Giáo viên, giảng viên hữu gì? Các quy
định về giáo viên, giảng viên hữu
1. Giáo viên, giảng viên hữu là gì?
Theo Điều 4 Thông số 07/2020/TT-BGDĐT, giảng viên hữu được quy
định như sau:
" a) Giảng viên hữu của sở giáo dục công lập viên chức
được tuyển dụng, sử dụng quản theo quy định của pháp
luật về viên chức;
b) Giảng viên hữu của sở giáo dục thục người lao
động hợp đồng lao động thời hạn 03 năm hoặc hợp đồng
không xác định thời hạn theo Bộ luật lao động, không công
chức hoặc viên chức nhà nước, không đang làm việc theo hợp
đồng lao động thời hạn từ 3 tháng trở lên với đơn vị sử dụng
lao động khác; do sở giáo dục trả lương chi trả các khoản
khác thuộc chế độ, chính sách đối với người lao động theo các
quy định hiện hành."
Như vậy, thể thấy pháp luật Việt Nam chia giảng viên hữu thành hai
nhóm. Nhóm thứ nhất Giảng viên hữu của sở giáo dục công lập;
nhóm thứ hai Giảng viên hữu của sở giáo dục thục. Mỗi nhóm này
sẽ những đặc điểm khác nhau được điều chỉnh bởi quy định pháp luật
khác nhau. Cụ thể, giảng viên hữu thuộc sở giáo dục công lập được
điều chỉnh bởi pháp luật về viên chức. Trong khi đó, giảng viên hữu chịu
sự điều chỉnh dựa vào điểm b khoản 1 Điều 4 như đã nêu trên. Đồng
thời, Điều 3 Thông 45/2014/TT-BGDĐT chuyển đổi loại hình trường đại
học dân lập sang tư thục cũng quy định tương tự về giảng viên hữu:
"Giảng viên hữu người hợp đồng lao động thời hạn 03 năm hoặc
hợp đồng không xác định thời hạn theo Bộ luật Lao động, không công chức
hoặc viên chức nhà nước, không đang m việc theo hợp đồng lao động
thời hạn từ 03 tháng trở lên với đơn vị sử dụng lao động khác; do nhà trường
trả lương chi trả các khoản chế độ, chính sách đối với người lao động theo
các quy định hiện hành."
Đối với giảng viên hữu thuộc sở giáo dục tư thục, đọc quy định của
pháp luật về khái niệm "giáo viên, giảng viên hữu cơ", thể thấy khái niệm
này hai đặc điểm chính, bao gồm:
Thứ nhất, giáo viên, giảng viên hữu những người lao động được
hợp đồng lao động thời hạn lên đến 03 năm hoặc hợp đồng không xác
định thời hạn theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012. Trong đó, tại
điểm a khoản 1 Điều 22 Bộ luật lao động năm 2012 đã quy định về hợp đồng
lao động không xác định thời hạn n sau: "Hợp đồng lao động không xác
định thời hạn hợp đồng trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời
điểm chấm dứt hiệu lực hợp đồng."
Thứ hai, giáo viên, giảng viên hữu ng không phải công chức, viên
chức nhà nước, không làm việc theo hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên
với đơn vị khác, do nhà trường trả lương chi trả mọi khoản chế độ, chính
sách đối với người lao động theo quy định của pháp luật.
Từ hai đặc điểm này, th hiểu một cách đơn giản giáo viên, giảng viên
hữu nhân viên chính thức của nhà trường, chịu sự phâm công tham gia
các hoạt động do nhà trường đề ra, đồng thời được hưởng lương các chế
độ, chính sách đối với người lao động theo quy định của Nhà nước. Đây
đội ngũ giảng viên, giáo viên ng cốt của nhà trường bởi không họ thì
công tác giảng dạy, truyền đạt kiến thức, kỹ năng của nhà trường thể bị
hạn chế.
2. Quy định về giáo viên, giảng viên hữu
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các văn bản quy định về giáo viên, giảng
viên hữu không nhiều bởi nhóm giảng viên hữu của sở giáo dục
công lập đã được điều chỉnh bởi pháp luật về viên chức. vậy, c yêu cầu
khi tuyển dụng giảng viên hữu chủ yếu phụ thuộc o nhu cầu thực tế của
sở giáo dục.
Đối với giảng viên hữu, yêu cầu tuyển dụng bản được đặt ra như sau:
Giảng viên, giáo viên hữu cần bằng Thạc sĩ, Tiến tuỳ thuộc vào yêu
cầu của sở đào tạo
Giảng viên, giáo viên hữu phải được đào tạo kỹ năng, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ phạm để bảo đảm việc truyền đạt kiến thức đến học sinh,
sinh viên một cách hiệu quả.
Mỗi đơn vị cần y dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên hữu đảm bảo các
yêu cầu các vấn đ sức khoẻ, chính trị, kiến thức để hoàn thành mục tiêu đề
ra.
Thực tế, việc c ngôi trường công lập hay sở giáo dục thục được
đội ngũ giáo viên, giảng viên chất lượng, chuyên n giỏi tâm huyết
với sự nghiệp giáo dục một trong những vấn đề then chốt tạo nên sự uy tín
của ngôi trường, thu hút sự quan tâm của học sinh, sinh viên.
3. Các tiêu chí để phát triển giảng viên hữu:
Để phát triển giáo viên, giảng viên hữu - lực lượng nòng cốt của một
sở giáo dục thì một số tiêu chí cần được lưu ý như sau:
- Phát triển số lượng: Số lượng giáo viên, giảng viên tại các sở giáo dục
cần thiết phải tương ứng với quy của sở giáo dục đó. Hiểu một cách
đơn giản số lượng giảng viên giảng dạy phải đáp ứng được nhu cầu học
tập của học sinh, sinh viên, không để xảy ra tình trạng lớp trống tiết, lớp
không giáo viên. Số lượng giáo viên, giảng viên hữu thể thay đổi,
luân chuyển một cách linh hoạt để phù hợp với nh nh thực tế của sở
giáo dục. Đội ngủ giảng viên hữu trách nhiệm rất lớn trong việc bảo
đảm hoạt động giảng dạy tốt, số giờ dạy vừa đủ theo quy định pháp luật.
- Phát triển về chất lượng: Chất lượng của giáo viên, giảng viên hữu
được xác định dựa trên 3 khía cạnh khác nhau, bao gồm: Trình độ chuyên
môn; năng lực giảng dạy đạo đức nghề nghiệp.
Về trình độ chuyên môn của giảng viên hữu: Yếu tố này được coi yếu
tố quan trọng hàng đầu thể phản ánh tri thức của đội ngũ giảng viên
hữu, điều kiện tiên quyết để thực hiện hoạt động giảng dạy nghiên cứu
khoa học. Trình độ chuyên n của giảng viên thể được đánh giá dựa
vào nghiệp vụ chuyên môn, kh năng tiếp cận cập nhật các kiến thức
mới.
Về năng lực giảng dạy: Đội ngũ giảng viên hữu lực lượng nòng cốt
của một sở giáo dục nên hiển nhiên, họ cũng cần nắm các quy tắc, kỹ
năng để tiến hành hoạt động giảng dạy sao cho hiệu quả. Các kỹ năng
giảng dạy của giảng viên hữu được đánh giá phụ thuộc rất nhiều việc
vận dụng kiến thức để truyền đạt tới học sinh, sinh viên một cách thuần thục.
Đó khả năng giảng viên đáp ứng được các nhu cầu học tập, nâng cao
trình độ học vấn.
Về đạo đức của giảng viên hữu: Giảng viên nói chung hay giảng viên
hữu nói riêng đều cần phẩm chất đạo đức tốt chuẩn mực của hội.
Bên cạnh việc n lực phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực
giảng dạy, đạo đức nghề nghiệp cũng một khía cạnh quan trọng một
người giảng viên cần trau dồi.
- Phát triển về cấu:
Về chuyên môn: Cần đảm bảo số lượng giảng viên phù hợp với lĩnh vực,
quy mô nhiệm vụ đào tạo của từng sở giáo dục.
Về lứa tuổi: Mỗi lứa tuổi khác nhau, giảng viên sẽ những điểm mạnh
khác nhau. Trong đó, giảng viên hữu trẻ th tiếp cận những kiến thức
mới nhanh hiệu quả hơn, tuy nhiên kinh nghiệm giảng dạy thì không thể
bằng những giảng viên đã nhiều năm kinh nghiệm. vậy, lứa tuổi của
các giảng viên hữu trong một sở giáo dục phải sự hài hoà để tạo
ra sự chuyển giao hiệu quả giữa các giảng viên với nhau.

Preview text:

Giáo viên, giảng viên cơ hữu là gì? Các quy
định về giáo viên, giảng viên cơ hữu
1. Giáo viên, giảng viên cơ hữu là gì?
Theo Điều 4 Thông tư số 07/2020/TT-BGDĐT, giảng viên cơ hữu được quy định như sau:
" a) Giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục công lập là viên chức
được tuyển dụng, sử dụng và quản lý theo quy định của pháp luật về viên chức;
b) Giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục tư thục là người lao
động ký hợp đồng lao động có thời hạn 03 năm hoặc hợp đồng
không xác định thời hạn theo Bộ luật lao động, không là công
chức hoặc viên chức nhà nước, không đang làm việc theo hợp
đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên với đơn vị sử dụng
lao động khác; do cơ sở giáo dục trả lương và chi trả các khoản
khác thuộc chế độ, chính sách đối với người lao động theo các quy định hiện hành."

Như vậy, có thể thấy pháp luật Việt Nam chia giảng viên cơ hữu thành hai
nhóm. Nhóm thứ nhất là Giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục công lập;
nhóm thứ hai là Giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục tư thục. Mỗi nhóm này
sẽ có những đặc điểm khác nhau và được điều chỉnh bởi quy định pháp luật
khác nhau. Cụ thể, giảng viên cơ hữu thuộc cơ sở giáo dục công lập được
điều chỉnh bởi pháp luật về viên chức. Trong khi đó, giảng viên cơ hữu chịu
sự điều chỉnh dựa vào điểm b khoản 1 Điều 4 như đã nêu ở trên. Đồng
thời, Điều 3 Thông tư 45/2014/TT-BGDĐT chuyển đổi loại hình trường đại
học dân lập sang tư thục cũng có quy định tương tự về giảng viên cơ hữu:
"Giảng viên cơ hữu là người ký hợp đồng lao động có thời hạn 03 năm hoặc
hợp đồng không xác định thời hạn theo Bộ luật Lao động, không là công chức
hoặc viên chức nhà nước, không đang làm việc theo hợp đồng lao động có
thời hạn từ 03 tháng trở lên với đơn vị sử dụng lao động khác; do nhà trường
trả lương và chi trả các khoản chế độ, chính sách đối với người lao động theo
các quy định hiện hành."
Đối với giảng viên cơ hữu thuộc cơ sở giáo dục tư thục, đọc quy định của
pháp luật về khái niệm "giáo viên, giảng viên hữu cơ", có thể thấy khái niệm
này có hai đặc điểm chính, bao gồm:
Thứ nhất, giáo viên, giảng viên cơ hữu là những người lao động được ký
hợp đồng lao động có thời hạn lên đến 03 năm hoặc ký hợp đồng không xác
định thời hạn theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012. Trong đó, tại
điểm a khoản 1 Điều 22 Bộ luật lao động năm 2012 đã quy định về hợp đồng
lao động không xác định thời hạn như sau: "Hợp đồng lao động không xác
định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời
điểm chấm dứt hiệu lực hợp đồng."
Thứ hai, giáo viên, giảng viên cơ hữu cũng không phải là công chức, viên
chức nhà nước, không làm việc theo hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên
với đơn vị khác, do nhà trường trả lương và chi trả mọi khoản chế độ, chính
sách đối với người lao động theo quy định của pháp luật.
Từ hai đặc điểm này, có thể hiểu một cách đơn giản giáo viên, giảng viên cơ
hữu là nhân viên chính thức của nhà trường, chịu sự phâm công và tham gia
các hoạt động do nhà trường đề ra, đồng thời được hưởng lương và các chế
độ, chính sách đối với người lao động theo quy định của Nhà nước. Đây là
đội ngũ giảng viên, giáo viên nòng cốt của nhà trường bởi không có họ thì
công tác giảng dạy, truyền đạt kiến thức, kỹ năng của nhà trường có thể bị hạn chế.
2. Quy định về giáo viên, giảng viên cơ hữu
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các văn bản quy định về giáo viên, giảng
viên cơ hữu không nhiều bởi nhóm giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục
công lập đã được điều chỉnh bởi pháp luật về viên chức. Vì vậy, các yêu cầu
khi tuyển dụng giảng viên cơ hữu chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của cơ sở giáo dục.
Đối với giảng viên cơ hữu, yêu cầu tuyển dụng cơ bản được đặt ra như sau: 
Giảng viên, giáo viên cơ hữu cần có bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ tuỳ thuộc vào yêu
cầu của cơ sở đào tạo 
Giảng viên, giáo viên cơ hữu phải được đào tạo kỹ năng, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ sư phạm để bảo đảm việc truyền đạt kiến thức đến học sinh,
sinh viên một cách hiệu quả. 
