



Preview text:
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ
mới. Ông là một con người tài hoa nhưng mệnh bạc khi ông mắc phải căn
bệnh phong quái ác từ khi còn rất trẻ. Có lẽ vì vậy mà trong thơ của ông
luôn có hai thế giới song hành, một là sự tươi sáng, thanh khiết, một thế
giới đầy ma quái, cuồng loạn. Đây thôn Vĩ Dạ được ra đời năm 1938 khi
ông đang bị căn bệnh phong quái ác dày vò. Bài thơ được bắt nguồn cảm
xúc từ tấm bưu thiếp có bức tranh phong cảnh xứ Huế và lời hỏi thăm của
Hoàng Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử từng tương tư. Đặc biệt, qua
hai khổ thơ đầu, tình yêu thiên nhiên, con người Vĩ Dạ cùng những tâm sự
thầm kín của nhà thơ được bộc lộ rõ nét.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, là tác
phẩm nổi bật hàng đầu của trong phong trào thơ Mới, thể hiện được gần như hết
phong cách sáng tác của ông, trong đó ở hai khổ thơ đầu, người ta thấy một Hàn Mặc
Tử với tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc thông qua bức tranh quê thanh khiết, đậm chất trữ tình.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Hàn Mặc Tử mở đầu tác phẩm bằng một lời hỏi ngỏ rất đỗi dịu dàng, rất đậm chất Huế,
mang đến những xúc cảm êm đềm của bức tranh quê thanh bình đầy sức gợi “Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?”. Chủ thể “anh” trong câu thơ khiến người đọc không khỏi quẩn
quanh nhiều mối băn khoăn, liệu rằng câu hỏi ấy có phải là lời hờn dỗi, trách yêu đầy
duyên dáng của một cô gái xứ Huế nào với một chàng trai cứ mãi rụt rè chẳng chịu bày
tỏ lòng thương nhớ, để cô phải đợi chờ. Rồi đấy cũng có thể là lời mời mọc dễ thương
của một người con xứ Huế, muốn người bạn phương xa có đôi lần ghé thăm quê
hương xứ sở đầy thơ mộng này. Nhưng rồi nếu nhìn ở một khía cạnh khác có lẽ rằng
câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, lại là lời mà tác giả đang tự vấn lòng mình,
nhắc nhở bản thân về một chuyến ghé thăm thôn Vĩ sau nhiều năm xa cách. Hai từ
“không về” gắn vào giai đoạn cuộc đời đầy đau thương của Hàn Mặc Tử, lại càng thêm
xót xa, đó là ẩn ý về những dự cảm không lành của người thi sĩ khi bị căn bệnh phong
hành hạ, đau đớn, tuyệt vọng vì không thể nào còn về lại được Huế. Người chỉ còn có
thể nhớ về thôn Vĩ, nhớ về người anh yêu thương trong những hồi ức tốt đẹp nhất.
Có thể nói rằng câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ, không chỉ là chiếc cầu dẫn gợi mở ra bức
tranh xứ Huế mà còn bộc lộ một cách sâu kín những nỗi niềm trăn trở của tác giả về
mảnh đất cố đô. Ở nơi ấy có tình yêu, có cuộc sống, có người con gái mà thi sĩ vẫn
thường ao ước, chỉ tiếc rằng tất cả đều trở thành hư không trước trái ngang của bệnh
tật. Trong niềm mong nhớ về Huế, Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ thật tình, thật
đẹp để gợi ra bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ thơ mộng, trong trẻo, tràn ngập sức sống.
Bức tranh mở đầu bằng hình ảnh “nắng” lặp lại hai lần trong câu thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Đó là một buổi bình minh rực rỡ, ánh sáng tràn ngập khắp nơi nơi, lấp ló, xen kẽ qua
từng tán cau xanh mướt. Hàn Mặc Tử đã vