hình thức và nội dung sinh hoạt hướng nghiệp bao gồm:
- Giới thiệu những nghề đang cần nhiều nhân lực, nghề địa phương,
những yêu cầu về sự phù hợp giữa người và nghề.
- Giới thiệu hệ thống các trường đào tạo nghề (Trung ương địa
phương).
Thông số 31 - TT của Bộ Giáo dục Đào tạo đã nêu lên những
hình thức ngoại khóa chính như sau:
- Xây dựng các tổ ngoại khóa;
- Xây dựng phòng hướng nghiệp;
- Tổ chức cho học sinh tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm
yêu cầu của các ngành nghề đang phát triển;
- Giới thiệu, tuyên truyền nghề nghiệp với cha mẹ học sinh;
- Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Đội
Thiếu niên Tiền phong trong công tác hướng nghiệp;
- Tổ chức hội thi khéo tay kĩ thuật trong học sinh.
Mỗi hình thức hướng nghiệp vai trò, vị trí nhất định của nó. Khi áp
dụng, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi trường cần kết hợp chúng
một cách linh hoạt nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp trong nhà
trường phổ thông hiện nay.
4. Giáo dục thể chất
Ý nghĩa của giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất (thể dục) bộ phận cấu thành quan trọng của nền
giáo dục phát triển toàn diện; thể dục biện pháp quan trọng nâng cao sức
khoẻ người dân, tăng cường thể chất, làm phong phú đời sống văn hoá
hội, nâng cao sức sản xuất hội. Giáo dục thể chất theo nghĩa rộng bao
gồm giáo dục rèn luyện thân thể giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe; rèn
luyện thân thể nghiêng về bồi dưỡng cơ thể, còn giáo dục vệ sinh giữ gìn sức
khỏe lại nghiêng về bảo vệ sức khỏe. Giáo dục thể chất theo nghĩa hẹp, chủ
yếu chỉ rèn luyện thân thể hoặc giáo dục vận động thể dục thể thao.
Hiện nay giáo dục thể chất trong nhà trường phải chú ý làm tốt hai việc:
thể dục vệ sinh sức khỏe. Giáo dục thchất trong ntrường ý nghĩa
quan trọng, được biểu hiện như sau:
- Giáo dục thể chất thể thúc đẩy học sinh phát triển thân thể khỏe
mạnh, tăng cường thể chất cho học sinh.
- Giáo dục thể chất là bộ phận không thể thiếu để thúc đẩy sự phát triển
toàn diện của học sinh, bộ phận hợp thành quan trọng của nền giáo dục
phát triển toàn diện. Thân thkhoẻ mạnh sở vật chất để thực hiện các
nhiệm vụ giáo dục khác. Giáo dục thể chất liên hệ mật thiết với giáo dục đạo
đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ và lao động.
- Giáo dục thể chất không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức
cho học sinh mà còn làm cho tinh thần con người mạnh khỏe, cuộc sống văn
minh vui vẻ,ý nghĩa, tạo nên hành vi và thói quen văn minh như tôn trọng
kỉ luật, trách nhiệm với tập thể, tôn trọng, tuân theo trật tự công cộng, giữ gìn
môi trường sạch đẹp, giữ gìn vệ sinh.
Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất trong nhà trường
- Tăng cường thể chất, sức khỏe cho học sinh. Tổ chức cho học sinh
rèn luyện thân thể, thúc đẩy thể học sinh phát triển bình thường, tăng
cường thể chất sức khỏe cho học sinh, phát triển toàn diện năng lực hoạt
động bản của thể cũng n tố chất của thể như: tốc độ, độ nhạy
cảm, sức mạnh, độ dẻo dai, nhanh nhạy... hay các vận động bản như
chạy, nhảy, nâng, trèo... nâng cao vận động thích ứng với môi trường tự nhiên
cho học sinh.
Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức bản vànăng kĩ xảo của
vận động thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một
cách khoa học.
- Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen
vệ sinh tốt, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ tăng cường
sức khỏe tâm sinh lí.
- Thông qua thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học
sinh, tạo nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng. Nội dung giáo dục th
chất trong nhà trường:
- Vận động thể dục thể thao: Đây nội dung chủ yếu của thể dục nhà
trường, là phương pháp chủ yếu bảo đảm sự phát triển khỏe mạnh của tâm
học sinh, bao gồm vận động điền kinh, thể thao, các loại bóng, bơi lội, trò
chơi, thuật... hoạt động thể dục trong giáo dục quốc phòng, tận dụng
điều kiện tự nhiên rèn luyện thân thể.
Vệ sinh nhà trường, yêu cầu nhà trường cần xây dựng chế độ học tập,
sinh hoạt hợp lí, kiểm soát, khống chế chặt chẽ hoạt động của học sinh trong
nhà trường, bảo đảm thời gian nghỉ ngơi hợp lí, tạo nên thói quen sinh hoạt
tốt, có kỉ luật. Thiết bị sinh hoạt trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra
vào to nhỏ, thấp cao; hướng ánh sáng, độ phản quang của bảng, đèn chiếu
sáng.... đều đòi hỏi phải phù hợp với mức độ học tập tình trạng phát triển
cơ thể của học sinh.
Cần làm cho học sinh hiểu rõ tri thức vệ sinh học tập, tạo nên thói quen
học tập tốt, tạo tư thế ngồi, đi đứng, viết... đúng tư thế, đảm bảo cho học sinh
phát triển bình thường. Bảo vệ thị lực cho học sinh đang vấn đnổi cộm
hiện nay, phải kiên trì bảo vệ sức khỏe đôi mắt, giúp học sinh hiểu về vệ sinh
mắt. Khi sắp xếp chỗ ngồi phải chú ý điều tiết thị lực học sinh. Cũng cần làm
cho học sinh hiểu về vệ sinh vận động, luyện tập theo khoa học.
Thiết bị thể dục sân bãi cần phù hợp với yêu cầu về sự an toàn,
phòng tránh xảy ra sự cố. Cần tiến hành kiểm tra sức khỏe định cho học
sinh, làm tốt công tác phòng trị bệnh để đảm bảo cho học sinh phát triển
tốt
II. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC MỚI
hội loài người đang bước o thời khoa học công nghệ phát
triển như bão. Với xu thế mở cửa, hội nhập của thế giới, đời sống hội,
giáo dục đang phải giải quyết những vấn đề tính bức thiết đầy thách
thức. Để giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới khả
năng và bản lĩnh thích ứng cao với những biến động của xã hội hiện đại, giáo
dục trong nhà trường hiện nay đã được bổ sung những nội dung giáo dục cho
phù hợp
1. Giáo dục môi trường
a. Khái niệm
Môi trường vùng vật sinh học xung quanh con người, môi
trường sinh quyển bao gồm không khí, đất đai hệ sinh thái ảnh
hưởng đến cuộc sống của con người. Hệ sinh thái khái niệm chỉ mối quan
hệ tương hỗ với nhau giữa quần sinh vật môi trường. Hệ sinh thái
đơn vị tự nhiên của các vật hữu sinh và vô sinh ở trong thế cân bằng.
Mô hình hệ sinh thái:
Quần xã sinh vật - Môi trường xung quanh - Năng lượng mặt trời - Hệ sinh
thái
Tóm lại môi trường là tất cả các nhân tố vô sinh và hữu sinh bao quanh
Trái Đất, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống và sự phát triển
của mọi lĩnh vực sống.
Ô nhiễm môi trường: môi trường bị nhiễm các chất độc hại, nhiễm
bẩn hoặc tiếng ồn quá giới hạn cho phép, hoặc do sự khai thác của con
người làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh
thái
Ô nhiễm môi trường là kết quả của ba yếu tố. quy mô dân số, mức tiêu
thụ tính theo đầu người, tác động của môi trường.
Quy mô dân số x Mức tiêu thụ/người x Tác động của môi trường (đơn vị sx) =
Độ ô nhiễm
Các loại môi trường bị ô nhiễm: môi trường đất, môi trường nước,
không khí, môi trường bị ô nhiễm bởi tiếng ồn.
b. Nội dung giáo dục môi trường
* Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
Bảo vệ nơi sinh sống và phát triển của quần xã sinh vật và tôn trọng sự
cân bằng của hệ sinh thái.
- ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh chống lại
những hành vi ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, không khai thác bừa
bãi tài nguyên, tàn phá thiên nhiên.
- ý thức giữn sự trong lành của môi trường sống hàng ngày của
con người ở mọi nơi, mọi chỗ.
* Bồi dưỡng kiên thức về môi trường, bảo vệ chống ô nhiễm môi
trường
- Tìm hiểu về môi trường, hệ sinh thái;
- Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường và tác hại của nó (ô nhiễm đất,
bầu khí quyển, "hiệu ứng nhà kính", ô nhiễm nguồn nước, hoá chất, thuốc trừ
sâu...);
- Rèn luyện hình thành thói quen giữ gìn vệ sinh, bảo đảm sự trong
lành của môi trường sống xung quanh con người, tham gia tích cực vào các
hoạt động giữ gìn và làm sạch môi trường.
c. Các con đường giáo dục môi trường cho học sinh
- Thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học tự nhiên hội, đặc
biệt là các môn học có nội dung tri thức có thể khai thác bằng cách lồng ghép,
tích hợp hoặc theo môđun để giáo dục môi trường có hiệu quả như môn Sinh
học, Địa lí, Đạo đức, Giáo dục công dân...
- Tổ chức trao đổi, tọa đàm, tranh luận qua các buổi sinh hoạt về môi
trường và bảo vệ môi trường cũng như các hoạt động cụ thể.
Tổ chức cho học sinh tham gia o việc bảo vệ môi trường: tuyên
truyền, cổ động, trồng cây, chăm sóc hoa, chim, cây cảnh, dọn vệ sinh, diệt
ruồi, muỗi, bọ gậy...
- Tham quan, du lịch môi trường sinh thái, danh lam thắng cảnh, rừng
nguyên sinh, các môi trường tự nhiên và thiên nhiên nhân tạo.
2. Giáo dục dân số
a. Khái niệm
Giáo dục dân số (population education) là thuật ngữ UNESCO dùng để
chỉ một chương trình giáo dục nhằm giúp người học hiểu được mối quan hệ
qua lại giữa động lực dân số các nhân tố khác của chất lượng cuộc sống,
từ đó hình thành ý thức trách nhiệm của từng nhân trước những quyết
định về lĩnh vực dân số nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân,
gia đình và xã hội.
Giáo dục dân số có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một quá trình giúp cho
người học những hiểu biết về các vấn đề dân số, trên sở đó nhãn
quan đúng đắn về phát triển dân số, quygia đình, kế hoạch hóa gia đình,
phát triển cải thiện chất lượng cuộc sống. Giáo dục dân số (GDDS) trở
thành một nội dung giáo dục không thể thiếu được cho học sinh trong nhà
trường hiện nay để thế hệ trẻ nâng cao hiểu biết, ý thức trách nhiệm đ
chuẩn bị làm cha mẹ sau này.
Chính sách dân số như nh thức điều khiển sự phát triển dân số, nó
tác động đến tái sản xuất dân cư, đến các điều kiện sống của mọi tầng lớp
nhân dân và nó hoàn thiện các điều kiện lao động, hệ thống tiền lương và các
nguồn gốc thu nhập khác, điều chỉnh việc chuyển cấu lãnh thổ dân
cư.
Tuổi kết hôn: độ tuổi được phép xây dựng gia đình theo pháp luật
(tuổi tối thiểu của nữ đủ 18, nam đủ 20). - Quy mô gia đình
- Kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ): Điều chỉnh số con sinh ra một cách
ý thức, chủ động trong nội bộ một gia đình, thông qua sự tự nguyện của
hai vợ chồng. KHHGĐ là tổng hợp các biện pháp nhằm chủ động và hạn chế
việc sinh đẻ và sinh đẻ có kế hoạch.
b. Mục tiêu của giáo dục dân số
- Cung cấp những tri thức cơ bản về Dân số học, tình hình dân số trên
thế giới, trong nước và địa phương; các chính sách về dân số và KHHGĐ.
- Nâng cao nhận thức về khả năng điều chỉnh hoạt động sinh đẻ của
con người để tạo ra sự cân đối giữa dân số sản xuất, chất lượng cuộc
sống.
- Định hướng những giá trị đạo đức mới, khắc phục những quan niệm
cũ không còn phù hợp về hôn nhân, gia đình và hạnh phúc gia đình.
- Giáo dục thái độ, hành vi đúng đắn trước những vấn đề dân số đất
nước, phát triển dân số hợp lí, phân bố dân cư và lao động.
- Bồi dưỡng tri thức và kĩ năng thực hiện KHHGĐ, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
- Biết làm công tác, tuyên truyền về GDDS và KHHGĐ.
c. Nội dung và con đường giáo dục dân số
* Nội dung giáo dục dân số
Về mặt thuyết làm cho học sinh hiểu mối quan hệ giữa dân số,
môi trường và chất lượng cuộc sống.
Dân số <-> Môi trường <-> Chất lượng cuộc sống <-> Dân số
Chất lượng cuộc sống
Mục tiêu GDDS:
- Bồi dưỡng nhận thức
- Thái độ đúng
- Có hành vi thích hợp
=> Quy gia đình hợp lí; Phát triển dân số hợp lí; Phân bố dân
hợp lí
- Nắm vững ba khái niệm cơ bản: Dân số, chất lượng cuộc sống và môi
trường.
- Nắm vững hai mối quan hệ bản: Quan hệ dân số chất lượng
cuộc sống, quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống.
Về mặt thực tiễn, vận dụng năm chủ điểm GDDS trong khu vực vào
thực tiễn nước ta.
- Quy gia đình chất lượng cuộc sống: Chấp nhận gia đình quy
nhỏ, mỗi cặp vợ chồng chỉ 1 hoặc 2 con, sinh cách nhau 5 năm (QĐ
162 HĐBT).
- Tuổi kết hôn hợp lí: Nữ đ18 tuổi, nam đủ 20 tuổi, vận động kết hôn
muộn khi nữ đủ 22 tuổi, nam đủ 24 - 25.
- cách trách nhiệm làm cha mẹ: Được trang bị những kiến thức
tối thiểu về sinh đẻ kế hoạch, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ thai nghén
sinh sản, nuôi con, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm làm cha mẹ.
- Nắm được mối quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống,
từ đó làm nổi bật tính cấp bách của kế hoạch hoá dân số và sinh đẻ - KHHGĐ
trong hiện tại tương lai. Xác định lựa chọn những giá trị hội liên
quan đến dân số (như số con, con trai, con gái, hạnh phúc gia đình...)
* Các con đường giáo dục dân số
- Thông qua phương pháp lồng ghép - tích hợp nội dung GDDS vào các
môn học tự nhiên, xã hội.
- Thông qua các hoạt động ngoại khoá: nói chuyện về dân số, sinh hoạt
câu lạc bộ tìm hiểu về dân số, KHHGĐ, hoạt động nghệ thuật, tuyên truyền về
dân số.
- Tổ chức cho học sinh tham gia cuộc tuyên truyền về GDDS, tư vấn về
GDDS.
- Phổ biến, giới thiệu cho học sinh nắm được các chủ trương, chính
sách của Đảng Nhà nước về dân số (chính sách dân sô), các chiến lược
phát triển dân số và xây dựng, nâng cao chất lượng cuộc sống.
3. Giáo dục giới tính
a. Khái niệm và ý nghĩa
Giới tính những đặc điểm riêng biệt về giải phẫu sinh thể
những đặc trưng về tâm(hứng thú, tình cảm, xúc cảm, tính cách, năng lực,
nhận thức...) tạo nên sự khác biệt giữa giới nam và nữ.
Giáo dục giới tính (GDGT) "giáo dục về chức năng làm một con
người giới tính, điều quan trọng đề cập vấn đề giới tính một cách công
khai đầy đủ lớp từ nhà trẻ đến đại học, giúp cho học sinh cảm thấy an
toàn và tự do trong việc biểu lộ cảm xúc liên quan tới đời sống giới tính" (theo
Từ điển bách khoa về giáo dục). Ta thể hiểu GDGT một quá trình tác
động phạm hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những
đặc trưng những khuynh hướng phát triển của nhân cách nhằm xác định
thái độ xã hội cần thiết của cá nhân đối với các vấn đề giới tính.
GDGT ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm của thanh thiếu niên
học sinh. hội hiện đại đã những yếu tố điều kiện dẫn đến sự phát
triển sớm về giới ở trẻ em. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao, sự bùng nổ
thông tin với nhiều phương tiện nghe nhìn, phim ảnh về cuộc sống gia đình,
tình yêu, quan hệ nam nữ ảnh hưởng rất nhiều nhanh nhậy với thế hệ trẻ.
Xã hội hiện đại cần phải rất quan tâm đến vấn đề GDGT.
- GDGT nh hưởng trực tiếp đến giáo dục dân số. GDGT cung cấp
những kiến thức khoa học về dân số kế hoạch hoá gia đình, sức khoẻ sinh
sản, về hạnh phúc gia đình... giúp cho học sinh có hiểu biết và ý thức làm chủ
trong các quan hệ tình bạn, tình yêu hôn nhân sau này; thực hiện được
mục tiêu nội dung của giáo dục dân số trong thế htrẻ - một bộ phận rất
quan trọng trong dân cư.
- GDGT là con đường hữu hiệu ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm qua con
đường tình dục, đặc biệt là HIV - AIDS.
- GDGT sẽ giúp cho thanh thiếu niên học sinh hình thành thái độ, hành
vi đúng đắn trong các mối quan hệ bạn khác giới, biết làm chủ trong việc
giải quyết các vấn đề có liên quan đến tình yêu, hôn nhân, gia đình, xây dựng
cuộc sống lành mạnh, có văn hoá, hướng tới cuộc sống hạnh phúc.
b. Nội dung và các con đường giáo dục giới tính
* Nội dung giáo dục giới tính bao gồm những kiến thức về sự phát triển
của giới nam và nữ.
- Về giải phẫu sinh lí.
- Cấu tạo, chức năng của các cơ quan sinh dục nam - nữ.
- Tuổi dậy thì những biểu hiện, cách nhận biết giải quyết những
"bí ẩn" ở tuổi dậy thì.
- Sinh sản và sức khoẻ sinh sản vị thành niên.
- Các kiến thức, hiểu biết về sức khoẻ của giới, phòng tránh thai, phòng
tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục.
Giáo dục về các mối quan hệ xã hội theo giới của cá nhân mỗi người:
- Quan hệ hôn nhân, gia đình.
- Quan hệ, bổn phận của mỗi người nam, nữ khi trở thành cha mẹ, con
cái (trai, gái, dâu, rể), ông bà, anh chị, em...
- Quan hệ bạn bè và bạn khác giới.
- Tình yêu nam - nữ
Giáo dục, hình thành ng xác định các giá trị hội; tưởng, lẽ
sống, hạnh phúc gia đình, dân tộc, con cái (trai, gái, tình yêu, cuộc sống, tình
yêu, cuộc sống, tình bạn...).
* Các con đường giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông - Thông
qua giảng dạy, học tập các môn khoa học tự nhiên, khoa học hội bằng
phương pháp lồng ghép hoặc tích hợp.
- Thông qua các chương trình, hoạt động ngoại khoá như: + Diễn đàn
trao đổi về các chuyên đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân, gia đình.
+ Tìm hiểu các tài liệu, sách báo, phim, ảnh về cấu tạo, chức năng, vệ
sinh thường thức, phòng tránh các bệnh của các bộ phận sinh dục, sinh sản
của nam - nữ.
+ Triển lãm về phòng tránh thai (phương thức, phương tiện, dụng cụ...).
- Qua tư vấn (tình yêu, hôn nhân, gia đình, các bệnh của mỗi giới, tâm
lí và bệnh tâm lí...).
Qua các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá, văn nghệ với các
đề tài về giới, về hôn nhân, hạnh phúc gia đình...
- Qua các hoạt động vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao.
- Qua các môn học tự chọn (nấu ăn, nữ công, du lịch, cắm tỉa hoa,
nhạc, họa, kĩ thuật...).
4. Giáo dục phòng chống ma túy
a. Khái niệm
Ma túy những chất như thuốc phiện, hêrôin, côcain, moocphin... khi
vào cơ thể người sẽ gây nghiện và huỷ hoại, làm thay đổi các chức năng sinh
lí, tâm của con người. Ma túy thể được đưa vào thể người qua các
con đường:
- Hút thuốc phiện, cần sa.
- Ngửi, hít hêrôin, côcain bằng cách đốt cháy trực tiếp rồi ngửi, hít khói
của chúng vào miệng, mũi.
- Nhai, nuốt, uống các thuốc kích thích thần kinh.
- Tiêm, chích dưới da, tĩnh mạch các chất như moocphin, đôlacgan,
hêrôin dưới dạng lỏng.
Nghiện ma túy: Theo nghĩa khoa học thì nghiện ma túy trạng thái
nhiễm độcthể theo chu kì hay mãn tính khi đã sử dụng chất ma tuý thành
thói quen.
Những biểu hiện có thể nhận biết người nghiện ma túy:
- Ở thể nhẹ (mới mắc nghiện một thời gian ngắn): ngáp vặt, chảy nước
mắt, nước mũi, hay ho vặt, vã mồ hôi, khi đói thuốc thì mắt lờ đờ, chân tay đờ
đẫn, không muốn làm gì ngoài việc đi tìm thuốc để thoả mãn cơn nghiện.
- Ở thể nặng thì nôn mửa, xuất huyết đường tiêu hoá, đau buốt xương,
cơ, khớp, nhức đầu, sút cân, thể suy sụp. Khi đói thuốc không được
đáp ứng thì người nghiện rũ, co giật, sùi bọt mép, đau buốt, mỏi mệt toàn
thân. Người nghiện thường lên cơn nghiện vào một thời điểm nhất định trong
ngày và hầu như không thể cưỡng lại được nếu như không có một ý chí kiên
cường, chịu đựng, vượt qua cơn đau, đòi hỏi của cơ thể.
Hiện nay người ta thể dùng phép thử nước tiểu của người nghiện
bằng que chỉ thị màu sẽ biết chính xác tình trạng nghiện ma tuý của người
nghiện một cách nhanh chóng.
Những người rơi vào nghiện ma túy không tránh khỏi những tai hoạ
sau:
- Sức khoẻ, trí tuệ bị huỷ hoại, không sức đề kháng với bệnh tật,
luôn uể oải, không còn khả năng lao động.
- Người nghiện ma tuý làm cho hạnh phúc gia đình tan vỡ, tài sản
khánh kiệt, trở thành gánh nặng cho gia đình.
- Ma túy nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy các tệ nạn hội khác,
bạn đồng hành của tội ác và tội phạm.
- Ma túy là con đường ngắn nhất dẫn tới lây nhiễm HIV/AIDS.
b. Mục đích giáo dục phòng chống ma túy học đường
- Nâng cao nhận thức cho thế htrẻ, học sinh về tính chất tác hại
của ma tuý, một hiểm hoạ của hội loài người, quốc gia, dân tộc, thời đại.
Mọi người, đặc biệt thanh thiếu niên học sinh phải cảnh giác với kẻ thù
nguy hiểm này.
- Tuyên truyền, giáo dục cho học sinh biết cách phòng chống ma tuý
cho bản thân, cho gia đình và xã hội.
- Làm cho học sinh biết tổ chức, xây dựng lối sống lành mạnh, lạc
quan, yêu đời, không mắc vào các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút làm
cho nhân cách, phẩm chất bị đồi bại, thân thể tàn phế.
Giáo dục phòng chống ma tuý còn có mục đích làm cho học sinh biết tỏ
thái độ kiên quyết chống lại việc sản xuất, buôn bán, tàng trữ và sử dụng trái
phép ma tuý và những người tiếp tay cho tệ nạn ma tuý này.
c. Các hình thức giáo dục phòng chống tệ nạn ma tuý trong trường học
- Thông qua dạy học các môn Chính trị, Đạo đức, Giáo dục công dân..
- Qua các buổi sinh hoạt tập th (sinh hoạt lớp, Đoàn, Đội, chào cờ,
ngoại khoá, diễn đàn).
- Tổ chức cho học sinh tham gia tuyên truyền, phổ biến các
chủ trương của nhà nước, của chính quyền về phòng chống ma túy.
Tham gia các phong trào tuyên truyền, vận động bài trừ các tệ nạn hội
địa phương.
Tổ chức các hoạt động, sáng tác thơ ca, họa, các tiểu phẩm nghệ thuật
tổ chức diễn đàn vàn nghệ của thầy trò với những nội dung tuyên
truyền, vận động, giáo dục thiết thực, cụ thể, hấp dẫn về phòng chống ma tuý.
Cho học sinh (nhất học sinh các lớp lớn tuổi) trực tiếp được nghe,
hoặc trao đổi với những thanh niên bị rơi vào con đường ma túy nay đã cai
nghiện được nói về nỗi đau khổ nghiện ngập để học sinh hãy tránh xa ma
túy. Cũng thể cho học sinh trực tiếp tiếp xúc với cha, mẹ, người thân của
một số người mắc nghiện ma tuý đhọ được chứng kiến nỗi cực nhục của
các gia đình người nghiện như thế nào. Đó chính bài học để các em
không bao giờ mắc vào các tệ nạn xã hội này.
- Tổ chức cho học sinh xem các bộ phim, vở diễn nói về tác hại của
nghiện ma túy; tổ chức tọa đàm, trao đổi cụ thể qua các hình tượng nghệ
thuật; viết thu hoạch về tác hại của nghiện ma túy mà tự giác xa lánh nó.
- Tổ chức các hội nghị giữa chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh
và học sinh của lớp, trường về phòng chống ma túy ở trường và địa phương.
Sau đó thực hiện cam kết đối với từng gia đình từng học sinh không
mắc vào các tệ nạn xã hội, không nghiện hút, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển
chất ma tuý.
5. Giáo dục giá trị
a. Những Khái niệm cơ bản
Giá trị phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay
của một con người, là cái làm cho vật được thừa nhận là có ích lợi, đáng quý,
tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai
cấp, nhóm xã hội; nói chung là các giá trị vật chất giá trí vật chất tinh thần
có ý nghĩa đối với cuộc sống.
Hệ giá trị hay còn gọi hệ thống giá trị, đó một tổ hợp giá trị khác
nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định thành một
tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong
việc đánh giá con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá
trị. Cá nhân con người luôn tiếp cận với hệ thống giá trị.
Thang giá trị đó là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp
theo một trật tự ưu tiên nhất định. Thang giá trị còn gọi là thước đo giá trị.
Chuẩn mực giá trị trong hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự
nhất định, một thứ tự ưu tiên. những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chuẩn mực
chung cho nhiều người, chiếm vị trí ở bậc cao hoặc then chốt, được coi là giá
trị chuẩn.
Định hướng giá trị: Theo Từ điển Bách khoa viết, định hướng giá trị
là: l) Cơ sở tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm giúp chủ thể đánh giá thực
tại chung quanh định hướng trong thực tại đó. 2) Phương pháp phân loại
các khách thể của nhân theo giá trị của chúng. Định hướng giá trị hình
thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm hội thể hiện trong các mục
đích tư tưởng, chính kiến ham muốn... của nhân cách.
Giáo dục giá trị thể hiểu một quá trình tổ chức, hướng dẫn, kích
thích hoạt động tích cực của người được giáo dục để họ lĩnh hội được các giá
trị xã hội, hình thành nên hệ thống giá trị của nhân, phù hợp với mong đợi
của xã hội.
b. Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị
Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị:
- Nhận thức được kiến thức văn hoá, khoa học, năng nghề nghiệp
mà họ đang học trong trường là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực với họ
trong sự phát triển tiếp tục cũng như ứng dụng trong đời sống...
- Có thái độ trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện được các
giá trị nêu trên, đồng thời không tán thành, không chấp nhận những giá trị
phản lại các giá trị đó, dám đấu tranh bảo vệ những giá trị chân chính đích
thực của xã hội chúng ta.
- hành động thực tiễn thể hiện việc học tập, nghiên cứu, chiếm
lĩnh bằng được kiến thức, năng, kĩ xảo văn hoá, khoa học, nghề nghiệp...
thể hiện ở sự quan tâm gắn bó với công việc, sự nghiệp của cá nhân và trách
nhiệm với xã hội...
Mục đích và nhiệm vụ của giáo dục giá trị đòi hỏi phải làm cho hệ thống
giá trị xã hội mong đợi chuyển vào thành hệ giá trị trong mỗi công dân, nhất là
đối với học sinh, sinh viên, làm cho nhân cách của họ giá trị cao trước
hội, đáp ứng yêu cầu mà xã hội đòi hỏi trong hiện tại và tương lai.
c Nội dung giá dục giá trị
Nội dung những giá trị chung, bản cần phải giáo dục cho thế hệ trẻ
bao gồm:
- Hoà bình ổn định và an ninh của đất nước.
- Độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Tự do và dân chủ.
- Lòng nhân đạo, sống có tình nghĩa.
- Sức khoẻ của bản thân và cộng đồng.
- Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng hiền tài, trọng học vấn.
- Giá trị nghề nghiệp.
- Tình bạn, tình yêu và cuộc sống gia đình.
- Nếp sống văn minh.
- Những giá trị về giới.
rất nhiều giá trị phải giáo dục, song cần phải lựa chọn những giá trị
cơ bản, tối thiểu, vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phù hợp với đối tượng giáo
dục, lựa chọn các giá trị đó cần quan tâm đến những phương hướng bản
sau:
- Phải quán triệt sâu sắc mục đích giáo dục.
- Coi trọng cả những giá trị truyền thống tốt đẹp lẫn giá trị hiện đại.
- Phải chú ý tính đặc thù về đối tượng, về lứa tuổi, về nghề nghiệp, về
giới.
- Phải xem xét những giá trị đó trong một tổng thể có hệ thống, cân đối,
hài hoà.
d. Các con đường giáo dục giá trị
- Giáo dục hình thành các giá trị ở con người trước hết từ gia đình. Trẻ
thấm nhuần các giá trị cũng như cách trẻ học nói, học cảm nhận, học biểu lộ
thái độ học hành vi của người lớn xung quanh trẻ. Toàn bộ bầu không
khí tâm - hội, toàn bộ cuộc sống của gia đình được biểu hiện những
người gần gũi, thân thiết nhất đều có tác động hình thành giá trị cho trẻ.
- Thông qua việc cá nhân học tập, rèn luyện. Giá trị cũng được tiếp thu
từ con đường dạy học như các tri thức khác, cũng cần người học nắm
được khái niệm, tri thức, có trình độ để phân tích, nhìn thấy bản chất, tính quy
luật, sự phát triển biểu hiện của giá trị mình lĩnh hội. Trong đó, con
đường rất quan trọng để lĩnh hội các giá trị tự học, tự nghiên cứu, tự suy
nghĩ, phân tích, thnghiệm để tự rút ra kinh nghiệm, kết luận để hình thành
nên những giá trị cho mình.
Môi trường sư phạm: Tác động của môi trường sư phạm có ý nghĩa hết
sức to lớn đối với việc hình thành giá trị cho học sinh, sinh viên.c yếu tố
của môi trường giáo dục các bậc học từ trường mẫu giáo, trung học phổ
thông đến các đại học, chuyên nghiệp trước hết là:
- Môi trường văn hoá vật chất. Từ trường, lớp, thư viện, nhà ăn, xưởng
thực tập, phòng thí nghiệm đến vườn hoa, cây cảnh, nhà vệ sinh, phòng ở, tất
cả đều tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi của mỗi con người sống
trong đó.
- Môi trường tâm - hội. Trước hết nội quy, quy chế, cách thức
quản lí điều hành, cách xử các mối quan hệ giữa người người trong đời
sống nhà trường. Không khí tâm lí, luận của nhóm, tập thể lớp, phòng
ở... đềutác động mạnh đến sự lây lan tâm lí trong định hướng, đánh giá...
các giá trị.
- Quan hệ thầy trò. Tác động của giáo viên đến người học là một nhân
tố hết sức đặc biệt trong việc hình thành các giá trị người học. Người giáo
viên không chỉ người giúp cho người học lĩnh hội kiến thức,nh thành
năng, kĩ xảo cho người học mà còn mang trong mình những giá trị quý báu để
tác động đến người học bằng toàn bộ nhân cách của mình.
Môi trường văn hoá - hội: Ngoài.việc tiếp thu giá trị trong quá trình
lĩnh hội kiến thức, năng, xảo qua học tập nhà trường, việc hình thành
các giá trị còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nguồn gốc, nền tảng, bản sắc
văn hoá, đạo đức của cộng đồng, xã hội.
- Văn hoá, tôn giáo, phong tục, tập quán, nếp sống của mỗi cộng đồng,
dân tộc, nhóm hội ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành những giá trị
của mỗi thành viên trong cộng đồng đó.
- Các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại, phong phú,
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó tác động đến con người ở mọi nơi, mọi lúc,
thấm dần o con người những quan điểm, cảm xúc, nhu cầu, khát vọng,
những phương hướng hoạt động về các mặt tưởng, chính trị, đạo đức,
thẩm mĩ, khoa học công nghệ thực chất đó hình thành sự định hướng
giá trị ở con người một cách rất tự nhiên.
- Các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Những chủ trương chính sách về giáo dục, về việc làm, về khuyến khích tài
năng... có ý nghĩa lớn đến định hướng giá trị của học sinh, sinh viên.
Việc nêu lên những con đường giáo dục giá trị ntrên mới chỉ nhằm
định hướng cho việc lựa chọn những biện pháp, hình thức giáo dục giá trị phù
hợp với mỗi loại đối tượng trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
6. Giáo dục quốc tế
a. Ý nghĩa của giáo dục quốc tế
Khuyến nghị của Đại hội đồng UNESCO năm 1974 đã nêu: Giáo dục
quốc tế quá trình sinh hoạt xã hội, nhờ đó mànhân và nhómhội học
tập để phát triển toàn bộ năng lực, quan điểm, khuynh hướng tri thức của
nhân về những nguyên tắc quan hhữu nghị giữa nhân dân các quốc
gia hệ thống hội chính trị khác nhau, dựa trên sự tôn trọng quyền
con người và các quyền tự do cơ bản.
nước ta, ngoài ý nghĩa chung của giáo dục quốc tế đã nêu trên còn
ý nghĩa riêng củanh. Cụ thể từ khi bước sang giai đoạn đổi mới đến
nay chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng cùng lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hoà bình. Hơn nữa Việt Nam một thành viên của ASEAN, đã
thiết lập quan hệ ngoại giao nhiều nước trên thế giới. Do đó, việc nâng cao
hiểu biết quốc tế cho mọi công dân, đặc biệt thế hệ trẻ cấp bách để
thể hội nhập với các nước một cách tự tin, sáng suốtcó trách nhiệm trong
hoàn cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Giáo dục quốc tế cũng góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ yêu hoà bình,
ghét chiến tranh phi nghĩa, ý thức bảo vệ và xây dựng đất nước, trách nhiệm
bảo vệ môi trường, bảo vệ di sản văn hoá của các dân tộc, của nhân loại,
những hiểu biết về phát triển hài hoà giữa kinh tế và xã hội, dân số, có thái độ
trách nhiệm đối với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng.
b. Mục tiêu giáo dục quốc tế
Về kiến thức: Có những hiểu biết hệ thống về các nội dung cơ bản của
giáo dục quốc tế.
Về thái độ: Thừa nhận xây dựng cho bản thân những giá trị đúng
đắn, thái độ tích cực tham gia vào việc tuyên truyền, vận động thực hiện
nội dung của giáo dục quốc tế, có thái độ tích cực trước việc giải quyết những
vấn đề của bản thân, của cộng đồng, của quốc gia và thế giới.
Về năng: Có kĩ năng suy nghĩ, phê phán, năng tìm kiếm giải pháp
phát triển giải quyết vấn đề. năng hành động thể hiện năng lực trao
đổi, thảo luận, năng lực hợp tác giải quyết vấn đề.
Giáo dục quốc tế cũng như các nội dung giáo dục khác phải được tiến
hành trong nhà trường, lấy học sinhsinh viên làm đối tượng giáo dục. Đối
với ngoài nhà trường, đối tượng giáo dục là những người không còn ngồi trên
ghế nhà trường.
c. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục của giáo dục quốc tế
Nhiệm vụ giáo dục quốc tế bao gồm:
- Làm cho mọi người quan tâm hiểu biết đầy đủ về những vấn đề
chung có tính toàn cầu cũng như ở từng khu vực trên thế giới, những vấn đề
đó hiện đang đặt cho nhân loại những trách nhiệm, những đòi hỏi cùng tham
gia và cùng giải quyết để hướng tới một tương lai tốt đẹp.
- Giúp mỗi người trong cộng đồng nhân loại hiểu rõ những tác động tích
cực tiêu cực của sự phát triển tiến bộ, nhất trong cách mạng khoa
học công nghệ, ảnh hưởng của đối với mọi vấn đề trong cuộc sống (môi
trường, sự khác biệt về trình độ phát triển, thảm hoạ chung của toàn nhân
loại...) và có cách giải quyết thích hợp.
- Trong xu thế hòa nhập đòi hỏi con người phải tôn trọng tính đa dạng
về chính trị - xã hội, đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ, về lối sống. Từ đó tạo nên sự
phối hợp hài hoà của nhân loại (chung sống hòa bình, khoan dung, chấp nhận
đa chủng tộc, đa dạng về văn hoá), tạo nên sự hòa nhập, sự liên kết định
hướng. Tất cả những điều đó trở thành nguyên tắc tổng quát trong đời sống
nhân loại, trong cộng đồng thế giới, trong bối cảnh chung của thế giới hiện
đại.
Nội dung giáo dục quốc tế được tập trung vào những vấn đề sau:
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
- Hoà bình và hợp tác quốc tế.
- Quyền con người, quyền trẻ em.
- Dân số, nhu cầu phát triển bền vững cuộc sống.
- Môi trường.
- Di sản văn hoá nhân loại.
- Hệ thống tổ chức Liên hợp quốc.
d. Các con đường và các điều kiện giáo dục quốc tế trong nhà trường
Giáo dục quốc tế tiến hành trong nhà trường cũng như các nội dung
giáo dục khác đều được thực hiện thông qua hoạt động nội khóa hoạt
động ngoại khóa.
| 1/80

Preview text:

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
(Dành cho sinh viên Đại học sư phạm)
Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên)
Phần 3: LÝ LUẬN GIÁO DỤC
Lí luận giáo dục là hệ thống lí luận về tổ chức quá trình giáo dục (theo
nghĩa hẹp) hướng chủ yếu vào việc hình thành cho người được giáo dục
những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ thái độ, hành vi, thói quen phù
hợp với những chuẩn mực của xã hội, góp phần phát triển toàn diện nhân
cách theo mục đích giáo dục. Hệ thống lí luận này bao gồm những vấn đề cơ
bản về bản chất, đặc điểm, quy luật của quá trình giáo dục; về nguyên tắc,
phương pháp và nội dung giáo dục, sự thống nhất các môi trường giáo dục,
đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả.
Chương 12: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
I. KHÁI NIỆM QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Quá trình giáo dục là gì?

Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá
trình giáo dục tổng thể. Quá.trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy
học và đều hướng vào hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục
đã xác định. Trong đó quá trình giáo dục với chức năng trội là làm cho học
sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực xã hội và có hành vi,
thói quen hành động tương ứng, nó là một trong những kết quả, mục đích
quan trọng nhất của hoạt động dạy học trong nhà trường. Quá trình dạy học
có nhiệm vụ là truyền thụ cho học sinh tri thức và rèn luyện các kĩ năng, kĩ
xảo tương ứng, phát triển trí tuệ, trên cơ sở đó hình thành cho họ những giá
trị đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Như vậy dạy học với
chức năng trội là truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo tương ứng cho
học sinh sẽ phải dẫn đến quá trình giáo dục, nó được xem là một con đường,
phương tiện hữu hiệu nhất để thực hiện quá trình giáo dục.
Như vậy quá trình giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ
chức của giáo viên và học sinh, hình thành những quan điểm, mềm tin, giá trị,
động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị,
đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, văn hoá, làm phát triển nhân cách học sinh theo
mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội.
2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình giáo dục là một hệ thống bao
gồm trong nó các thành tố cấu trúc như: mục đích và nhiệm vụ giáo dục; nội
dung giáo dục; phương pháp giáo dục; nhà giáo dục; người được giáo dục;
kết quả giáo dục. Mỗi thành tố có chức năng riêng và có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Mục đích giáo dục là một mô hình dự kiến về nhân cách học sinh đáp
ứng được các yêu cầu khách quan của xã hội, của đất nước trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ giáo dục
của nhà trường phải hình thành và phát triển các mặt tư tưởng, chính trị, tình
cảm, thái độ, hành vi đạo đức, pháp luật, trí tuệ, thể chất, lao động - kĩ thuật -
nghề... góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mục đích giáo dục
là thành tố hàng đầu, có vai trò định hướng cho sự vận động, phát triển của
các thành tố khác của quá trình giáo dục (nội dung, phương pháp, phương
thức giáo dục...) và định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục. Mục đích giáo
dục được ví là "đơn đặt hàng của xã hội".
Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhà
giáo dục cần quán triệt mục đích, nhiệm vụ giáo dục và chuyển tải nó tới học
sinh (đối tượng giáo dục). Đồng thời, nhà giáo dục lựa chọn nội dung,
phương pháp, các hình thức tổ chức giáo dục và tổ chức quá trình giáo dục
học sinh. Nhà giáo dục ở nhà trường là các thầy cô giáo, tập thể sư phạm, ở
gia đình là các bậc cha mẹ, ông bà, người lớn và các mối quan hệ khác.
Vai trò của giáo viên trong quá trình giáo dục thể hiện ở những mặt sau:
- Định hướng sự phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục
của Đảng, Nhà nước và mục tiêu giáo dục cụ thể của nhà trường.
- Có kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lí, khoa học, hệ thống các
hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường.
- Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh.
- Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục
đồng bộ, thống nhất của Hội đồng giáo dục trong nhà trường và các lực
lượng, tổ chức giáo dục khác.
Học sinh với tư cách là khách thể của quá trình giáo dục nhận sự tác
động có định hướng, có kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức và có hệ
thống của giáo viên, nhà giáo dục. Quá trình giáo dục luôn có sự tác động
qua lại, thống nhất giữa chủ thể giáo dục (nhà giáo dục) và khách thể giáo
dục (người được giáo dục). Tuy nghiên, học sinh trong quá trình giáo dục tiếp
nhận có chọn lọc các tác động giáo dục và tự vận động để biến các tác động,
các yêu cầu giáo dục từ bên ngoài thành nhu cầu được giáo dục bên trong
của bản thân. Trong quá trình giáo dục, học sinh luôn nhận các tác động giáo
dục từ phía nhà giáo dục và các lực lượng giáo dục, khi đó, học sinh là khách
thể của quá trình giáo dục. Khi tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học
không thụ động mà là một thực thể xã hội có ý thức, người học ý thức được
mục đích, ý nghĩa, các yêu cầu giáo dục đối với mình, rồi diễn ra quá trình
đấu tranh động cơ trong khi lựa chọn và định hướng giá trị. Tức là khi đứng
trước những tác động giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau, người được
giáo dục tiếp nhận nó theo nhu cầu và ý thức của mình, nên mọi tác động
giáo dục bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan của họ, khi đó học sinh được
xem là chủ thể của quá trình giáo dục. Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ
thuộc rất lớn vào tính chủ thể này, với tư cách là chủ thể, học sinh sẽ tự giáo
dục, tự tu dưỡng và rèn luyện để phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Nội dung giáo dục là hệ thống những tri thức, những chuẩn mực đạo
đức cần giáo dục cho học sinh, những tình cảm, thái độ, hành vi - thói quen
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung giáo dục chịu sự quy định,
chi phối, định hướng của mục đích giáo dục và là cơ sở để xác định các phương pháp giáo dục.
Phương pháp giáo dục là những cách thức, biện pháp hoạt động phối
hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục để giúp cho người
được giáo dục chuyển hoá các yêu cầu, các chuẩn mực xã hội thành hành vi
và thói quen ứng xử, tức là hình thành và phát triển ở các em những phẩm
chất và hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định.
Kết quả giáo dục là thành tố biểu hiện tập trung kết quả vận động và
phát triển của quá trình giáo dục nói chung và kết quả làm hình thành thói
quen hành vi, thái độ nói riêng ở học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu
giáo dục của nhà trường. Nếu mục đích giáo dục là dự kiến mô hình giáo dục
- đào tạo mong muốn thì kết quả giáo dục là đích cần đạt được, là mục tiêu
thực tế của quá trình giáo dục. Giữa mục đích giáo dục (M) và kết quả giáo
dục (Kq) sẽ có các mối tương quan sau:
Kq -> M; Kq ~ M; Kq < M; Kq trái (lệch hoặc ngược) với M.
Các thành tố của quá trình giáo dục nêu trên liên quan mật thiết, thống
nhất biện chứng và tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Mặt khác chúng lại
có quan hệ và bị chi phối bởi môi trường kinh tế - văn hoá - KHKT và các
quan hệ sản xuất. Sản phẩm của quá trình giáo dục là nhân cách học sinh
được phát triển. Sản phẩm đó phải thoả mãn được hai tiêu chí cơ bản:
- Một là phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định mang tính bền vững, phổ biến.
- Hai là phải đáp ứng, phục vụ được các yêu cầu tồn tại, phát triển
không ngừng của xã hội, tạo ra sự thích ứng cao giữa cá nhân và sự biến đổi
của môi trường kinh tế - xã hội. Từ sự phân tích các mối quan hệ biện chứng
giữa các thành tố của quá trình giáo dục, ta có thể thiết lập sơ đồ về mối quan hệ đó như sau: M: Mục đích giáo dục
C: Chủ thể giáo dục (giáo viên)
N: Nội dung, nhiệm vụ giáo dục P: Phương pháp giáo dục
Pt: Phương tiện giáo dục
HTTC: Hình thức tổ chức giáo dục Kq: Kết quả giáo dục
K: Khách thể giáo dục (học sinh)
II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Bản chất của quá trình giáo dục

Bản chất quá trình giáo dục được xác định căn cứ vào những cơ sở sau:
Thứ nhất, quá trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách
trong xã hội. Sự phát triển cá nhân con người được quy định bởi tác động qua
lại của các nhân tố xã hội và nhân tố học sinh, trong đó sự ưu tiên hàng đầu
thuộc về các nhân tố xã hội. Cá nhân được phát triển dưới ảnh hưởng của
chương trình. Quá trình xã hội hoá cá nhân là quá trình biến cá nhân thành
một thành viên của xã hội (ứng với các giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của
xã hội); có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào những hoạt động của xã
hội. Do đó muốn xác định được bản chất của quá trình giáo dục phải xuất
phát từ cơ chế có tính xã hội của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ trước trong các lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các giá trị văn hoá của loài người.
Thứ hai, trong quá trình giáo dục luôn có mối quan hệ giữa nhà giáo
dục và người được giáo dục (cá nhân hoặc tập thể), đó là quan hệ sư phạm -
một loại quan hệ xã hội đặc thù. Quan hệ sư phạm này luôn luôn chịu sự chi
phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học -
kĩ thuật..., đặc biệt là những quan hệ chính trị - xã hội. Quan hệ sư phạm là
cơ sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục, đó là sự thống nhất giữa
sự tác động giáo dục của nhà giáo dục và sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của
người được giáo dục trong quá trình giáo dục.
Bản chất của quá trình giáo dục là gì?
Quá trình giáo dục - một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển
cá nhân trở thành những thành viên xã hội, những thành viên đó phải thoả
mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu của xã hội ở mỗi
giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội, làm
cho nó tồn tại và phát triển. Những nét bản chất của cá nhân là do các mối
quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình giáo dục là quá trình làm cho người
được giáo dục (học sinh) ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó
(các quan hệ chính trị - tư tưởng, kinh tế, pháp luật, đạo đức) để rồi biết vận
dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá - xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình...
Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh
(người được giáo dục) tích luỹ được kinh nghiệm xã hội (thực tiễn) tốt và có
nhu cầu, hành vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội. Chính
trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội như vậy sẽ giúp cho học sinh
khẳng định những quan hệ mới, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và
biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn dư
cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội ngày nay.
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người - xã hội trong
mỗi cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm
lĩnh được các lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở
toàn bộ các quan hệ xã hội của họ. Triết học mác xít đã khẳng định: Bản chất
xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia vào đời sống xã hội đích
thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hoá (văn hoá vật
chất và tinh thần). Do đó việc tiếp cận bản chất quá trình giáo dục buộc chúng
ta phải xem xét quá trình tổ chức đời sống, hoạt động và giao lưu của đối tượng giáo dục.
Mỗi con người đều sống trong một môi trường lịch sử xã hội cụ thể.
Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống cho mỗi cá nhân hoặc
nhóm, tầng lớp xã hội theo các chuẩn mực các yêu cầu của sự phát triển xã
hội, làm cho cá nhân biết sống phù hợp với các quan hệ xã hội.
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống
của con người và cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển
nhân cách của cá nhân. Các lí thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người
muốn tồn tại và phát triển phải có hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động
và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người) được tổ chức một cách khoa học
với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến, phong phú, đa dạng; cá
nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có nhiều cơ hội
tốt cho sự phát triển. Vì bất kì một hoạt động nào của con người cũng đều
phải đặt vào (có quan hệ) những mối quan hệ xã hội và những hình thái giao
lưu nhất định. Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang bản chất của hoạt
động vừa mang bản chất của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động
qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa
những người được giáo dục (học sinh) với nhau và với các lực lượng, các
quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.
Như vậy bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt
động và giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự
giác, tích cực, độc lập chuyển hoá những yêu cầu và những chuẩn mực của
xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng.
2. Đặc điểm quá trình giáo dục
a. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát tư yêu cầu của xã hội
và diễn ra lâu dài
Quá trình giáo dục nhằm hình thành những phẩm chất, những nét tính
cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả.
Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
- Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc
đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa.
- Việc hình thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói
quen của cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài không thể một sớm, một chiều
mà có ngay được. Những phẩm chất mới của nhân cách (niềm tin, động cơ
đúng, tình cảm mới...) chỉ có được và trở nên vừng chắc khi người được giáo
dục tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện, thể nghiệm, đấu tranh bản
thân (đấu tranh động cơ) trong cuộc sống thực để trở thành kinh nghiệm sống
của chính mình càng đòi hỏi một thời gian lâu dài.
- Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành
nhận thức mới, niềm tin... thường khó nhận thấy ngay (khó đánh giá, lượng
hoá một cách cụ thể) và có khi kết quả đó lại bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó
công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn
định, lâu dài, đồng thời trong quá trình giáo dục lại phải phát huy được cao độ
tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người được giáo dục thì
mới đạt được hiệu quả giáo dục, kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ điều đó.
- Việc sửa chữa, thay đổi những nếp nghĩ; thói quen cũ, lạc hậu, không
đúng, nhất là những thói quen - hành vi xấu thường diễn ra dai dẳng, trở đi
trở lại mãi trong ý thức, hành vi của mỗi người nên việc khắc phục chúng rất khó khăn và lâu dài.
b. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố
Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động phong phú, các
dạng giao lưu đa dạng để hình thành những phẩm chất nhân cách bền vững
cho người được giáo dục, có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình này
như: Các sự kiện, quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng - văn hoá, phong
tục, tập quán; các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường; các nội
dung thông tin - văn hoá - nghệ thuật tuyên truyền qua các phương tiện và
các kênh thông tin khác nhau; các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích,
nội dung, phương pháp, phương tiện) cách tổ chức được chủ thể và khách
thể quá trình giáo dục tác động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại
hiệu quả giáo dục; các yếu tố tâm lí, trình độ được giáo dục, điều kiện, hoàn
cảnh riêng tư... của người được giáo dục; các mối quan hệ sư phạm được
tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với giáo viên, giữa học
sinh với các lực lượng giáo dục khác.
Các yếu tố tác động từ nhiều phía đan kết, xen kẽ, bổ sung cho nhau
tạo thành một thể thống nhất hướng tới việc hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên,
các yếu tố tác động đến quá trình giáo dục với nhiều mức độ khác nhau,
chúng có thể thống nhất hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có thể
có mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí làm vô hiệu hoá kết quả của
quá trình giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục cần chủ động phối hợp
thống nhất các tác động giáo dục, đồng thời phải linh hoạt vận dụng các
nguyên tắc, phương pháp giáo dục để hạn chế tới mức tối đa những tác động
tiêu cực, tự phát, và phát huy những tác động tích cực đối với quá trình giáo dục.
c. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao
lưu của mỗi cá nhân. Với tư cách là người được giáo dục, cá nhân tiếp nhận
các tác động giáo dục theo những quy luật chung, đồng thời lại phải chú ý
đến những điểm riêng biệt cụ thể thì mới có hiệu quả và tránh được những
tác động giáo dục một cách cứng nhắc, công thức, giáo điều. Tính cụ thế của
quá trình giáo dục được thể hiện như sau:
- Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những
tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt. Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết
các mâu thuẫn xung đột cụ thể giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục với phẩm
chất, năng lực, tâm lí chủ quan của người được giáo dục.
- Quá trình giáo dục phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối
tượng cụ thể. Mỗi học sinh đều là một cá nhân có tính độc lập tương đối của
nó về trình độ được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, tình cảm, thói
quen.. đặc điểm tâm lí lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biến
phức tạp, éo le của từng tình huống cụ thể. Nhà giáo dục cần phải nhìn thấy
hoặc dự đoán được những nguyên nhân (sâu xa và trước mắt) của các biểu
hiện (tốt, xấu) của thái độ, hành vi, thói quen... từ đó mới có biện pháp tác động phù hợp.
Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian
với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ
thể đối với từng loại đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú
ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, kĩ năng thể hiện các yêu cầu,
nội dung, chuẩn mực xã hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, biến những yêu cầu
đó từ bên ngoài thành nét tính cách riêng, độc đáo của mỗi con người.
Tóm lại quá trình giáo dục luôn diễn ra cụ thể trong những tình huống
giáo dục, điều kiện giáo dục và với những con người (đối tượng giáo dục) cụ thể.
d. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và
phát triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Dạy học nhằm tổ
chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung
học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen...
hai hoạt động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên
cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo
đức của học sinh được hình thành và phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các
phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học là quá trình điều
khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát.
III. ĐỘNG LỰC VÀ CÁC KHÂU CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Động lực của quá trình giáo dục

Theo quan điểm triết học biện chứng, các sự vật, hiện tượng, quá trình
luôn vận động và phát triển, động lực của sự phát triển được hình thành trong
quá trình giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn cơ bản, nội tại của chúng.
Trong cuộc sống, con người luôn chịu những tác động khách quan từ
môi trường, chúng có thể tác động ngẫu nhiên, tự phát hoặc tác động có mục
đích. Mỗi cá nhân cần tiếp thu những tác động để chuyển hoá nó thành ý
thức, hành vi phù hợp với các chuẩn mực được xã hội chấp nhận.
Trong quá trình đó tồn tại rất nhiều mâu thuẫn phải được giải quyết,
giữa cái tốt và cái xấu, cái tích cực và cái tiêu cực, giữa cái mới có tính tích
cực với thói quen cũ lạc hậu. Chính sự đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn sẽ
thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách.
Quá trình giáo dục có nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn cơ bản của
bản thân quá trình giáo dục, trở thành động lực chủ yếu của quá trình giáo
dục. Động lực của quá trình giáo dục chính là kết quả giải quyết tốt mâu thuẫn
giữa một bên là các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới đang đặt ra cho người
được giáo dục với một bên là trình độ được giáo dục và phát triển hiện có của
người được giáo dục. Các nhiệm vụ giáo dục luôn được đặt ra trước những
nhu cầu, động cơ muốn vươn lên hoàn thiện nhân cách, đòi hỏi người được
giáo dục tự giác, tính cực tìm các cách thức, phương tiện khác nhau để thực
hiện các nhiệm vụ giáo dục, trình độ được giáo dục được nâng cao. Tiếp tục
là những yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới khác cao hơn, phức tạp hơn được
đặt ra lại mâu thuẫn với trình độ được giáo dục đang có, học sinh lại có nhu
cầu muốn giải quyết nhiệm vụ giáo dục mới đó. Cứ như vậy, quá trình giáo
dục vận động và phát triển không ngừng, ngày một đi lên.
2. Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất
kì một phẩm chất nhân cách nào đều phải tác động vào tất cả các mặt của
đời sống tâm lí cá nhân: nhận thức, ý chí, niềm tin, tình cảm, kĩ năng hành
động... Từ lí luận và thực tiễn giáo dục ta có thể nêu ra các khâu của quá trình giáo dục như sau:
a. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức làm cơ sở cho hành động
Quá trình giáo dục trước hết phải làm cho học sinh nhận thức đúng, đủ,
chính xác các nội dung khái niệm về tư tưởng, chính trị, đạo đức, văn hoá,
thẩm mĩ, quyền lợi, nghĩa vụ, bơn phận, các quy định, chuẩn mực hành vi
trong các quan hệ xã hội... Từ nhận thức đúng đắn, học sinh mới có thể biết
và hành động như thế nào trong các tình huống của đời sống xã hội. Nhận
thức làm kim chỉ nam cho hành động. Nếu có nhận thức đúng sẽ có cơ hội để
dẫn đến hành động đúng. Quá trình giáo dục là quá trình giúp học sinh phát
triển về mặt nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết
những điều đơn giản đến phức tạp hơn, cao hơn... để rồi biết vận dụng vào đời sống xã hội.
Chính quá trình vận dụng, trải nghiệm những điều đã thu nhận được
trong quá trình giáo dục lại củng cố nhận thức, xây dựng được ý thức niềm tin cho cá nhân.
b. Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, lành mạnh phù hợp với các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ - ứng xử xã hội
Quá trình giáo dục, trên cơ sở làm cho cá nhân có nhận thức đúng đắn
sẽ hình thành thái độ, niềm tin và tình cảm đúng. Thái độ, tình cảm là sự biểu
hiện cụ thể của quan điểm sống với những giá trị, chuẩn mực xã hội và của
bản thân. Từ nhận thức đến hành động phải có sự thúc đẩy của tình cảm.
Tình cảm - sức mạnh tinh thần to lớn để chuyển hoá nhận thức thành hành
động. Với vai trò là động cơ thúc đẩy hành động nên trong quá trình giáo dục
cần phải bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp đúng đắn cho học sinh. Thực tiễn
đời sống đã cho thấy: Có nhận thức đúng nhưng do tình cảm sai lệch thì
chưa chắc đã dẫn đến hành động đúng, có khi còn làm sai lệch, xuyên tạc,
bóp méo sự thật. Ví như "yêu nên tốt, ghét nên xấu", "yêu nhau củ ấu cũng
tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông...". Để bồi dưỡng, hình thành được
những tình cảm tốt đẹp cho học sinh phải dựa vào cơ chế hình thành của tình
cảm: tạo nhiều cơ hội nảy sinh các xúc cảm đồng loại và được tổng hợp lại.
Muốn vậy, các quan hệ giáo dục (quan hệ sư phạm) thầy - trò phải tốt đẹp,
tạo được nhiều ấn tượng tình cảm ở học sinh. Quá trình giáo dục cũng cần
chú ý uốn nắn, sửa chữa, khắc phục những xúc cảm, tình cảm sai lệch, thiếu trong sáng ở học sinh..
c. Rèn luyện hình thành hành vi thói quen
Quá trình giáo dục không dừng lại ở chỗ nhận thức như thế nào, mà
phải dẫn đến đích là con người phải biết thể hiện nhận thức bằng hành động.
Hành vi đạo đức là bộ mặt đạo đức của cá nhân. Trong thực tiễn nhiều khi
không có sự thống nhất giữa nhận thức và hành vi đạo đức, như "nói hay, làm
dở", "chỉ nói mà không làm", hành động trái với nhận thức "nghĩ một đằng,
làm một nẻo". Qua đây ta thấy: hình thành hành vi thói quen, tức là hành vi
của cá nhân đã vững chắc trong mọi trường hợp, là kết quả của quá trình
giáo dục, và cũng chính là kết quả của việc thực hiện tốt hai khâu bồi dưỡng
nhận thức và tình cảm trong quá trình giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, cần căn cứ vào nội dung và yêu cầu giáo dục
cụ thể, vào đối tượng giáo dục cụ thể mà vận dụng các khâu của quá trình
giáo dục theo trình tự và mức độ khác nhau. Ví dụ, để giáo dục cho học sinh ý
thức tổ chức, kỉ luật, trật tự, vệ sinh thì chú ý tác động thường xuyên vào
khâu rèn luyện thói quen. Hoặc để nâng cao tình yêu quê hương, đất nước thì
vừa bồi dưỡng về nhận thức vừa đặc biệt gây nhiều ấn tượng tốt về quê
hương, đất nước. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải tác động đầy đủ vào
cả ba khâu (nhận thức, tình cảm, hành vi). Tuy nhiên do tính không đồng đều
của sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi cá nhân về nhận thức, tình
cảm, hành vi thói quen, nên có khi phải tập trung nhiều hơn vào một nhiệm vụ
trong một thời gian nhất định để giải quyết dứt điểm nhiệm vụ đó. Mặt khác
khi tác động vào khâu này, đồng thời lại có tác động đến khâu khác trong quá
trình giáo dục. Ví dụ, khi ta giảng giải về một yêu cầu, một chuẩn mực đạo
đức, làm cho học sinh nhận thức được nó thì đồng thời cũng tác động đến
việc hình thành tình cảm đạo đức và có phương hướng trong hành vi.
Tóm lại: Ba khâu nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen trong quá trình
giáo dục không tách biệt nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể
thiếu được khâu nào bởi vì giáo dục là một quá trình toàn vẹn. Khi vận dụng
các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục phải tuỳ theo đối tượng,
yêu cầu, nhiệm vụ giáo đục cụ thể, đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để lựa
chọn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các khâu cho phù hợp.
IV. TỰ GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC LẠI 1. Tự giáo dục
Tự giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục. Tự giáo dục là hoạt
động có ý thức, có mục đích của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện những phẩm
chất nhân cách của bản thân theo những định hướng giá trị nhất định. Ví dụ,
tự mình nỗ lực khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập đạt đến một trình
độ học vấn cao hơn. Tự học hỏi những điều hay, điều tốt đẹp trong quan hệ ứng xử...
Nhu cầu tự giáo dục nảy sinh theo từng giai đoạn phát triển của cá
nhân. Trẻ em thường bắt chước những gì ở người lớn mà chúng yêu thích,
hấp dẫn bởi những biểu hiện bề ngoài. Học sinh trung học có nhu cầu tự giáo
dục mạnh mẽ, đã tự ý thức, khao khát những giá trị mà các em cho là hữu ích
với cuộc sống. Ví dụ như, tự tìm cách tập luyện thể dục, thể thao, rèn luyện
thể lực để có cơ thể cường tráng, khoẻ mạnh. Tự tu dưỡng theo các mẫu
hình nhân cách trong các tác phẩm văn học - nghệ thuật, tự đề ra kế hoạch
cho mình những thói quen tốt, những phẩm chất ý chí của nhân cách. Tuổi
thanh niên - các lớp cuối phổ thông trung học luôn tự ý thức về nghề nghiệp,
lập nghiệp trong tương lai, tự phấn đấu, nỗ lực học tập để thực hiện được
ước mơ hoài bão của mình.
Quá trình tự giáo dục bao gồm những yếu tố cơ bản sau:
- Năng lực tự ý thức của học sinh về sự phát triển nhân cách của bản
thân, về một phẩm chất hay năng lực nào đó cần được phát triển hơn, hoặc
cần phải thay đổi, sửa chữa cho phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mới cao
hơn. Năng lực tự ý thức này được thôi thúc bởi ước nguyện lí tưởng của cá
nhân muốn vươn tới, đạt được những mục đích tốt đẹp trong cuộc sống, đòi
hỏi người được giáo dục phải có khả năng phân tích và tự đánh giá những
phẩm chất và hành động, thói quen của bản thân. Trình độ được giáo dục của
cá nhân phải được phát triển đến một mức độ nhất định mới có khả năng tự
đánh giá đúng đắn những phẩm chất và năng lực của bản thân, từ sự tự đánh
giá này, học sinh thấy cần phải hướng đích đến những giá trị mong muốn.
- Năng lực tổ chức tự giáo dục như: l) lập kế hoạch, đòi hỏi người được
giáo dục tự nêu cho mình yêu cầu, nội dung, mức độ cần và sẽ thực hiện
nhằm đạt được một vấn đề, một hoạt động hay một công việc nhất định, dự
định thời gian thực hiện, hoàn thành kế hoạch. Bước lập kế hoạch trong tự
giáo dục tiến hành tốt được xem là tự cam kết phấn đấu, rèn luyện bản thân.
2) lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các cam kết dobản thân đề ra.
- Sự nỗ lực của bản thân để vượt qua được những khó khăn, trở ngại
gặp phải trong quá trình thực hiện kế hoạch tự giáo dục. Tính tự giáo dục tích
cực cao giúp cho người được giáo dục vượt lên chính bản thân mình, hình
thành được các phẩm chất ý chí.
- Tự kiểm tra xem đã đạt được những kết quả tự giáo dục như thế nào,
cần phải phấn đấu tiếp như thế nào để hoàn thiện những điều đã dự kiến
trong kế hoạch tự giáo dục. Tự đánh giá và tự rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân. 2. Giáo dục lại
Do ảnh hưởng của môi trường xã hội, gia đình, nhà trường và do
những thiếu sót, sai lầm trong phương pháp, điều kiện giáo dục, một số, một
bộ phận thanh thiếu niên học sinh đã hình thành những ý nghĩ tình cảm, thái
độ, hành vi, thói quen xấu, trái ngược với những quy định có tính chuẩn mực
trong các lĩnh vực, trong các mối quan hệ xã hội và đời sống... Chẳng hạn
thanh thiếu niên chơi bời lêu lổng, sống tuỳ tiện, buông thả, liều lĩnh... Những
biểu hiện như thế (hành vi lệch chuẩn) cần được giáo dục, uốn nắn để trở
thành người tốt. Quá trình giáo dục đó gọi là giáo dục lại.
Giáo dục lại là hoạt động tổ chức giáo dục nhằm uốn nắn, sửa chữa,
điều chỉnh làm thay đổi những quan điểm, tình cảm, thái độ, lối sống... đặc
biệt là những thói quen, hành vi không đúng, không tốt đã hình thành ở học
sinh trong quá trình sống. Giáo dục lại được xem là một quá trình giáo dục đối
với những cá nhân có những biểu hiện lệch chuẩn để họ trở thành những con
người có ích cho xã hội, biết sống theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội.
Giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp hơn quá trình giáo dục
bình thường rất nhiều. Vì khi những sai lệch, những tật xấu của hành vi đã trở
thành thói quen mà muốn thay đổi được là rất khó, rất lâu dài. Đối với những
cá nhân đã bị nhiễm những tư tưởng, quan điểm sai lầm, đạo đức suy thoái,
có những hành vi xâm hại đến xã hội và người khác thì phải được giáo dục
trong các tổ chức giáo dục lại đặc biệt (giáo dục - cải tạo). Những tổ chức
giáo dục lại đó có những điều kiện, phương tiện và lực lượng cán bộ chuyên
làm công tác giáo dục lại như: các trung tâm giáo dục cải tạo trẻ em hư, lang
thang - phạm pháp, nghiện ngập.... Khi tiến hành quá trình giáo dục lại cần
chú ý một số yêu cầu sau:
- Xác định đúng, cụ thể hệ thống các nguyên nhân gây ra những sai
lệch trong quá trình phát triển nhân cách. Chú ý những nguyên nhân sâu xa
được xem như là sự "tiềm ẩn" để dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, đồng
thời phải xác định được những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi sai
lệch. Chỉ khi nào xác định đúng, đầy đủ nguyên nhân gây ra sai lệch hoặc hư
hỏng, suy thoái nhân cách của mỗi cá nhân thì biện pháp giáo dục lại mới có hiệu quả.
- Có phương pháp tổ chức, tác động giáo dục khoa học, phù hợp với
đối tượng giáo dục lại. Các trường giáo dưỡng ở nước ta đã vận dụng lí luận
giáo dục và tiến hành giáo dục lại thành công, đã tích luỹ được hệ thống kinh
nghiệm về giáo dục lại.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Quá trình giáo dục là gì? Nêu các chức năng trội của quá trình giáo dục, dạy học.
2. Phân tích các thành tố của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện chứng của chúng.
3. Phân tích bản chất quá trình giáo dục.
4. Phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục và rút ra những kết
luận sư phạm cần thiết trong quá trình giáo dục học sinh.
5. Trình bày động lực của quá trình giáo dục, lấy các ví dụ trong thực
tiễn để minh hoạ cho các mâu thuẫn của quá trình giáo dục.
6. Phân tích các khâu của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện chứng của chúng.
7. Thế nào là tự giáo dục?
8. Thế nào là giáo dục lại, quá trình tiến hành giáo dục lại cần đặc biệt
chú ý đến những yêu cầu nào? Tại sao? BÀI TẬP
1. Đọc các tài liệu về giáo dục lại. Viết thu hoạch về các nguyên nhân
của trẻ em hư, lang thang - phạm pháp.
2. Đi thực tế ở trường giáo dưỡng, nghiên cứu một học sinh của trường
để viết bài tập về các hiện tượng phạm pháp vị thành niên, nguyên nhân và
những biện pháp giáo dục lại của nhà trường đó.
Chương 13: NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
I. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
Quá trình giáo dục là quá trình vận động và phát triển có quy luật, là
hoạt động có tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Hoạt động giáo dục muốn
đạt kết quả mong muốn đòi hỏi nhà giáo dục không phải chỉ nắm được các
quy luật mà còn phải biết vận dụng những quy luật đó một cách linh hoạt sáng
tạo. Các quy luật của giáo dục được phản ánh trong những luận điểm chung
cơ bản, mang tính chất chỉ đạo toàn bộ tiến trình giáo dục đó là các nguyên tắc giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy
luật của lí luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dụng nội
dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu
mục đích và nhiệm vụ giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục là kết quả nhận thức của con người về các quy
luật giáo dục, do đó nguyên tắc giáo dục có cơ sở khách quan, nó phản ánh
những quy luật của quá trình giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là những tri thức,
kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn giáo dục của nhà trường, các cơ sở
giáo dục và của các nhà giáo dục tiên tiến trên thế giới và trong nước đã đạt
được thành công trong quá trình giáo dục, từ đó rút ra những phương hướng
chỉ đạo hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Ví dụ như giáo dục trong lao động
tập thể, tôn trọng nhân cách học sinh được nhà giáo dục Nga là Macarencô
đúc rút từ thực tiễn giáo dục sinh động mà ông đã thực hiện.
Như vậy nguyên tắc giáo dục trở thành cơ sở cho mọi hoạt động giáo
dục, giúp cho những người làm công tác giáo dục nói chung và giáo viên nói
riêng vận dụng, làm chỗ dựa để tiến hành các quá trình giáo dục đúng
phương hướng và đạt hiệu quả. Tuy nhiên nguyên tắc giáo dục không phải là
những "đơn thuốc", những cẩm nang có sẵn ứng với các hoạt động giáo dục
thực tiễn. Nó chỉ cung cấp cho nhà giáo dục hệ thống những cơ sở lí luận,
làm chỗ dựa để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đa dạng và sinh động.
Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp cho nhà giáo dục biết kết
hợp những kinh nghiệm thực tiễn với lí luận giáo dục để vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong quá trình giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao.
II. HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục

Hoạt động của con người bao giờ cũng hướng tới mục đích nhất định.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, do đó nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức quá trình giáo dục đều phải căn cứ vào mục đích và phải đạt được
mục đích giáo dục đó. Mục đích của hoạt động giáo dục phải được cụ thể hoá
bằng các mục tiêu giáo dục.
Toàn bộ hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường đều phải hướng vào
mục đích xây dựng phẩm chất nhân cách cho con người. Trong thời kì công
nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta cần hướng vào mục đích xây dựng nhân
cách phát triển toàn diện, đó là mẫu người lí tưởng mà hoạt động giáo dục
phải đạt tới. Giáo dục phải làm cho học sinh thấm nhuần đường lối quan điểm
của Đảng và Nhà nước; sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo vệ và phát triển những giá trị vật chất và
tinh thần của dân tộc; xây dựng nếp sống văn hoá mới, xoá bỏ tàn dư của
nếp sống cũ lạc hậu...
Giáo dục thực chất là tổ chức tổ chức các hoạt động và giáo lưu cho
người được giáo dục. Vì vậy, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục đều
phải đặt ra những mục tiêu cụ thể và đạt được chúng, tức là khi tổ chức các
quá trình giáo dục cụ thể phải chú ý dự kiến kết quả sẽ đạt được theo mục
đích giáo dục, ví dụ việc tổ chức lao động sản xuất cho học sinh phải đạt
được hai mục đích: giáo dục phẩm chất đạo đức và hiệu quả kinh tế. Giáo
dục lao động - hướng nghiệp trong nhà trường phải đạt được mục đích là
hình thành và nâng cao ý thức, tinh thần, thái độ lao động mới, có tri thức, kĩ
năng lao động - nghề nghiệp để học sinh có thể hướng nghiệp và định hướng
nghề nghiệp đúng, có hiệu quả. Như vậy, thông qua tổ chức hoạt động có thể
giúp học sinh nhận thức một khái niệm mới, hình thành xúc cảm, tình cảm
tích cực hay những thói quen hành vi đúng đắn... Mục đích giáo dục bao gồm
những mục đích trước mắt, mục đích tương lai gần và mục đích chiến lược,
giáo dục cần xác định và đạt được các mục đích đó.
2. Giáo dục gắn với đời sống xã hội
Quá trình giáo dục học sinh là quá trình làm hình thành ở các em
những phẩm chất, năng lực, thái độ, quan hệ của cá nhân đối với xã hội và
với người khác. Tất cả những phẩm chất và năng lực đó của cá nhân phải
phù hợp với các quan hệ xã hội. Vì vậy quá trình giáo dục phải gắn với đời
sống xã hội về hai phương diện cơ bản.
Thứ nhất là sự chuyển hoá các quan hệ xã hội thành ý nghĩa, giá trị đối
với các cá nhân và được thể hiện trong các hành động tương ứng trong các
lĩnh vực đời sống. Bởi vậy, không thể chỉ cung cấp cho học sinh những giáo lí
chết cứng, khép kín trong sách vở mà phải gắn tri thức lí luận với đời sống xã
hội đang phát triển sinh động.
Thứ hai, quá trình giáo dục là quá trình đào tạo những con người phục
vụ cho một xã hội nhất định nên phải tạo điều kiện cho họ có khả năng thích
ứng cao với đời sống xã hội và những biến động không ngừng của nó. Quá
trình giáo dục thế hệ trẻ phải phát huy, tận dụng những ảnh hưởng, tác động
giáo dục của các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá
- thẩm mĩ, pháp luật...) làm cho học sinh không bị xa rời, thoát li thực tế xã hội.
Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội
để xây dựng những phẩm chất nhân cách cho học sinh là:
- Tạo mối liên hệ gắn bó giữa việc giảng dạy, học tập, giáo dục trong
nhà trường với đời sống xã hội bên ngoài. Để tạo sự gắn bó này đòi hỏi một
mặt phải đưa vào trong chương trình, nội dung giáo dục những sự kiện, hiện
tượng sinh động trong đời sống xã hội, các quan hệ xã hội phong phú, mặt
khác cần chỉ ra phương hướng, cách vận dụng những điều đã học vào thực
tiễn cuộc sống, thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh của xã hội; rèn luyện
cho học sinh những thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực của xã hội
- Làm cho thanh thiếu niên học sinh luôn có ý thức quan tâm đến các
sự kiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước; làm
cho học sinh từ khi còn học trong nhà trường và sau này là một công dân
chân chính phải biết được những khó khăn, thuận lợi và những vấn đề gì của
xã hội cần phải giải quyết trong thực tiễn, từ đó nảy nở những tình cảm, thái
độ, suy nghĩ đúng đắn của học sinh đối với Tổ quốc.
- Tổ chức cho học sinh được tham gia thường xuyên vào công cuộc lao
động xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân cư
(làng, xóm, xã, khối phố...) và quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, thiết lập kỉ
cương, trật tự xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức chính quyền, đoàn thể.
- Phê phán, khắc phục những biểu hiện của phương thức giáo dục của
nhà trường kiểu cũ. Tách rời giáo dục với đời sống, không rèn luyện học sinh
trong thực tế cuộc sống. Mặt khác cũng cần khắc phục hiện tượng giáo dục là
chỉ chú trọng học kiến thức văn hoá - khoa học -kĩ thuật, chạy theo văn bằng
mà không (hoặc ít) chú trọng việc giáo dục lí tưởng, đạo đức, lối sống, lẽ sống
cho thanh thiếu niên. Hậu quả là một số bộ phận thanh niên học sinh bị xa rời
cuộc sống, sai lệch trong lối sống, khó thích ứng với sự biến động của xã hội.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong giáo dục
Quá trình giáo dục diễn ra từ khâu nhận thức - hình thành ý thức cá
nhân đến việc chuyển hoá ý thức thành hành vi Quá trình đó lại làm nảy nở
những xúc cảm, tình cảm, ý chí cho cá nhân, giúp cho sự chuyển hoá ý thức
thành hành vi mạnh mẽ hơn, có nhu cầu thể hiện hành vi theo ý thức (nhận
thức) đã có của bản thân. Sự thống nhất giữa ý thức và hành vi trong quá
trình giáo dục học sinh được thể hiện như sau: - Hiểu được những khái niệm,
quy tắc, chuẩn mực về tư tưởng, chính trị, đạo đức, pháp luật... Đối với mỗi
chuẩn mực đó, yêu cầu học sinh trước hết phải hiểu đúng, đủ, cao hơn là
hiểu đúng, chính xác các góc độ, khía cạnh khác nhau, trong các trường hợp,
tình huống khác nhau. Ví dụ biết phân biệt thế nào là sự khéo léo, tế nhị với
sự giả tạo trong quan hệ, giao tiếp...
- Trên cơ sở nắm vững các chuẩn mực (nội dung, ý nghĩa, cách thể
hiện) chuyển hoá thành niềm tin.
- Quá trình rèn luyện, tập luyện, thể hiện các chuẩn mực về đạo đức,
chính trị, lối sống... trong các điều kiện, tình huống sẽ chuyển hoá ý thức
thành hành vi - thói quen. Quá trình giáo dục phải hình thành và củng cố
những hành vi - thói quen tương ứng với ý thức, niềm tin về những chuẩn
mực hành vi được xã hội quy định. Đây là bước quan trọng của quá trình giáo
đục, vì chỉ có hành vi - thói quen mới xác định bộ mặt của nhân cách.
Ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục có mối quan hệ biện chứng
với nhau. ý thức là cơ sở cho hành vi. ý thức đúng là tiền đề quan trọng cho
hành vi đúng, nó được coi là kim chỉ nam cho hành động, xây dựng niềm tin
vững chắc. Hành vi thói quen được hình thành lại củng cố ý thức, niềm tin
làm cho cá nhân có nhu cầu thực hiện, thể hiện các hành vi đạo đức đã ý thức được.
Để vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi
trong quá trình giáo dục, cần thực hiện một số yêu cầu như:
- Giúp cho học sinh (tuỳ theo lứa tuổi và trình độ được giáo dục) có
hiểu biết đúng, rõ ràng về các khái niệm, các chuẩn mực đạo đức, chính trị,
pháp luật, các quan hệ xã hội, lối sống... Từ những hiểu biết về lí thuyết cần
làm cho học sinh thấy được ý nghĩa, giá trị của những chuẩn mực đó trong
thực tiễn đời sống, có sức thuyết phục, biến thành niềm tin thúc đẩy hình thành hành vi.
- Cần đề phòng và ra sức khắc phục tình trạng tách rời, không ăn khớp
giữa ý thức và hành vi của học sinh. Ví dụ như "nói hay, làm dở". Có những
trường hợp học sinh không biết thể hiện những chuẩn mực của hành vi là do
chưa hiểu nó là gì và phải làm như thế nào trong các tình huống cụ thể khác
nhau, điều đó cũng dẫn đến sự tách rời giữa ý thức và hành vi.
- Tổ chức rèn luyện - giáo dục học sinh trong các loại hình hoạt động
phong phú, đa dạng như hoạt động học tập, lao động, vui chơi, hoạt động xã
hội, lao động công ích, sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thể
dục - thể thao... Trong quá trình tham gia trực tiếp vào các loại hình hoạt
động, học sinh sẽ thể nghiệm những điều được giáo dục, tích luỹ được kinh
nghiệm xã hội cho bản thân và có kĩ năng vận dụng những kinh nghiệm đó
vào thực tiễn cuộc sống.
- Tổ chức cho học sinh tự rèn luyện, tự giáo dục thường xuyên, liên tục
trong các môi trường giáo dục khác nhau để hình thành các thói quen hành vi
tốt, đúng, đồng thời biết tự uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh những thói quen
hành vi xấu, không đúng, không phù hợp với các quy định, chuẩn mực của xã hội.
4. Nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động
Giáo dục trong lao động là tổ chức một cách khoa học các loại hình
hoạt động lao động để thông qua đó giáo dục học sinh, nhằm hình thành ở
các em những phẩm chất nhân cách cần thiết của người lao động kiểu mới.
Giáo dục bằng lao động là dùng lao động như là một phương tiện để giáo dục
học sinh, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống và rèn luyện những đức tính, phẩm chất tốt đẹp.
Yêu cầu để thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao
động là cần tổ chức đưa học sinh trực tiếp tham gia vào các loại hình lao
động để các em có điều kiện được thực sự rèn luyện trong lao động. Khi tổ
chức lao động cho học sinh cần bảo đảm các yêu cầu:
Rèn luyện tính tự giác, tích cực tham gia lao động của học sinh. Muốn
vậy hình thức lao động phải phong phú, hấp dẫn. Sự chỉ đạo, lãnh đạo lao
động phải chặt chẽ, nghiêm túc, tránh hình thức chủ nghĩa, vì thành tích.
- Kích thích tính sáng tạo trong lao động của học sinh.
- Cần giúp cho giáo viên và học sinh có nhận thức đúng đắn là đưa
giáo dục lao động vào nhà trường để giáo dục học sinh là yêu cầu mới, có
tính nguyên tắc của giáo dục. Do đó cần khắc phục những biểu hiện, khuynh
hướng không đúng khi thực hiện nguyên tắc này như không tổ chức giáo dục,
rèn luyện học sinh trong và bằng lao động; đơn giản hoá, hình thức chủ nghĩa
hoặc thực dụng trong việc tổ chức lao động cho học sinh; không gắn lao động
của học sinh với tri thức khoa học - kĩ thuật - công nghệ, không chú ý rèn
luyện những phẩm chất nhân cách cho học sinh trong lao động nội ngoại khoá của nhà trường.
5. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể
Giáo dục trong tập thể là xem tập thể học sinh (trường lớp các đoàn thể
học sinh) là một môi trường giáo dục, bởi vì:
- Tập thể học sinh là một tập hợp có tổ chức chặt chẽ, có hoạt động
chung với mục đích thống nhất - mục đích giáo dục - xã hội.
- Tập thể học sinh có bộ máy tự quản, xây dựng và thực hiện một hệ
thống các mối quan hệ trong tập thể: trách nhiệm giữa các thành viên trong
tập thể với nhau và với tập thể, quan hệ chỉ huy, quyết định - thi hành, quan hệ hợp tác, nhân ái...
- Tập thể học sinh luôn duy trì các dư luận xã hội lành mạnh, phê phán,
điều chỉnh những thái độ, hành vi trái với các chuẩn mực xã hội của mỗi cá
nhân - thành viên của tập thể.
- Sống trong tập thể, học sinh luôn ý thức về tập thể do bầu không khí
thân ái, đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên; làm hình thành tinh thần ý thức
tập thể ở học sinh - yêu cầu quan trọng của giáo dục trong nhà trường.
Giáo dục bằng tập thể là xem tập thể như một lực lượng, một phương
tiện giáo dục có tác dụng hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các yêu
cầu giáo dục của nhà trường, của giáo viên thông qua tập thể tác động đến
các thành viên trong tập thể, các thành viên lại tác động giáo dục lẫn nhau
(tác động giáo dục liên nhân cách). Các hoạt động chung của tập thể có tính
chất tự quản là điều kiện cho các thành viên trong tập thể tự rèn luyện, tự
giáo dục, tự điều chỉnh hành vi thói quen cho phù hợp với yêu cầu giáo dục
xã hội. Nó còn đánh giá và buộc cá nhân phải biết tự đánh giá kết quả tự giáo
dục, rèn luyện của mình so với các quy định, quy chế của tập thể.
Những yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể:
- Thực hiện các tác động giáo dục song song, đòi hỏi công tác giáo dục
của nhà trường, của giáo viên phải tác động đến tập thể học sinh; làm cho nó
trở thành một môi trường, một phương tiện giáo dục đối với từng học sinh -
thành viên của tập thể. Đồng thời, giáo viên tác động giáo dục đến từng học
sinh song không thiên về "giáo dục tay đôi" giữa giáo viên và một học sinh.
Có thể diễn tả quá trình tác động giáo dục song song đó theo sơ đồ sau:
GV: giáo viên tác động đến tập thể
TT: tập thể tác động đến mỗi thành viên (học sinh)
HS - HS: các thành viên của tập thể là học sinh lại tác động giáo dục lẫn nhau
GV - HS: tác động giáo dục từng học sinh
- Xây dựng tập thể học sinh phát triển vững mạnh là đảm bảo cho nó
thực sự là một môi trường, một lực lượng giáo dục hữu hiệu. Cần khắc phục
hiện tượng tập thể thiếu tổ chức chặt chẽ, không có tác dụng giáo dục nhân cách cho các thành viên.
6. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách học sinh kết hợp với yêu cầu hợp lí
trong quá trình giáo dục
Tôn trọng nhân cách học sinh trong quá trình giáo dục đòi hỏi phải tôn
trọng phẩm giá, danh dự, thân thể học sinh và kích thích lòng tự trọng của các
em. Khi học sinh có những hành vi, lời nói trái với chuẩn mực hành vi, giáo
viên phải biết tự kiềm chế, bình tĩnh, nghiêm khắc, chân tình giúp đỡ các em
nhận ra lỗi lầm, không mạt sát sỉ nhục, đánh đập, thể hiện sự thiếu tôn trọng
các em. Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải lạc quan tin tưởng đối với sự
tiến bộ của học sinh. Tuyệt đối không thành kiến với học sinh, ngay cả đối với
những học sinh mắc phải những lỗi lầm lớn. Vì nếu có ác cảm, định kiến với
học sinh thì sẽ làm cho các em mất tự tin mặc cảm và xa lánh nhà giáo dục,
bạn bè và tập thể nên càng mất cơ hội được giáo dục.
Giáo dục cần phát huy mặt tốt, ưu điểm của học sinh là chính, phải nhìn
thấy mặt tốt của con người để động viên phát triển nó lên. Đồng thời khi các
em mắc lỗi, mắc sai lầm thì cũng phải có phương pháp giáo dục, không được
hắt hủi, sỉ nhục. Nhà giáo dục cần xác định những yêu cầu hợp lí cho học
sinh, tức là trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục luôn nêu ra những đòi hỏi
sư phạm - những yêu cầu để học sinh phấn đấu rèn luyện theo, tính hợp lí
của yêu cầu đó thể hiện ở các mặt sau đây: - Học sinh phải nỗ lực ở mức độ
nhất định mới thực hiện được. Điều đó có nghĩa là yêu cầu không quá cao để
học sinh không thể thực hiện được mà cũng không quá dễ để học sinh không
cần có sự cố gắng nào cũng làm được ngay.
Yêu cầu đề ra ngày một cao hơn để học sinh luôn phải cố gắng tích
cực hơn mới thực hiện được.
- Yêu cầu phải có tính khả thi, đáp ứng được nguyện vọng muốn hoàn
thành tốt các nhiệm vụ giáo dục của giáo viên giao cho. Những yêu cầu của
nhà giáo dục phải rõ ràng, cụ thể, phù hợp với trình độ đã được giáo dục của
học sinh và có tính chất dẫn dắt, khuyến khích các em vươn lên cao hơn nữa.
Hai mặt tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao trong giáo dục không mâu
thuẫn mà thống nhất với nhau vì:
- Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp
cho các em vươn lên, phát triển nhân cách tốt hơn.
- Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong
quan hệ ứng xử sư phạm phải thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các em tiến bộ.
Trong thực tiễn giáo dục cần tránh hiện tượng thiếu tôn trọng nhân
cách học sinh (coi thường học sinh, đối xử thô bạo) hoặc ngược lại quá dễ
dãi, nuông chiều, thoả mãn mọi yêu cầu của học sinh một cách vô điều kiện,
không đòi hỏi học sinh thực hiện nghiêm túc những yêu cầu giáo dục đã nêu
ra. Tất cả những hiện tượng đó đều làm giảm hoặc không đem lại hiệu quả
giáo dục. ở một số trường hợp còn dẫn đến hậu quả là làm cho học sinh hư
do có sự buông thả, nuông chiều, tự do quá mức, điều này hay xảy ra trong giáo dục gia đình.
7. Nguyên tắc thống nhất giữa sự tổ chức lãnh đạo sư phạm của giáo
viên với việc phát huy tính tự giác tích cực độc lập tự giáo dục của học sinh
Trong quá trình giáo dục, giáo viên - nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo,
tổ chức lãnh đạo quá trình hình thành, phát triển những phẩm chất, hành vi
thói quen ở học sinh, thể hiện:
- Nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò lãnh đạo sư phạm của giáo viên
trong việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của tập
thể học sinh và của từng học sinh.
- Thuyết phục học sinh biết định hướng và quyết tâm phấn đấu đạt
những mục đích đã đề ra.
- Lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp.
Để phát huy vai trò tự giác tích cực, độc lập, tự rèn luyện, tự giáo dục
của học sinh, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải: - Tôn trọng sáng kiến và sự độc lập của học sinh.
- Động viên kịp thời ý chí quyết tâm vươn lên của học sinh.
- Biến yêu cầu giáo dục của nhà trường thành yêu cầu tự giáo dục của
tập thể và trách nhiệm của từng cá nhân học sinh.
- Lựa chọn các biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục, giúp học sinh
tự định hướng rèn luyện, hoạt động.
Trong quá trình giáo dục, tính tự giác, tích cực chủ động, sáng tạo của
học sinh giữ vai trò quyết định trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách.
8. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống kế tiếp liên tục trong công tác giáo dục
Nguyên tắc này yêu cầu phải tiến hành một cách lâu dài, có hệ thống
các tác động giáo dục nhằm hình thành dần dần, từng bước các phẩm chất
nhân cách. Quá trình giáo dục bao gồm hệ thống các nhiệm vụ, nội dung,
phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục. Giáo viên phải xem xét các
tác động và hiệu quả giáo dục trong toàn bộ hệ thống đó. Tính hệ thống và kế
tiếp có liên quan tới nhau. Hệ thống kế tiếp từ thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp dần lên, từ dễ đến khó... trong việc hình thành các tri thức chuẩn
mực, hành vi thói quen cho học sinh. Những phẩm chất mới phải được hình
thành dựa trên cơ sở trình độ đã được giáo dục trước đó.
Trong quá trình giáo dục phải chú ý củng cố tập luyện liên tục, kéo dài
để nâng cao dần các kết quả giáo dục ở học sinh, làm cho nhận thức, thái độ,
tình cảm, hành vi đã được hình thành trở nên ổn định vững chắc.
Giáo dục bất kì một phẩm chất nào của nhân cách, đặc biệt là việc hình
thành một thói quen, nếp sống, lối sống cần phải được tiến hành liên tục,
thường xuyên. Các yêu cầu giáo dục phải được học sinh thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc.
Thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ là ở nơi nào (nhà trường, gia đình, tập
thể...) công tác giáo dục được ý thức đầy đủ, được tiến hành có hệ thống, liên
tục, thường xuyên thì sẽ đạt được hiệu quả cao. Trong quá trình giáo dục lại,
cải tạo những thói quen xấu đã tiêm nhiễm lâu trong mỗi cá nhân thì càng đòi
hỏi tính kiên trì, tác động giáo dục thường xuyên, liên tục và có hệ thống.
9. Nguyên tắc thống nhất giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia
đình và giáo dục của cộng đồng xã hội
Quá trình giáo dục con người diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Học sinh luôn
sống, hoạt động trong các môi trường gia đình, trường học và cộng đồng xã
hội (làng xóm, khu phố...) và luôn nhận được các tác động giáo dục từ nhiều
phía, nhiều lực lượng. Để nâng cao hiệu quả giáo dục, hạn chế những mặt
tiêu cực làm giảm kết quả giáo đục cần phải có sự thống nhất giữa giáo dục
nhà trường, gia đình và xã hội.
Mỗi lực lượng giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) có vị trí nhất định trong giáo dục học sinh.
- Giáo dục gia đình: Đặt cơ sở nền móng đầu tiên cho sự hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ. Có thể nói "Người mẹ là người thầy giáo đầu
tiên của đứa trẻ", gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và làm nảy nở những tâm
hồn tốt đẹp cho trẻ. Hoàn cảnh, điều kiện sống, bầu không khí văn hoá, tâm lí
và các quan hệ trong gia đình thường xuyên tác động, ảnh hưởng đến nhân
cách của trẻ trong gia đình.
- Giáo dục xã hội có vai trò rất quan trọng. Các quan hệ xã hội (kinh tế,
văn hoá, khoa học, kĩ thuật, tư tưởng, chính trị...) thường xuyên tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp qua nhiều kênh đến các cá nhân. Các ảnh hưởng, tác
động của xã hội đến cá nhân theo cả hai hướng: tích cực, có mục đích tốt và
tự phát tiêu cực. Những tác động tiêu cực của xã hội có khi làm giảm sút hoặc
trái ngược với giáo dục của nhà trường.
- Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo: bao hàm những tác động,
nội dung giáo dục có mục đích, có kế hoạch và tổ chức chặt chẽ. Giáo dục
nhà trường khai thác có lựa chọn những tác động giáo dục tích cực của gia
đình và của xã hội, góp phần điều chỉnh những tác động tiêu cực từ gia đình, xã hội.
Giáo dục nhà trường được tiến hành một cách khoa học (có hệ thống,
có phương pháp, kế hoạch, tổ chức chặt chẽ) do những nhà giáo dục có năng
lực sư phạm thực hiện nên đã đạt được hiệu quả cao trong việc hình thành
phát triển nhân cách học sinh.
Trong thực tiễn giáo dục vẫn còn có sự thiếu thống nhất, còn khoảng
cách giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Ví dụ, nhà trường giáo dục
những giá trị, tình cảm, thái độ tích cực theo các chuẩn mực xã hội, nhưng
nếu ở gia đình lại có những tác động khác, có khi trái ngược với tác động giáo
dục của nhà trường thì những tác động ngược chiều như vậy sẽ ảnh hưởng
đến hiệu quả giáo dục.
10. Nguyên tắc chú ý đến đặc điểm của đối tượng giáo dục
Nguyên tắc này yêu cầu những người làm công tác giáo dục phải nắm
được các đặc điểm của đối tượng giáo dục. Căn cứ vào đặc điểm trình độ
được giáo dục đã trưởng thành về mặt xã hội đến mức độ nào để làm căn cứ
nhằm đề ra kế hoạch giáo dục cho sát hợp.
Đối tượng giáo dục có nhiều đặc điểm khác nhau như: đặc điểm quá
trình tâm lí cá nhân (nhận thức, xúc cảm, tình cảm, lí trí, xu hướng, tính cách,
nhu cầu, động cơ...); những đặc điểm riêng của đời sống cá nhân (gia đình,
bố mẹ, sự phát triển trí tuệ, đạo đức); đặc điểm tâm lí lứa tuổi; đặc điểm của
các điều kiện môi trường, vùng, miền có những sự phát triển kinh tế văn hoá,
phong tục tập quán khác nhau. Nhà giáo dục phải căn cứ vào các đặc điểm
đó để lựa chọn nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức giáo dục phù hợp, có hiệu quả cao.
Các nguyên tắc giáo dục là một hệ thống toàn diện, chúng không tồn tại
tách biệt mà có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau. Người giáo viên cần biết vận dụng và phối hợp các nguyên tắc giáo dục
một cách linh hoạt, sáng tạo để có được những kết quả mong muốn.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Trình bày khái niệm nguyên tắc giáo dục. Cơ sở lí luận và thực tiễn
của các nguyên tắc giáo dục.
2. So sánh và đánh giá hệ thống các nguyên tắc giáo dục trong một số
giáo trình giáo dục học hiện nay.
3. Phân tích nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc bảo đảm
tính mục đích trong giáo dục.
4. Phân tích nội dung, yêu cầu thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội.
5. Hiểu như thế nào là giáo dục trong lao động và bằng lao động trong quá trình giáo dục?
6. Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và
bằng lao động. Nêu thực trạng thực hiện nguyên tắc này ở trường phổ thông mà anh chị biết.
7. Nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể.
8. Nội dung của nguyên tắc giáo dục thống nhất tôn trọng nhân cách và
yêu cầu hợp lí trong giáo dục là gì? Nêu các yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục này.
9. Tại sao trong giáo dục lại phải thực hiện nguyên tắc kết hợp thống
nhất sự lãnh đạo của giáo viên và phát huy tính tự giác, tích cực chủ động của học sinh?
10. Bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp liên tục có ý nghĩa như thế nào trong
quá trình giáo dục? Lấy dẫn chứng thực tiễn để minh họa. BÀI TẬP
Điều tra 20 học sinh của một lớp (ở trường Tiểu học, Trung học cơ sở
hoặc Trung học phổ thông) để thấy được các đặc điểm về tinh thần, thái độ
đối với tập thể lớp của các em. Nêu những mặt mạnh, mặt yếu và phân tích nguyên nhân.
Chương 14: NỘI DUNG GIÁO DỤC
Giáo dục là quá trình tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa
dạng nhằm hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực của con
người, đáp ứng được các yêu cầu của xã hội, thời đại. Để thực hiện mục tiêu
giáo dục - đào tạo, nhà trường phải chuyển tải các nội dung giáo dục tương
ứng đến học sinh, giúp cho các em chiếm lĩnh được các nội dung giáo dục đó
để hình thành nhân cách.
I. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC CƠ BẢN TRONG NHÀ TRƯỜNG
1. Giáo dục đạo đức và ý thức công dân

a. Giáo dục đạo đức
Ý nghĩa của giáo dục đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về
cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Đạo đức
về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được
hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Đạo đức
là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống nhân loại, đạo đức định
hướng giá trị cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với chuẩn mực của xã hội. Những giá trị phổ biến của đạo đức thể hiện trong
các khái niệm: thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn minh, lương tâm, trách
nhiệm... thang giá trị của đạo đức diễn biến theo lịch sử và mang tính dân tộc
Giáo dục đạo đức là hoạt động của nhà giáo dục dựa theo yêu cầu xã
hội, tác động có hệ thống lên người được giáo dục một cách có mục đích và
có kế hoạch để bồi dưỡng những phẩm chất tư tưởng mà nhà giáo dục kì
vọng, chuyển hóa những quan điểm, yêu cầu và ý thức xã hội có liên quan
thành phẩm chất đạo đức, tư tưởng của mỗi cá nhân.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo và đối với toàn xã hội.
- Giáo dục đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định lâu dài của xã hội, xã
hội ổn định là tiền đề, là cơ sở để phát triển, giáo dục đạo đức chính là bảo
đảm cho sự ổn định lâu dài của xã hội. Lí tưởng, niềm tin, đạo đức được hình
thành qua công tác giáo dục đạo đức ở trong và ngoài nhà trường.
- Giáo dục đạo đức có vị trí hàng đầu và chủ đạo trong giáo dục nhà
trường, giáo dục đạo đức với tư tưởng chính trị rõ ràng có vai trò định hướng
cho các nội dung giáo dục khác. Nhà trường thông qua thực hiện công tác
giáo dục có thể nâng cao hiệu quả giáo dục, thúc đẩy hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục khác.
- Đối với sự phát triển của thanh thiếu niên, giáo dục đạo đức hình
thành cho họ hệ thống lập trường chính trị, quan điểm, thế giới quan mácxít
và phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trước xu
thế hội nhập của thế giới hiện đại, giáo dục đạo đức trong nhà trường giữ vai
trò rất quan trọng trong định hướng cuộc sống và lựa chọn giá trị của thế hệ trẻ.
Nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong nhà trường có thể khái quát như sau:
- Hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, nắm được những
quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội, có ý thức thực hiện nghĩa vụ của
người công dân, từng bước trang bị cho học sinh định hướng chính trị kiên định, rõ ràng.
- Giúp cho học sinh hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có ý thức học tập,
làm việc tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật.
- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phán đoán, đánh giá đạo đức, hình
thành niềm tin đạo đức, yêu cầu học sinh phải thấm nhuần các nguyên tắc và
chuẩn mực đạo đức do xã hội quy định, biết tiếp thu văn minh nhân loại kết
hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc.
- Dẫn dắt học sinh biết rèn luyện để hình thành hành vi, thói quen đạo
đức, có ý thức tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, có ý thức đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu.
Những nội dung chủ yếu để giáo dục đạo đức cho học sinh:
- Giáo dục lí luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước;
- Giáo dục lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản;
- Giáo dục chủ nghĩa tập thể;
- Giáo dục lòng nhiệt tình, hăng say lao động, có ý thức bảo vệ tài sản XHCN;
- Giáo dục dân chủ và pháp chế XHCN;
- Giáo dục hành vi văn minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,
giáo dục ý thức công dân và các nội dung đạo đức mới XHCN.
Nội dung chủ yếu của giáo dục đạo đức phải phù hợp với yêu cầu của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện ý nguyện của Đảng:
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Các bước của quá trình giáo dục đạo đức bao gồm:
- Quá trình tác động nâng cao nhận thức về tư tưởng, chính trị, đạo
đức làm cơ sở cho sự hình thành, phát triển và thể hiện các hành vi đạo đức.
- Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, trong sáng, phù hợp với các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ, ứng xử của xã hội.
- Rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức.
Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là: Giảng dạy
môn Giáo dục công dân và các môn học khác qua hoạt động ngoại khóa, lao
động sản xuất, hoạt động của Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên, công tác
chủ nhiệm lớp. Hoạt động ngoại khóa và các hoạt động ngoài nhà trường là
con đường quan trọng thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh một cách sinh động, hấp dẫn.
b. Giáo dục ý thức công dân
Toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường đều hướng vào mục
tiêu đào tạo một thế hệ công dân mới, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Học sinh hôm nay là công dân trong tương lai, họ sẽ là chủ nhân xây dựng và
bảo vệ đất nước, họ cần được giáo dục ý thức công dân, để trở thành những
công dân có ích nhất đối với Tổ quốc.
Ý thức công dân là một phạm trù xã hội học, nó phản ánh trình độ nhận
thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Nhà nước
với tư cách là những công dân chân chính của xã hội và của cộng đồng.
Nhiệm vụ giáo dục ý thức công dân trong nhà trường như sau:
Giáo dục chính trị - tư tưởng cho học sinh: giáo dục cho học sinh lòng
yêu nước; giáo dục cho học sinh hiểu rõ chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá
xã hội, mục tiêu là tiến tới xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; làm
cho học sinh quan tâm đến những vấn đề chính trị, xã hội đang diễn ra trong
nước và trên thế giới; rèn luyện cho học sinh thói quen và kĩ năng tham gia
các hoạt động xã hội, tham gia vào các phong trào chính trị, văn hoá được tổ
chức ở địa phương và nhà trường.
Giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi pháp luật: giúp cho học sinh
hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân để biết sống và hành động
theo pháp luật, có ý thức đấu tranh với những biểu hiện vi phạm pháp luật, có
ý thức tuyên truyền, giúp đỡ mọi người xung quanh thực hiện đúng pháp luật.
Nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường bao gồm các
quyền và nghĩa vụ của trẻ em trong quan hệ với gia đình, nhà trường và
ngoài xã hội như: quyền được nuôi dưỡng, giáo dục; được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khoẻ và danh dự; quyền được học tập, vui chơi, lao động,
được tham gia vào các hoạt động đoàn thể, xã hội; nghĩa vụ vâng lời dạy bảo
của cha mẹ, thầy cô giáo và kính trọng người lớn; nghĩa vụ học tập và phấn
đấu vươn lên để trở thành người công dân có ích cho Tổ quốc; nghĩa vụ tuân
theo các quy định của pháp luật (Luật An toàn giao thông, Luật Bảo vệ môi
trường, Luật Bảo vệ di sản văn hoá...).
2. Giáo dục thẩm mĩ
Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ
Thẩm mĩ là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng có trong tự
nhiên, xã hội và con người, được con người nhận thức, đánh giá, thưởng thức và sáng tạo.
Giáo dục thẩm mĩ là vận dụng cái đẹp của nghệ thuật, của tự nhiên và
nét đẹp của cuộc sống xã hội để bồi dưỡng quan điểm thẩm mĩ và năng lực
cảm thụ, thưởng thức, sáng tạo cái đẹp đúng đắn cho học sinh. Giáo dục
thẩm mĩ là bộ phận cấu thành cần thiết của mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện.
Con người là chủ thể của đời sống xã hội, vừa có nhu cầu về đời sống
vật chất vừa có nhu cầu về đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu thẩm mĩ.
Bồi dưỡng và hun đúc cái đẹp có hiệu quả nhất bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ.
Làm tốt công tác giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường sẽ nâng cao tố chất văn
minh tinh thần cho thế hệ trẻ và toàn dân tộc.
Giáo dục thẩm mĩ có thể mở rộng tầm nhìn cho học sinh, phát triển trí
lực và tinh thần sáng tạo của học sinh. Con người có thể nhận thức thế giới
bằng nhiều con đường, trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật tái hiện đời sống
hiện thực thông qua hình tượng nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là một
phương thức phản ánh thế giới một cách sinh động, mới mẻ.
Giáo dục thẩm mĩ có thể thúc đẩy trí lực của học sinh phát triển. Khi
học sinh cảm nhận và thể nghiệm tình cảm trước cái đẹp của tự nhiên, xã hội
và nghệ thuật sẽ thúc đẩy năng lực tư duy và năng lực sáng tạo phát triển.
- Giáo dục thẩm mĩ có vai trò làm cho tâm hồn của học sinh trở nên
trong sáng hơn, rèn luyện cảm xúc, hoàn thiện phẩm chất đạo đức cho các em.
Sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện đã được đề cập đến từ lâu,
ngày nay với mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện, vấn đề này lại càng
được nhấn mạnh. Giáo dục thẩm mĩ có ảnh hưởng to lớn tới giáo dục đạo
đức, thông qua hình tượng đẹp chúng ta có thể giáo dục, nâng cao năng lực,
phân biệt xấu, đẹp, thiện, ác, đồng thời tạo ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm,
tư tưởng của học sinh, gợi lên tiếng gọi từ nội tâm, hình thành phẩm chất đạo
đức và tình cảm cao thượng của học sinh.
- Giáo dục thẩm mĩ thúc đẩy học sinh vươn tới cái đẹp, biết thể hiện cái
đẹp trong mọi lĩnh vực của đời sống, tức là biết xây dựng cuộc sống theo quy luật của cái đẹp.
Giáo dục thẩm mĩ và các nội dung giáo dục khác là điều kiện cho nhau,
tương hỗ lẫn nhau cùng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh. Vì vậy,
tăng cường giáo dục thẩm mĩ cho các cấp học, các ngành học là xu thế tất yếu hiện nay.
Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường là:
- Giúp học sinh hình thành quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nâng cao
năng lực thẩm mĩ. Quan điểm thẩm mĩ là thái độ và cách nhìn của con người
trong hoạt động thẩm mĩ. Mỗi thời đại có tiêu chuẩn thẩm mĩ riêng biệt. Trong
xã hội có giai cấp giáo dục thẩm mĩ mang tính giai cấp. Vì thế, nhiệm vụ của
giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường trước hết là giáo dục học sinh xây dựng
quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nắm vững tiêu chuẩn, phân biệt và đánh giá cái
đẹp, đồng thời phải bồi dưỡng cho học sinh tình cảm thẩm mĩ cao thượng.
Muốn nâng cao năng lực cảm thụ, hiểu biết và thưởng thức cái đẹp của học
sinh thì phải tăng cường bồi dưỡng, truyền thụ tri thức nghệ thuật cơ bản, cần
thiết cho các em, bao gồm: tri thức mĩ học, văn học, âm nhạc, mĩ thuật... hiểu
biết tri thức nghệ thuật, cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, phân tích nét đẹp đời
sống xã hội, nâng cao năng lực thẩm mĩ.
- Bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ lành mạnh, kích thích học sinh yêu thích
và vươn tới cái đẹp chân chính. Con người thưởng thức cái đẹp theo sắc thái
tình cảm. Hướng dẫn học sinh thưởng thức các hình thái của cái đẹp, kích
thích các em có tình cảm vui thích, yêu mến cái đẹp, hình thành tình cảm
thẩm mĩ lành mạnh, cao thượng và tinh thần sáng tạo phấn đấu vươn lên để
thực hiện ý tưởng tốt đẹp.
- Giúp cho học sinh phát triển năng lực biểu hiện và sáng tạo cái đẹp.
Con người ai cũng yêu thích cái đẹp. Điều này không chỉ biểu hiện ở hứng
thú, sở thích đối với sự vật đẹp, tác phẩm nghệ thuật mà còn mong muốn
biểu hiện và sáng tạo cái đẹp trong thực tiễn xã hội, phát triển nét đẹp ở mọi
nơi mọi lúc trong đời sống xã hội, trong cuộc sống hàng ngày (chú ý làm đẹp
môi trường, có hành vi cử chỉ văn minh, phục trang hợp lí; đối nhân xử thế
khiêm nhường, lịch sự...).
Các nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với nhau, trong đó bồi
dưỡng quan điểm thẩm mĩ đúng đắn là nhiệm vụ hạt nhân. Có quan điểm
đúng đắn mới có thể hình thành tình cảm thẩm mĩ lành mạnh và quan điểm
thẩm mĩ được thể nghiệm trong hoạt động thẩm mĩ, sáng tạo thẩm mĩ.
Giáo dục thẩm mĩ thông qua các con đường sau đây:
- Giáo dục nghệ thuật: Giáo dục nghệ thuật chiếm vị trí chủ yếu trong
nội dung giáo dục thẩm mĩ. Nghệ thuật bắt đầu từ cuộc sống và cao hơn cuộc
sống. Nghệ thuật phản ánh vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội một cách tập trung,
điển hình và mang tính tiêu biểu nên nó có sức truyền cảm và có tác dụng
giáo dục to lớn. Hình thức nghệ thuật có: văn học, mĩ thuật, âm nhạc, vũ đạo
(múa), kịch, điện ảnh, truyền hình với nội dung phong phú, hình thức đa dạng.
Tác phẩm nghệ thuật ở hình thức nào cũng có đặc điểm và vai trò riêng, độc
đáo. Giáo viên cần dựa vào nội dung và đặc điểm cụ thể của chúng để giáo
dục thẩm mĩ cho học sinh. Con đường giáo dục nghệ thuật trong nhà trường
bao gồm: 1. Giáo dục nghệ thuật trên lớp, bao gồm việc dạy các môn học
trong đó văn học, mĩ thuật, âm nhạc chiếm vị trí và vai trò quan trọng. 2. Hoạt
động văn học nghệ thuật ngoại khóa.
- Giáo dục thẩm mĩ thông qua dạy và học các bộ môn khoa học, đặc
biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Mỗi môn học đều chứa đựng những tiềm
năng trong việc giáo dục cái đẹp, những tiềm năng này không giống nhau,
giáo viên cần căn cứ vào tiềm năng của từng môn học để khai thác chúng,
biết tìm ra cái đẹp ngay trong hệ thống kiến thức mà học sinh lĩnh hội. Ngày
nay, quá trình dạy học có sự hỗ trợ của phương tiện kĩ thuật hiện đại nên giáo
viên có điều kiện để làm sáng tỏ các góc độ của đối tượng thẩm mĩ.
- Thông qua xây dưng môi trường văn hoá lành mạnh trong gia đình,
nhà trường và xã hội. Nét đẹp trong cuộc sống gia đình được biểu hiện thông
qua quan hệ trực tiếp thường xuyên của ông bà, cha mẹ, anh chị em, những
người thân yêu ruột thịt. Sự thương yêu đùm bọc, chăm sóc của gia đình là
cơ sở để học sinh thể hiện những nét đẹp đó trong các mối quan hệ. Do đó
nhà trường cần phối hợp với gia đình, cung cấp cho họ những kiến thức,
phương pháp, hình thức giáo dục thẩm mĩ, giúp cho họ thấy được lợi ích của
những giá trị thẩm mĩ trong quan hệ gia đình. Xã hội đẹp là cội nguồn quan
trọng của giáo dục thẩm mĩ, nhà trường cần phối hợp với chính quyền, với
các cơ quan văn hoá - nghệ thuật ở địa phương xây dựng nên môi trường
văn hoá trong sạch. ở nhà trường, cảnh quan môi trường sư phạm, các mối
quan hệ giao lưu trong trường, phong cách, cử chỉ, trang phục, ngôn ngữ, nét
mặt... được coi là phương tiện quan trọng để giáo dục thẩm mĩ cho học sinh.
Giáo viên cần vận dụng thực tiễn sinh động để giáo dục thẩm mĩ cho học
sinh, đồng thời tích cực gợi mở, hướng dẫn học sinh thể nghiệm, cảm thụ để
phát huy tác dụng thẩm mĩ của chúng. –
Giáo dục cái đẹp trong tự nhiên:
Cái đẹp tồn tại trong tự nhiên như phong cảnh đất nước, quê hương,
danh lam thắng cảnh... chính là nguồn tư liệu sống không bao giờ cạn kiệt
của giáo dục thẩm mĩ, cần tạo điều kiện để học sinh tiếp xúc với cảnh quan thiên nhiên.
3. Giáo dục lao động và hướng nghiệp
a. Giáo dục lao động
Lao động là phạm trù xã hội, nó vừa là điều kiện vừa là kết quả cho sự
tồn tại của xã hội loài người cũng như sự phát triển của mỗi cá nhân.
Nhờ có lao động mà con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần. Lao động trở thành thuộc tính bản chất của con người, thể hiện sự khác
biệt giữa con người và loài vật. Trong quá trình lao động, các mối quan hệ xã
hội giữa con người với con người được hình thành, qua đó thiết lập bộ mặt
nhân cách riêng cho mỗi con người.
Lao động không chỉ với mục đích chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt
động thực tiễn mà còn là phương tiện hình thành nhân cách, phát triển về mặt
thể lực, tác động đến sự phát triển trí tuệ của học sinh.
Mục đích của giáo dục lao động trong nhà trường phổ thông là hình
thành cho học sinh quan điểm đúng đắn về lao động, hình thành thái độ tích
cực đối với lao động, nhu cầu và thói quen đối với lao động.
Nhiệm vụ của giáo dục lao động
- Giáo dục cho học sinh thái độ đúng đắn đối với lao động: Có tinh thần
trách nhiệm cao đối với công việc, nghề nghiệp, có thói quen lao động cần cù,
bền bỉ, có ý thức tổ chức, kỉ luật, lao động sáng tạo, có năng suất cao, lao
động với lương tâm nghề nghiệp, có bổn phận và nghĩa vụ vì lợi ích của bản
thân, gia đình, tập thể và xã hội. Giáo dục ý thức đúng đắn đối với lao động,
lao động trung thực có năng suất cao vì phúc lợi xã hội và cá nhân.
- Cung cấp cho học sinh học vấn kĩ thuật tổng hợp, phát triển tư duy kĩ
thuật hiện đại. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,
đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin đòi hỏi học sinh phải có học
vấn cần thiết để đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội hiện đại.
- Chuẩn bị cho học sinh có những kĩ năng lao động kĩ thuật nghề
nghiệp ở một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định trong các khu vực kinh tế của
đất nước, của địa phương.
- Hình thành cho học sinh thói quen lao động có văn hóa: làm việc có
kế hoạch, khoa học, biết tiết kiệm, quý trọng của cải và sức lao động, thực
hiện công việc được giao chuẩn xác, đúng thời hạn, biết lao động, nghỉ ngơi hợp lí, khoa học v.v....
- Tổ chức các hoạt động để làm cho học sinh có những hiểu biết cơ bản
về các ngành, nghề và thị trường lao động trước mắt và sự phát triển lâu dài
của kinh tế, sản xuất để có khả năng lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng
lực, nguyện vọng của bản thân và yêu cầu của xã hội.
Tổ chức cho học sinh trực tiếp tham gia lao động sản xuất và các loại
hình lao động khác để góp phần sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần cho bản thân và xã hội.
Một số loại hình lao động
Lao động học tập: Là dạng lao động cơ bản, chiếm thời gian nhiều nhất
trong các hoạt động của học sinh trong nhà trường, mục đích chủ yếu là cung
cấp cho học sinh hệ thống kiến thức khoa học. Hoạt động học tập chỉ thực sự
là một dạng lao động mang tính giáo dục đối với học sinh khi có sự tham gia
gia tích cực của trí tuệ và được tổ chức một cách khoa học, hợp lí.
- Lao động sản xuất của học sinh trong nhà trường: Là dạng lao động
có ý nghĩa to lớn, đó là sự tham gia trực tiếp của học sinh vào một lĩnh vực
nghề nghiệp nào đó, đem lại những sản phẩm cụ thể, thông qua đó hình
thành những phẩm chất quý báu của người lao động và có điều kiện để thử
sức mình ở những nghề nghiệp nhất định. Lao động sản xuất của học sinh
thường được tiến hành ở cơ sở sản xuất ngoài xã hội hay trong vườn trường, xưởng trường.
- Lao động công ích xã hội: Lao động công ích của học sinh rất phong
phú như tu sửa trường lớp, sân chơi, thư viện, vệ sinh đường phố, đường
làng, trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường sinh thái... Lao động công ích
thường là lao động không có thù lao, nó rất có ưu thế trong việc giáo dục ý
thức trách nhiệm, hình thành tình cảm, tinh thần đoàn kết trong tập thể
- Lao động tự phục vụ: Được học sinh tiến hành ở gia đình (vệ sinh nhà
cửa, sửa chữa đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc cây, vật nuôi trong gia đình...)
tiến hành ở nhà trường (vệ sinh trường lớp, sửa chữa đồ dùng học tập, chăm sóc vườn trường....).
Nội dung, chương trình giáo dục lao động cho học sinh trong nhà
trường phổ thông thể hiện trong chương trình môn Kĩ thuật được Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành và áp dụng trong tất cả các trường phổ thông. Trong đó
có những phần bắt buộc (phần chung) nhằm trang bị cho học sinh tri thức, kĩ
năng cần thiết đối với hoạt động kĩ thuật. Học phần riêng (do nhà trường tự
chọn) sẽ giúp học sinh hiểu được kĩ thuật công, nông nghiệp, nghề địa
phương đang phát triển. Nhờ đó học sinh được định hướng cụ thể trước hệ
thống nghề của địa phương và các vùng lân cận, giúp cho việc sử dụng học
sinh ra trường được hợp lí.
Một số yêu cầu để tổ chức lao động cho học sinh có hiệu quả:
- Tổ chức cho học sinh tham quan các cơ sở sản xuất theo kế hoạch,
phân bố nội dung của giáo dục lao động theo trình tự giáo dục.
- Lựa chọn các dạng lao động để học sinh có thể làm quen với một
phạm vi rộng các dạng lao động xã hội.
- Lựa chọn các hình thức lao động theo hướng phức tạp dần và đảm
bảo phù hợp với trình độ, lứa tuổi, giới tính của học sinh.
- Cần tổ chức lao động phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội
của địa phương để khai thác kinh nghiệm của học sinh và thu hút các em đi
vào lĩnh vực nghề nghiệp mà địa phương đang yêu cầu.
- Những người hướng dẫn lao động cần phải có kiến thức có kĩ năng
về lĩnh vực lao động để đảm bảo lao động mang lại hiệu quả.
b. Giáo dục hướng nghiệp
Hướng nghiệp là một hoạt động của tập thể sư phạm nhằm giúp học
sinh chọn nghề một cách hợp lí, phù hợp với hứng thú, nguyện vọng, năng
lực của cá nhân và yêu cầu của xã hội.
Hướng nghiệp được coi là một bộ phận cấu thành trong toàn bộ công
tác giáo dục. Việc chọn nghề của học sinh không thể để diễn ra một cách
ngẫu nhiên, tự phát mà phải là một quá trình giáo dục. Dưới sự hướng dẫn,
ảnh hưởng của thầy giáo, cha mẹ, bạn bè, thông tin dư luận xã hội v.v... làm
cho quá trình chọn nghề của học sinh từ chỗ "định hướng ban đầu" đến chỗ
"tự quyết định con đường đi vào nghề nghiệp tương lai" được đúng đắn.
Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
Thứ nhất, định hướng nghề nghiệp: Công việc chủ yếu của định hướng
nghề nghiệp là thông tin về sự phát triển của các nghề trong xã hội, nhất là
những nghề đang cần nhiều nhân lực kể cả những nghề trong khu vực kinh tế
Nhà nước và các thành phần kinh tế khác trong cả nước nói chung và ở địa
phương nói riêng. Những thông tin này bao gồm:
- Yêu cầu tâm - sinh lí của nghề
- Tình hình phân công lao động, yêu cầu tuyển chọn; - Điều kiện lao
động và triển vọng của nghề;
- Những quan niệm (thường biểu hiện dưới dạng dư luận xã hội) đúng
hoặc sai lệch về một số nghề trong xã hội hiện tại.
- Yêu cầu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ trong những giai đoạn
trước mắt và lâu dài của đất nước và địa phương liên quan đến sự phát triển của các ngành nghề.
- Hệ thống các trường dạy nghề.
- Các tổng công ti, công ti, nhà máy, xí nghiệp, công - nông trường, hầm
mỏ, hợp tác xã v.v... Các cơ sở sản xuất (địa điểm, cơ cấu hoạt động, sản
phẩm...) để có hướng chọn cho mình một chỗ đứng sau này.
Đối tượng tác động để định hướng nghề nghiệp là học sinh, đặc biệt là
những học sinh lớp cuối cấp (lớp 9 trường PTCS và lớp 12 trường PTTH).
Biện pháp và phương tiện thông tin nghề nghiệp cho học sinh là:
- Giới thiệu, tuyên truyền về nghề qua buổi sinh hoạt hướng nghiệp.
Công việc này có thể do giáo viên làm, có thể mời người sử dụng lao động,
người đã từng lao động ở các cơ sở đến báo cáo, nói chuyện, trao đổi với học sinh về nghề.
- Tạo điều kiện cho học sinh được làm quen với một số nghề hiện có
trong xã hội. Ví dụ như: Tổ chức cho các em tham quan sản xuất, tham gia
lao động ở một số cơ sở sản xuất nếu có điều kiện (nhận gia công một số chi
tiết hoặc một số mặt hàng theo hợp đồng cho nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã);
tổ chức lao động sản xuất ở trường.
- Tăng cường và mở rộng các phương tiện thông tin đại chúng (phát
thanh tuyên truyền, báo chí, phim ảnh, quảng cáo...) để giới thiệu về nghề.
Quá trình thông tin nghề nghiệp trong xã hội cho học sinh cần bảo đảm
một số yêu cầu như: giúp học sinh định hướng vào những nghề đang có nhu
cầu nhân lực lớn, cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, những nghề đòi hỏi
năng khiếu đặc biệt để gây hứng thú nghề nghiệp cho học sinh.
Thứ hai, tư vấn nghề nghiệp: Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp các
cá nhân, đặc biệt là thanh thiếu niên trong quá trình định hướng, tìm chọn
cũng như thay đổi nghề. Để tư vấn nghề nghiệp các nước thường thành lập
những ban tư vấn nghề nghiệp trong trường học. ở Việt Nam, trong các
trường phổ thông hiện nay, công tác hướng nghiệp được coi là một nội dung
giáo dục của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp thường là người tư vấn
nghề nghiệp cho học sinh. Cũng có thể thành lập những trung tâm tư vấn
nghề nghiệp ở ngoài nhà trường. Người làm công tác tư vấn qua quá trình
tiếp xúc với học sinh, với cha mẹ học sinh, với các giáo viên bộ môn... nắm
được đặc điểm nhân cách của học sinh, hoặc dựa vào sự khảo sát, điều tra,
đánh giá các môn văn hóa, môn kĩ thuật và lao động sản xuất, nghiên cứu các
sản phẩm hoặc kết quả hoạt động... người làm công tác tư vấn lập sổ hướng
nghiệp cho từng học sinh, ghi lại những gì cần thiết; cuối cùng trên cơ sở đó
cho học sinh những lời khuyên trong việc chọn nghề.
Thứ ba là tuyển chọn nghề (Thích hợp nghề)
Ngoài ra, người làm công tác tư vấn nghề nghiệp phải xây dựng một
phác đồ nghề nghiệp để giới thiệu cho học sinh, chỉ ra cho học sinh thấy
được mức độ phù hợp hay không phù hợp giữa nhận thức, khả năng của cá
nhân với yêu cầu thực tế khách quan của nghề, tức là mối quan hệ giữa nghề
với cá nhân. Từ đó học sinh sẽ quyết định chọn nghề gì.
Trường phổ thông căn cứ vào nhu cầu nhân lực của mỗi nghề cụ thể
trong kế hoạch phát triển kinh tế để định hướng, tư vấn nghề nghiệp cho học
sinh. Nghiên cứu, tham khảo sổ hướng nghiệp của học sinh, các trường dạy
nghề, trường trung học chuyên nghiệp, đại học, cao đẳng, nhà máy, xí nghiệp,
hợp tác xã sẽ có những cứ liệu quan trọng để tuyển chọn người phù hợp, làm
rõ được mối quan hệ nghề - cá nhân trong việc sắp xếp, bố trí nghề.
Ba nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng sơ
đồ tam giác hướng nghiệp.
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp được thực hiện bằng các con đường sau:
- Hướng nghiệp qua dạy học các môn khoa học cơ bản, trước hết nó
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và có hệ thống về khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và tư duy. Đó là những khái niệm, quy luật, lí thuyết cơ
bản có liên quan đến kĩ thuật và sản xuất. Những môn học này cung cấp
những cơ sở khoa học cho việc thực hiện giáo dục kĩ thuật tổng hợp, giúp cho
việc xây dựng và phát triển những năng lực phong phú, đa dạng của học sinh;
chuẩn bị cho các em đi vào lao động nghề nghiệp.
- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học môn Kĩ thuật và lao động sản xuất trong trường học.
- Tổ chức cho học sinh tham gia sản xuất ở các nhà máy, xí nghiệp,
công nông trường, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp... nhằm
giúp học sinh có biểu tượng rõ hơn về những nghề đang cần tìm hiểu.
- Hướng nghiệp qua sinh hoạt hướng nghiệp: Thông tư số 31/TT của
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu: "Để giúp học sinh hiểu rõ các ngành nghề,
các trường tạm thời sử dụng mỗi tháng một buổi lao động để giới thiệu, tuyên
truyền, giải thích về ngành nghề". Sinh hoạt hướng nghiệp nhằm giúp học
sinh có được bước chuẩn bị, sẵn sàng về tâm lí để đi vào lao động sản xuất
xã hội. Các hình thức và nội dung sinh hoạt hướng nghiệp bao gồm:
- Giới thiệu những nghề đang cần nhiều nhân lực, nghề địa phương,
những yêu cầu về sự phù hợp giữa người và nghề.
- Giới thiệu hệ thống các trường đào tạo nghề (Trung ương và địa phương).
Thông tư số 31 - TT của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu lên những
hình thức ngoại khóa chính như sau:
- Xây dựng các tổ ngoại khóa;
- Xây dựng phòng hướng nghiệp;
- Tổ chức cho học sinh tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm và
yêu cầu của các ngành nghề đang phát triển;
- Giới thiệu, tuyên truyền nghề nghiệp với cha mẹ học sinh;
- Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Đội
Thiếu niên Tiền phong trong công tác hướng nghiệp;
- Tổ chức hội thi khéo tay kĩ thuật trong học sinh.
Mỗi hình thức hướng nghiệp có vai trò, vị trí nhất định của nó. Khi áp
dụng, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi trường cần kết hợp chúng
một cách linh hoạt nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp trong nhà
trường phổ thông hiện nay.
4. Giáo dục thể chất
Ý nghĩa của giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất (thể dục) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
giáo dục phát triển toàn diện; thể dục là biện pháp quan trọng nâng cao sức
khoẻ người dân, tăng cường thể chất, làm phong phú đời sống văn hoá xã
hội, nâng cao sức sản xuất xã hội. Giáo dục thể chất theo nghĩa rộng bao
gồm giáo dục rèn luyện thân thể và giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe; rèn
luyện thân thể nghiêng về bồi dưỡng cơ thể, còn giáo dục vệ sinh giữ gìn sức
khỏe lại nghiêng về bảo vệ sức khỏe. Giáo dục thể chất theo nghĩa hẹp, chủ
yếu chỉ rèn luyện thân thể hoặc giáo dục vận động thể dục thể thao.
Hiện nay giáo dục thể chất trong nhà trường phải chú ý làm tốt hai việc:
thể dục và vệ sinh sức khỏe. Giáo dục thể chất trong nhà trường có ý nghĩa
quan trọng, được biểu hiện như sau:
- Giáo dục thể chất có thể thúc đẩy học sinh phát triển thân thể khỏe
mạnh, tăng cường thể chất cho học sinh.
- Giáo dục thể chất là bộ phận không thể thiếu để thúc đẩy sự phát triển
toàn diện của học sinh, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền giáo dục
phát triển toàn diện. Thân thể khoẻ mạnh là cơ sở vật chất để thực hiện các
nhiệm vụ giáo dục khác. Giáo dục thể chất liên hệ mật thiết với giáo dục đạo
đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ và lao động.
- Giáo dục thể chất không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức
cho học sinh mà còn làm cho tinh thần con người mạnh khỏe, cuộc sống văn
minh vui vẻ, có ý nghĩa, tạo nên hành vi và thói quen văn minh như tôn trọng
kỉ luật, trách nhiệm với tập thể, tôn trọng, tuân theo trật tự công cộng, giữ gìn
môi trường sạch đẹp, giữ gìn vệ sinh.
Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất trong nhà trường
- Tăng cường thể chất, sức khỏe cho học sinh. Tổ chức cho học sinh
rèn luyện thân thể, thúc đẩy cơ thể học sinh phát triển bình thường, tăng
cường thể chất và sức khỏe cho học sinh, phát triển toàn diện năng lực hoạt
động cơ bản của cơ thể cũng như tố chất của cơ thể như: tốc độ, độ nhạy
cảm, sức mạnh, độ dẻo dai, nhanh nhạy... hay các vận động cơ bản như
chạy, nhảy, nâng, trèo... nâng cao vận động thích ứng với môi trường tự nhiên cho học sinh.
Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức cơ bản và kĩ năng kĩ xảo của
vận động thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách khoa học.
- Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen
vệ sinh tốt, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ và tăng cường sức khỏe tâm sinh lí.
- Thông qua thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học
sinh, tạo nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng. Nội dung giáo dục thể chất trong nhà trường:
- Vận động thể dục thể thao: Đây là nội dung chủ yếu của thể dục nhà
trường, là phương pháp chủ yếu bảo đảm sự phát triển khỏe mạnh của tâm lí
học sinh, bao gồm vận động điền kinh, thể thao, các loại bóng, bơi lội, trò
chơi, võ thuật... và hoạt động thể dục trong giáo dục quốc phòng, tận dụng
điều kiện tự nhiên rèn luyện thân thể.
Vệ sinh nhà trường, yêu cầu nhà trường cần xây dựng chế độ học tập,
sinh hoạt hợp lí, kiểm soát, khống chế chặt chẽ hoạt động của học sinh trong
nhà trường, bảo đảm thời gian nghỉ ngơi hợp lí, tạo nên thói quen sinh hoạt
tốt, có kỉ luật. Thiết bị sinh hoạt trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra
vào to nhỏ, thấp cao; hướng ánh sáng, độ phản quang của bảng, đèn chiếu
sáng.... đều đòi hỏi phải phù hợp với mức độ học tập và tình trạng phát triển cơ thể của học sinh.
Cần làm cho học sinh hiểu rõ tri thức vệ sinh học tập, tạo nên thói quen
học tập tốt, tạo tư thế ngồi, đi đứng, viết... đúng tư thế, đảm bảo cho học sinh
phát triển bình thường. Bảo vệ thị lực cho học sinh đang là vấn đề nổi cộm
hiện nay, phải kiên trì bảo vệ sức khỏe đôi mắt, giúp học sinh hiểu về vệ sinh
mắt. Khi sắp xếp chỗ ngồi phải chú ý điều tiết thị lực học sinh. Cũng cần làm
cho học sinh hiểu về vệ sinh vận động, luyện tập theo khoa học.
Thiết bị thể dục và sân bãi cần phù hợp với yêu cầu về sự an toàn,
phòng tránh xảy ra sự cố. Cần tiến hành kiểm tra sức khỏe định kì cho học
sinh, làm tốt công tác phòng và trị bệnh để đảm bảo cho học sinh phát triển tốt
II. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC MỚI
Xã hội loài người đang bước vào thời kì khoa học và công nghệ phát
triển như vũ bão. Với xu thế mở cửa, hội nhập của thế giới, đời sống xã hội,
giáo dục đang phải giải quyết những vấn đề có tính bức thiết và đầy thách
thức. Để giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới có khả
năng và bản lĩnh thích ứng cao với những biến động của xã hội hiện đại, giáo
dục trong nhà trường hiện nay đã được bổ sung những nội dung giáo dục cho phù hợp
1. Giáo dục môi trường a. Khái niệm
Môi trường là vùng vật lí và sinh học xung quanh con người, môi
trường là sinh quyển bao gồm không khí, đất đai và hệ sinh thái có ảnh
hưởng đến cuộc sống của con người. Hệ sinh thái là khái niệm chỉ mối quan
hệ tương hỗ với nhau giữa quần xã sinh vật và môi trường. Hệ sinh thái là
đơn vị tự nhiên của các vật hữu sinh và vô sinh ở trong thế cân bằng. Mô hình hệ sinh thái:
Quần xã sinh vật - Môi trường xung quanh - Năng lượng mặt trời - Hệ sinh thái
Tóm lại môi trường là tất cả các nhân tố vô sinh và hữu sinh bao quanh
Trái Đất, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống và sự phát triển
của mọi lĩnh vực sống.
Ô nhiễm môi trường: Là môi trường bị nhiễm các chất độc hại, nhiễm
bẩn hoặc tiếng ồn quá giới hạn cho phép, hoặc do sự khai thác của con
người làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh thái
Ô nhiễm môi trường là kết quả của ba yếu tố. quy mô dân số, mức tiêu
thụ tính theo đầu người, tác động của môi trường.
Quy mô dân số x Mức tiêu thụ/người x Tác động của môi trường (đơn vị sx) = Độ ô nhiễm
Các loại môi trường bị ô nhiễm: môi trường đất, môi trường nước,
không khí, môi trường bị ô nhiễm bởi tiếng ồn.
b. Nội dung giáo dục môi trường
* Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
Bảo vệ nơi sinh sống và phát triển của quần xã sinh vật và tôn trọng sự
cân bằng của hệ sinh thái.
- Có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh chống lại
những hành vi ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, không khai thác bừa
bãi tài nguyên, tàn phá thiên nhiên.
- Có ý thức giữ gìn sự trong lành của môi trường sống hàng ngày của
con người ở mọi nơi, mọi chỗ.
* Bồi dưỡng kiên thức về môi trường, bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường
- Tìm hiểu về môi trường, hệ sinh thái;
- Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường và tác hại của nó (ô nhiễm đất,
bầu khí quyển, "hiệu ứng nhà kính", ô nhiễm nguồn nước, hoá chất, thuốc trừ sâu...);
- Rèn luyện và hình thành thói quen giữ gìn vệ sinh, bảo đảm sự trong
lành của môi trường sống xung quanh con người, tham gia tích cực vào các
hoạt động giữ gìn và làm sạch môi trường.
c. Các con đường giáo dục môi trường cho học sinh
- Thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội, đặc
biệt là các môn học có nội dung tri thức có thể khai thác bằng cách lồng ghép,
tích hợp hoặc theo môđun để giáo dục môi trường có hiệu quả như môn Sinh
học, Địa lí, Đạo đức, Giáo dục công dân...
- Tổ chức trao đổi, tọa đàm, tranh luận qua các buổi sinh hoạt về môi
trường và bảo vệ môi trường cũng như các hoạt động cụ thể.
Tổ chức cho học sinh tham gia vào việc bảo vệ môi trường: tuyên
truyền, cổ động, trồng cây, chăm sóc hoa, chim, cây cảnh, dọn vệ sinh, diệt ruồi, muỗi, bọ gậy...
- Tham quan, du lịch môi trường sinh thái, danh lam thắng cảnh, rừng
nguyên sinh, các môi trường tự nhiên và thiên nhiên nhân tạo.
2. Giáo dục dân số a. Khái niệm
Giáo dục dân số (population education) là thuật ngữ UNESCO dùng để
chỉ một chương trình giáo dục nhằm giúp người học hiểu được mối quan hệ
qua lại giữa động lực dân số và các nhân tố khác của chất lượng cuộc sống,
từ đó hình thành ý thức trách nhiệm của từng cá nhân trước những quyết
định về lĩnh vực dân số nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân, gia đình và xã hội.
Giáo dục dân số có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một quá trình giúp cho
người học có những hiểu biết về các vấn đề dân số, trên cơ sở đó có nhãn
quan đúng đắn về phát triển dân số, quy mô gia đình, kế hoạch hóa gia đình,
phát triển và cải thiện chất lượng cuộc sống. Giáo dục dân số (GDDS) trở
thành một nội dung giáo dục không thể thiếu được cho học sinh trong nhà
trường hiện nay để thế hệ trẻ nâng cao hiểu biết, có ý thức trách nhiệm để
chuẩn bị làm cha mẹ sau này.
Chính sách dân số như hình thức điều khiển sự phát triển dân số, nó
tác động đến tái sản xuất dân cư, đến các điều kiện sống của mọi tầng lớp
nhân dân và nó hoàn thiện các điều kiện lao động, hệ thống tiền lương và các
nguồn gốc thu nhập khác, điều chỉnh việc chuyển cư và cơ cấu lãnh thổ dân cư.
Tuổi kết hôn: Là độ tuổi được phép xây dựng gia đình theo pháp luật
(tuổi tối thiểu của nữ đủ 18, nam đủ 20). - Quy mô gia đình
- Kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ): Điều chỉnh số con sinh ra một cách
có ý thức, chủ động trong nội bộ một gia đình, thông qua sự tự nguyện của
hai vợ chồng. KHHGĐ là tổng hợp các biện pháp nhằm chủ động và hạn chế
việc sinh đẻ và sinh đẻ có kế hoạch.
b. Mục tiêu của giáo dục dân số
- Cung cấp những tri thức cơ bản về Dân số học, tình hình dân số trên
thế giới, trong nước và địa phương; các chính sách về dân số và KHHGĐ.
- Nâng cao nhận thức về khả năng điều chỉnh hoạt động sinh đẻ của
con người để tạo ra sự cân đối giữa dân số và sản xuất, chất lượng cuộc sống.
- Định hướng những giá trị đạo đức mới, khắc phục những quan niệm
cũ không còn phù hợp về hôn nhân, gia đình và hạnh phúc gia đình.
- Giáo dục thái độ, hành vi đúng đắn trước những vấn đề dân số đất
nước, phát triển dân số hợp lí, phân bố dân cư và lao động.
- Bồi dưỡng tri thức và kĩ năng thực hiện KHHGĐ, nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Biết làm công tác, tuyên truyền về GDDS và KHHGĐ.
c. Nội dung và con đường giáo dục dân số
* Nội dung giáo dục dân số
Về mặt lí thuyết và làm cho học sinh hiểu rõ mối quan hệ giữa dân số,
môi trường và chất lượng cuộc sống.
Dân số <-> Môi trường <-> Chất lượng cuộc sống <-> Dân số Chất lượng cuộc sống Mục tiêu GDDS:
- Bồi dưỡng nhận thức - Thái độ đúng - Có hành vi thích hợp
=> Quy mô gia đình hợp lí; Phát triển dân số hợp lí; Phân bố dân cư hợp lí
- Nắm vững ba khái niệm cơ bản: Dân số, chất lượng cuộc sống và môi trường.
- Nắm vững hai mối quan hệ cơ bản: Quan hệ dân số và chất lượng
cuộc sống, quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống.
Về mặt thực tiễn, vận dụng năm chủ điểm GDDS trong khu vực vào thực tiễn nước ta.
- Quy mô gia đình và chất lượng cuộc sống: Chấp nhận gia đình quy
mô nhỏ, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, sinh cách nhau 5 năm (QĐ 162 HĐBT).
- Tuổi kết hôn hợp lí: Nữ đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi, vận động kết hôn
muộn khi nữ đủ 22 tuổi, nam đủ 24 - 25.
- Tư cách và trách nhiệm làm cha mẹ: Được trang bị những kiến thức
tối thiểu về sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ thai nghén và
sinh sản, nuôi con, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm làm cha mẹ.
- Nắm được mối quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống,
từ đó làm nổi bật tính cấp bách của kế hoạch hoá dân số và sinh đẻ - KHHGĐ
trong hiện tại và tương lai. Xác định và lựa chọn những giá trị xã hội có liên
quan đến dân số (như số con, con trai, con gái, hạnh phúc gia đình...)
* Các con đường giáo dục dân số
- Thông qua phương pháp lồng ghép - tích hợp nội dung GDDS vào các
môn học tự nhiên, xã hội.
- Thông qua các hoạt động ngoại khoá: nói chuyện về dân số, sinh hoạt
câu lạc bộ tìm hiểu về dân số, KHHGĐ, hoạt động nghệ thuật, tuyên truyền về dân số.
- Tổ chức cho học sinh tham gia cuộc tuyên truyền về GDDS, tư vấn về GDDS.
- Phổ biến, giới thiệu cho học sinh nắm được các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về dân số (chính sách dân sô), các chiến lược
phát triển dân số và xây dựng, nâng cao chất lượng cuộc sống.
3. Giáo dục giới tính
a. Khái niệm và ý nghĩa
Giới tính là những đặc điểm riêng biệt về giải phẫu sinh lí cơ thể và
những đặc trưng về tâm lí (hứng thú, tình cảm, xúc cảm, tính cách, năng lực,
nhận thức...) tạo nên sự khác biệt giữa giới nam và nữ.
Giáo dục giới tính (GDGT) là "giáo dục về chức năng làm một con
người có giới tính, điều quan trọng là đề cập vấn đề giới tính một cách công
khai và đầy đủ ở lớp từ nhà trẻ đến đại học, giúp cho học sinh cảm thấy an
toàn và tự do trong việc biểu lộ cảm xúc liên quan tới đời sống giới tính" (theo
Từ điển bách khoa về giáo dục). Ta có thể hiểu GDGT là một quá trình tác
động sư phạm hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những
đặc trưng và những khuynh hướng phát triển của nhân cách nhằm xác định
thái độ xã hội cần thiết của cá nhân đối với các vấn đề giới tính.
GDGT có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lí của thanh thiếu niên
học sinh. Xã hội hiện đại đã có những yếu tố và điều kiện dẫn đến sự phát
triển sớm về giới ở trẻ em. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao, sự bùng nổ
thông tin với nhiều phương tiện nghe nhìn, phim ảnh về cuộc sống gia đình,
tình yêu, quan hệ nam nữ ảnh hưởng rất nhiều và nhanh nhậy với thế hệ trẻ.
Xã hội hiện đại cần phải rất quan tâm đến vấn đề GDGT.
- GDGT ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục dân số. GDGT cung cấp
những kiến thức khoa học về dân số kế hoạch hoá gia đình, sức khoẻ sinh
sản, về hạnh phúc gia đình... giúp cho học sinh có hiểu biết và ý thức làm chủ
trong các quan hệ tình bạn, tình yêu và hôn nhân sau này; thực hiện được
mục tiêu và nội dung của giáo dục dân số trong thế hệ trẻ - một bộ phận rất quan trọng trong dân cư.
- GDGT là con đường hữu hiệu ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm qua con
đường tình dục, đặc biệt là HIV - AIDS.
- GDGT sẽ giúp cho thanh thiếu niên học sinh hình thành thái độ, hành
vi đúng đắn trong các mối quan hệ bạn bè khác giới, biết làm chủ trong việc
giải quyết các vấn đề có liên quan đến tình yêu, hôn nhân, gia đình, xây dựng
cuộc sống lành mạnh, có văn hoá, hướng tới cuộc sống hạnh phúc.
b. Nội dung và các con đường giáo dục giới tính
* Nội dung giáo dục giới tính bao gồm những kiến thức về sự phát triển của giới nam và nữ. - Về giải phẫu sinh lí.
- Cấu tạo, chức năng của các cơ quan sinh dục nam - nữ.
- Tuổi dậy thì và những biểu hiện, cách nhận biết và giải quyết những
"bí ẩn" ở tuổi dậy thì.
- Sinh sản và sức khoẻ sinh sản vị thành niên.
- Các kiến thức, hiểu biết về sức khoẻ của giới, phòng tránh thai, phòng
tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục.
Giáo dục về các mối quan hệ xã hội theo giới của cá nhân mỗi người:
- Quan hệ hôn nhân, gia đình.
- Quan hệ, bổn phận của mỗi người nam, nữ khi trở thành cha mẹ, con
cái (trai, gái, dâu, rể), ông bà, anh chị, em...
- Quan hệ bạn bè và bạn khác giới. - Tình yêu nam - nữ
Giáo dục, hình thành kĩ năng xác định các giá trị xã hội; lí tưởng, lẽ
sống, hạnh phúc gia đình, dân tộc, con cái (trai, gái, tình yêu, cuộc sống, tình
yêu, cuộc sống, tình bạn...).
* Các con đường giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông - Thông
qua giảng dạy, học tập các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội bằng
phương pháp lồng ghép hoặc tích hợp.
- Thông qua các chương trình, hoạt động ngoại khoá như: + Diễn đàn
trao đổi về các chuyên đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân, gia đình.
+ Tìm hiểu các tài liệu, sách báo, phim, ảnh về cấu tạo, chức năng, vệ
sinh thường thức, phòng tránh các bệnh của các bộ phận sinh dục, sinh sản của nam - nữ.
+ Triển lãm về phòng tránh thai (phương thức, phương tiện, dụng cụ...).
- Qua tư vấn (tình yêu, hôn nhân, gia đình, các bệnh của mỗi giới, tâm lí và bệnh tâm lí...).
Qua các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá, văn nghệ với các
đề tài về giới, về hôn nhân, hạnh phúc gia đình...
- Qua các hoạt động vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao.
- Qua các môn học tự chọn (nấu ăn, nữ công, du lịch, cắm tỉa hoa,
nhạc, họa, kĩ thuật...).
4. Giáo dục phòng chống ma túy a. Khái niệm
Ma túy là những chất như thuốc phiện, hêrôin, côcain, moocphin... khi
vào cơ thể người sẽ gây nghiện và huỷ hoại, làm thay đổi các chức năng sinh
lí, tâm lí của con người. Ma túy có thể được đưa vào cơ thể người qua các con đường:
- Hút thuốc phiện, cần sa.
- Ngửi, hít hêrôin, côcain bằng cách đốt cháy trực tiếp rồi ngửi, hít khói
của chúng vào miệng, mũi.
- Nhai, nuốt, uống các thuốc kích thích thần kinh.
- Tiêm, chích dưới da, tĩnh mạch các chất như moocphin, đôlacgan,
hêrôin dưới dạng lỏng.
Nghiện ma túy: Theo nghĩa khoa học thì nghiện ma túy là trạng thái
nhiễm độc cơ thể theo chu kì hay mãn tính khi đã sử dụng chất ma tuý thành thói quen.
Những biểu hiện có thể nhận biết người nghiện ma túy:
- Ở thể nhẹ (mới mắc nghiện một thời gian ngắn): ngáp vặt, chảy nước
mắt, nước mũi, hay ho vặt, vã mồ hôi, khi đói thuốc thì mắt lờ đờ, chân tay đờ
đẫn, không muốn làm gì ngoài việc đi tìm thuốc để thoả mãn cơn nghiện.
- Ở thể nặng thì nôn mửa, xuất huyết đường tiêu hoá, đau buốt xương,
cơ, khớp, nhức đầu, sút cân, cơ thể suy sụp. Khi đói thuốc mà không được
đáp ứng thì người nghiện ủ rũ, co giật, sùi bọt mép, đau buốt, mỏi mệt toàn
thân. Người nghiện thường lên cơn nghiện vào một thời điểm nhất định trong
ngày và hầu như không thể cưỡng lại được nếu như không có một ý chí kiên
cường, chịu đựng, vượt qua cơn đau, đòi hỏi của cơ thể.
Hiện nay người ta có thể dùng phép thử nước tiểu của người nghiện
bằng que chỉ thị màu sẽ biết chính xác tình trạng nghiện ma tuý của người
nghiện một cách nhanh chóng.
Những người rơi vào nghiện ma túy không tránh khỏi những tai hoạ sau:
- Sức khoẻ, trí tuệ bị huỷ hoại, không có sức đề kháng với bệnh tật,
luôn uể oải, không còn khả năng lao động.
- Người nghiện ma tuý làm cho hạnh phúc gia đình tan vỡ, tài sản
khánh kiệt, trở thành gánh nặng cho gia đình.
- Ma túy là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy các tệ nạn xã hội khác, là
bạn đồng hành của tội ác và tội phạm.
- Ma túy là con đường ngắn nhất dẫn tới lây nhiễm HIV/AIDS.
b. Mục đích giáo dục phòng chống ma túy học đường
- Nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ, học sinh về tính chất và tác hại
của ma tuý, một hiểm hoạ của xã hội loài người, quốc gia, dân tộc, thời đại.
Mọi người, đặc biệt là thanh thiếu niên học sinh phải cảnh giác với kẻ thù nguy hiểm này.
- Tuyên truyền, giáo dục cho học sinh biết cách phòng chống ma tuý
cho bản thân, cho gia đình và xã hội.
- Làm cho học sinh biết tổ chức, xây dựng lối sống lành mạnh, lạc
quan, yêu đời, không mắc vào các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút làm
cho nhân cách, phẩm chất bị đồi bại, thân thể tàn phế.
Giáo dục phòng chống ma tuý còn có mục đích làm cho học sinh biết tỏ
thái độ kiên quyết chống lại việc sản xuất, buôn bán, tàng trữ và sử dụng trái
phép ma tuý và những người tiếp tay cho tệ nạn ma tuý này.
c. Các hình thức giáo dục phòng chống tệ nạn ma tuý trong trường học
- Thông qua dạy học các môn Chính trị, Đạo đức, Giáo dục công dân..
- Qua các buổi sinh hoạt tập thể (sinh hoạt lớp, Đoàn, Đội, chào cờ, ngoại khoá, diễn đàn).
- Tổ chức cho học sinh tham gia tuyên truyền, phổ biến các
chủ trương của nhà nước, của chính quyền về phòng chống ma túy.
Tham gia các phong trào tuyên truyền, vận động bài trừ các tệ nạn xã hội ở địa phương.
Tổ chức các hoạt động, sáng tác thơ ca, họa, các tiểu phẩm nghệ thuật
và tổ chức diễn đàn vàn nghệ của thầy và trò với những nội dung tuyên
truyền, vận động, giáo dục thiết thực, cụ thể, hấp dẫn về phòng chống ma tuý.
Cho học sinh (nhất là học sinh các lớp lớn tuổi) trực tiếp được nghe,
hoặc trao đổi với những thanh niên bị rơi vào con đường ma túy nay đã cai
nghiện được nói về nỗi đau khổ vì nghiện ngập để học sinh hãy tránh xa ma
túy. Cũng có thể cho học sinh trực tiếp tiếp xúc với cha, mẹ, người thân của
một số người mắc nghiện ma tuý để họ được chứng kiến nỗi cực nhục của
các gia đình có người nghiện như thế nào. Đó chính là bài học để các em
không bao giờ mắc vào các tệ nạn xã hội này.
- Tổ chức cho học sinh xem các bộ phim, vở diễn nói về tác hại của
nghiện ma túy; tổ chức tọa đàm, trao đổi cụ thể qua các hình tượng nghệ
thuật; viết thu hoạch về tác hại của nghiện ma túy mà tự giác xa lánh nó.
- Tổ chức các hội nghị giữa chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh
và học sinh của lớp, trường về phòng chống ma túy ở trường và địa phương.
Sau đó thực hiện kí cam kết đối với từng gia đình và từng học sinh không
mắc vào các tệ nạn xã hội, không nghiện hút, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển chất ma tuý.
5. Giáo dục giá trị
a. Những Khái niệm cơ bản
Giá trị là phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay
của một con người, là cái làm cho vật được thừa nhận là có ích lợi, đáng quý,
là tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai
cấp, nhóm xã hội; nói chung là các giá trị vật chất và giá trí vật chất tinh thần
có ý nghĩa đối với cuộc sống.
Hệ giá trị hay còn gọi là hệ thống giá trị, đó là một tổ hợp giá trị khác
nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định thành một
tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong
việc đánh giá con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá
trị. Cá nhân con người luôn tiếp cận với hệ thống giá trị.
Thang giá trị đó là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp
theo một trật tự ưu tiên nhất định. Thang giá trị còn gọi là thước đo giá trị.
Chuẩn mực giá trị trong hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự
nhất định, một thứ tự ưu tiên. Có những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chuẩn mực
chung cho nhiều người, chiếm vị trí ở bậc cao hoặc then chốt, được coi là giá trị chuẩn.
Định hướng giá trị: Theo Từ điển Bách khoa Xô viết, định hướng giá trị
là: l) Cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ giúp chủ thể đánh giá thực
tại chung quanh và định hướng trong thực tại đó. 2) Phương pháp phân loại
các khách thể của cá nhân theo giá trị của chúng. Định hướng giá trị hình
thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và thể hiện trong các mục
đích tư tưởng, chính kiến ham muốn... của nhân cách.
Giáo dục giá trị có thể hiểu là một quá trình tổ chức, hướng dẫn, kích
thích hoạt động tích cực của người được giáo dục để họ lĩnh hội được các giá
trị xã hội, hình thành nên hệ thống giá trị của cá nhân, phù hợp với mong đợi của xã hội.
b. Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị
Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị:
- Nhận thức được kiến thức văn hoá, khoa học, kĩ năng nghề nghiệp
mà họ đang học trong trường là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực với họ
trong sự phát triển tiếp tục cũng như ứng dụng trong đời sống...
- Có thái độ trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện được các
giá trị nêu trên, đồng thời không tán thành, không chấp nhận những giá trị
phản lại các giá trị đó, dám đấu tranh bảo vệ những giá trị chân chính đích
thực của xã hội chúng ta.
- Có hành động thực tiễn thể hiện ở việc học tập, nghiên cứu, chiếm
lĩnh bằng được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo văn hoá, khoa học, nghề nghiệp...
thể hiện ở sự quan tâm gắn bó với công việc, sự nghiệp của cá nhân và trách nhiệm với xã hội...
Mục đích và nhiệm vụ của giáo dục giá trị đòi hỏi phải làm cho hệ thống
giá trị xã hội mong đợi chuyển vào thành hệ giá trị trong mỗi công dân, nhất là
đối với học sinh, sinh viên, làm cho nhân cách của họ có giá trị cao trước xã
hội, đáp ứng yêu cầu mà xã hội đòi hỏi trong hiện tại và tương lai.
c Nội dung giá dục giá trị
Nội dung những giá trị chung, cơ bản cần phải giáo dục cho thế hệ trẻ bao gồm:
- Hoà bình ổn định và an ninh của đất nước.
- Độc lập và thống nhất Tổ quốc. - Tự do và dân chủ.
- Lòng nhân đạo, sống có tình nghĩa.
- Sức khoẻ của bản thân và cộng đồng.
- Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng hiền tài, trọng học vấn. - Giá trị nghề nghiệp.
- Tình bạn, tình yêu và cuộc sống gia đình. - Nếp sống văn minh.
- Những giá trị về giới.
Có rất nhiều giá trị phải giáo dục, song cần phải lựa chọn những giá trị
cơ bản, tối thiểu, vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phù hợp với đối tượng giáo
dục, lựa chọn các giá trị đó cần quan tâm đến những phương hướng cơ bản sau:
- Phải quán triệt sâu sắc mục đích giáo dục.
- Coi trọng cả những giá trị truyền thống tốt đẹp lẫn giá trị hiện đại.
- Phải chú ý tính đặc thù về đối tượng, về lứa tuổi, về nghề nghiệp, về giới.
- Phải xem xét những giá trị đó trong một tổng thể có hệ thống, cân đối, hài hoà.
d. Các con đường giáo dục giá trị
- Giáo dục hình thành các giá trị ở con người trước hết từ gia đình. Trẻ
thấm nhuần các giá trị cũng như cách trẻ học nói, học cảm nhận, học biểu lộ
thái độ và học hành vi của người lớn ở xung quanh trẻ. Toàn bộ bầu không
khí tâm lí - xã hội, toàn bộ cuộc sống của gia đình được biểu hiện ở những
người gần gũi, thân thiết nhất đều có tác động hình thành giá trị cho trẻ.
- Thông qua việc cá nhân học tập, rèn luyện. Giá trị cũng được tiếp thu
từ con đường dạy học như các tri thức khác, nó cũng cần người học nắm
được khái niệm, tri thức, có trình độ để phân tích, nhìn thấy bản chất, tính quy
luật, sự phát triển và biểu hiện của giá trị mà mình lĩnh hội. Trong đó, con
đường rất quan trọng để lĩnh hội các giá trị là tự học, tự nghiên cứu, tự suy
nghĩ, phân tích, thể nghiệm để tự rút ra kinh nghiệm, kết luận để hình thành
nên những giá trị cho mình.
Môi trường sư phạm: Tác động của môi trường sư phạm có ý nghĩa hết
sức to lớn đối với việc hình thành giá trị cho học sinh, sinh viên. Các yếu tố
của môi trường giáo dục ở các bậc học từ trường mẫu giáo, trung học phổ
thông đến các đại học, chuyên nghiệp trước hết là:
- Môi trường văn hoá vật chất. Từ trường, lớp, thư viện, nhà ăn, xưởng
thực tập, phòng thí nghiệm đến vườn hoa, cây cảnh, nhà vệ sinh, phòng ở, tất
cả đều tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi của mỗi con người sống trong đó.
- Môi trường tâm lí - xã hội. Trước hết là nội quy, quy chế, cách thức
quản lí điều hành, cách xử lí các mối quan hệ giữa người và người trong đời
sống ở nhà trường. Không khí tâm lí, dư luận của nhóm, tập thể lớp, phòng
ở... đều có tác động mạnh đến sự lây lan tâm lí trong định hướng, đánh giá... các giá trị.
- Quan hệ thầy trò. Tác động của giáo viên đến người học là một nhân
tố hết sức đặc biệt trong việc hình thành các giá trị ở người học. Người giáo
viên không chỉ là người giúp cho người học lĩnh hội kiến thức, hình thành kĩ
năng, kĩ xảo cho người học mà còn mang trong mình những giá trị quý báu để
tác động đến người học bằng toàn bộ nhân cách của mình.
Môi trường văn hoá - xã hội: Ngoài.việc tiếp thu giá trị trong quá trình
lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo qua học tập ở nhà trường, việc hình thành
các giá trị còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nguồn gốc, nền tảng, bản sắc
văn hoá, đạo đức của cộng đồng, xã hội.
- Văn hoá, tôn giáo, phong tục, tập quán, nếp sống của mỗi cộng đồng,
dân tộc, nhóm xã hội có ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành những giá trị
của mỗi thành viên trong cộng đồng đó.
- Các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại, phong phú,
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó tác động đến con người ở mọi nơi, mọi lúc,
thấm dần vào con người những quan điểm, cảm xúc, nhu cầu, khát vọng,
những phương hướng hoạt động về các mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức,
thẩm mĩ, khoa học công nghệ mà thực chất đó là hình thành sự định hướng
giá trị ở con người một cách rất tự nhiên.
- Các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Những chủ trương chính sách về giáo dục, về việc làm, về khuyến khích tài
năng... có ý nghĩa lớn đến định hướng giá trị của học sinh, sinh viên.
Việc nêu lên những con đường giáo dục giá trị như trên mới chỉ nhằm
định hướng cho việc lựa chọn những biện pháp, hình thức giáo dục giá trị phù
hợp với mỗi loại đối tượng trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
6. Giáo dục quốc tế
a. Ý nghĩa của giáo dục quốc tế
Khuyến nghị của Đại hội đồng UNESCO năm 1974 đã nêu: Giáo dục
quốc tế là quá trình sinh hoạt xã hội, nhờ đó mà cá nhân và nhóm xã hội học
tập để phát triển toàn bộ năng lực, quan điểm, khuynh hướng và tri thức của
cá nhân về những nguyên tắc quan hệ hữu nghị giữa nhân dân và các quốc
gia có hệ thống xã hội và chính trị khác nhau, dựa trên sự tôn trọng quyền
con người và các quyền tự do cơ bản.
Ở nước ta, ngoài ý nghĩa chung của giáo dục quốc tế đã nêu trên còn
có ý nghĩa riêng của mình. Cụ thể là từ khi bước sang giai đoạn đổi mới đến
nay chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hoà bình. Hơn nữa Việt Nam là một thành viên của ASEAN, đã
thiết lập quan hệ ngoại giao nhiều nước trên thế giới. Do đó, việc nâng cao
hiểu biết quốc tế cho mọi công dân, đặc biệt là thế hệ trẻ là cấp bách để có
thể hội nhập với các nước một cách tự tin, sáng suốt và có trách nhiệm trong
hoàn cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Giáo dục quốc tế cũng góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ yêu hoà bình,
ghét chiến tranh phi nghĩa, ý thức bảo vệ và xây dựng đất nước, trách nhiệm
bảo vệ môi trường, bảo vệ di sản văn hoá của các dân tộc, của nhân loại, có
những hiểu biết về phát triển hài hoà giữa kinh tế và xã hội, dân số, có thái độ
trách nhiệm đối với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng.
b. Mục tiêu giáo dục quốc tế
Về kiến thức: Có những hiểu biết hệ thống về các nội dung cơ bản của giáo dục quốc tế.
Về thái độ: Thừa nhận và xây dựng cho bản thân những giá trị đúng
đắn, có thái độ tích cực tham gia vào việc tuyên truyền, vận động thực hiện
nội dung của giáo dục quốc tế, có thái độ tích cực trước việc giải quyết những
vấn đề của bản thân, của cộng đồng, của quốc gia và thế giới.
Về kĩ năng: Có kĩ năng suy nghĩ, phê phán, kĩ năng tìm kiếm giải pháp
phát triển và giải quyết vấn đề. Kĩ năng hành động thể hiện ở năng lực trao
đổi, thảo luận, năng lực hợp tác giải quyết vấn đề.
Giáo dục quốc tế cũng như các nội dung giáo dục khác phải được tiến
hành trong nhà trường, lấy học sinh và sinh viên làm đối tượng giáo dục. Đối
với ngoài nhà trường, đối tượng giáo dục là những người không còn ngồi trên ghế nhà trường.
c. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục của giáo dục quốc tế
Nhiệm vụ giáo dục quốc tế bao gồm:
- Làm cho mọi người quan tâm và hiểu biết đầy đủ về những vấn đề
chung có tính toàn cầu cũng như ở từng khu vực trên thế giới, những vấn đề
đó hiện đang đặt cho nhân loại những trách nhiệm, những đòi hỏi cùng tham
gia và cùng giải quyết để hướng tới một tương lai tốt đẹp.
- Giúp mỗi người trong cộng đồng nhân loại hiểu rõ những tác động tích
cực và tiêu cực của sự phát triển và tiến bộ, nhất là trong cách mạng khoa
học công nghệ, ảnh hưởng của nó đối với mọi vấn đề trong cuộc sống (môi
trường, sự khác biệt về trình độ phát triển, thảm hoạ chung của toàn nhân
loại...) và có cách giải quyết thích hợp.
- Trong xu thế hòa nhập đòi hỏi con người phải tôn trọng tính đa dạng
về chính trị - xã hội, đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ, về lối sống. Từ đó tạo nên sự
phối hợp hài hoà của nhân loại (chung sống hòa bình, khoan dung, chấp nhận
đa chủng tộc, đa dạng về văn hoá), tạo nên sự hòa nhập, sự liên kết có định
hướng. Tất cả những điều đó trở thành nguyên tắc tổng quát trong đời sống
nhân loại, trong cộng đồng thế giới, trong bối cảnh chung của thế giới hiện đại.
Nội dung giáo dục quốc tế được tập trung vào những vấn đề sau:
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
- Hoà bình và hợp tác quốc tế.
- Quyền con người, quyền trẻ em.
- Dân số, nhu cầu phát triển bền vững cuộc sống. - Môi trường.
- Di sản văn hoá nhân loại.
- Hệ thống tổ chức Liên hợp quốc.
d. Các con đường và các điều kiện giáo dục quốc tế trong nhà trường
Giáo dục quốc tế tiến hành trong nhà trường cũng như các nội dung
giáo dục khác đều được thực hiện thông qua hoạt động nội khóa và hoạt động ngoại khóa.