Mỗi đơn vị cần xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên cơ hữu đảm bảo các
yêu cầu các vấn đề sức khoẻ, chính trị, kiến thức để hoàn thành mục tiêu đề ra.
Thực tế, việc các ngôi trường công lập hay cơ sở giáo dục tư thục có được
đội ngũ giáo viên, giảng viên chất lượng, có chuyên môn giỏi và tâm huyết
với sự nghiệp giáo dục là một trong những vấn đề then chốt tạo nên sự uy tín
của ngôi trường, thu hút sự quan tâm của học sinh, sinh viên.
3. Các tiêu chí để phát triển giảng viên cơ hữu:
Để phát triển giáo viên, giảng viên cơ hữu - lực lượng nòng cốt của một cơ
sở giáo dục thì có một số tiêu chí cần được lưu ý như sau:
- Phát triển số lượng: Số lượng giáo viên, giảng viên tại các cơ sở giáo dục
cần thiết phải tương ứng với quy mô của cơ sở giáo dục đó. Hiểu một cách
đơn giản là số lượng giảng viên giảng dạy phải đáp ứng được nhu cầu học
tập của học sinh, sinh viên, không để xảy ra tình trạng lớp trống tiết, lớp
không có giáo viên. Số lượng giáo viên, giảng viên cơ hữu có thể thay đổi,
luân chuyển một cách linh hoạt để phù hợp với tình hình thực tế của cơ sở
giáo dục. Đội ngủ giảng viên cơ hữu có trách nhiệm rất lớn trong việc bảo
đảm hoạt động giảng dạy tốt, số giờ dạy vừa đủ theo quy định pháp luật.
- Phát triển về chất lượng: Chất lượng của giáo viên, giảng viên cơ hữu
được xác định dựa trên 3 khía cạnh khác nhau, bao gồm: Trình độ chuyên
môn; năng lực giảng dạy và đạo đức nghề nghiệp. 
Về trình độ chuyên môn của giảng viên cơ hữu: Yếu tố này được coi là yếu
tố quan trọng hàng đầu có thể phản ánh tri thức của đội ngũ giảng viên cơ
hữu, là điều kiện tiên quyết để thực hiện hoạt động giảng dạy và nghiên cứu
khoa học. Trình độ chuyên môn của giảng viên có thể được đánh giá dựa
vào nghiệp vụ chuyên môn, khả năng tiếp cận và cập nhật các kiến thức mới. 
Về năng lực giảng dạy: Đội ngũ giảng viên cơ hữu là lực lượng nòng cốt
của một cơ sở giáo dục nên hiển nhiên, họ cũng cần nắm rõ các quy tắc, kỹ
năng để tiến hành hoạt động giảng dạy sao cho hiệu quả. Các kỹ năng
giảng dạy của giảng viên cơ hữu được đánh giá phụ thuộc rất nhiều ở việc
vận dụng kiến thức để truyền đạt tới học sinh, sinh viên một cách thuần thục.
Đó là khả năng giảng viên đáp ứng được các nhu cầu học tập, nâng cao trình độ học vấn. 
Về đạo đức của giảng viên cơ hữu: Giảng viên nói chung hay giảng viên cơ
hữu nói riêng đều cần có phẩm chất đạo đức tốt và chuẩn mực của xã hội.
Bên cạnh việc nỗ lực phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực
giảng dạy, đạo đức nghề nghiệp cũng là một khía cạnh quan trọng mà một
người giảng viên cần trau dồi.
- Phát triển về cơ cấu:
Về chuyên môn: Cần đảm bảo số lượng giảng viên phù hợp với lĩnh vực,
quy mô và nhiệm vụ đào tạo của từng cơ sở giáo dục. 
Về lứa tuổi: Mỗi lứa tuổi khác nhau, giảng viên sẽ có những điểm mạnh
khác nhau. Trong đó, giảng viên cơ hữu trẻ có thể tiếp cận những kiến thức
mới nhanh và hiệu quả hơn, tuy nhiên kinh nghiệm giảng dạy thì không thể
bằng những giảng viên đã có nhiều năm kinh nghiệm. Vì vậy, lứa tuổi của
các giảng viên cơ hữu trong một cơ sở giáo dục phải có sự hài hoà để tạo
ra sự chuyển giao hiệu quả giữa các giảng viên với nhau.
Document Outline

  • Giáo viên, giảng viên cơ hữu là gì? Các quy định v
    • 1. Giáo viên, giảng viên cơ hữu là gì?
    • 2. Quy định về giáo viên, giảng viên cơ hữu
    • 3. Các tiêu chí để phát triển giảng viên cơ hữu: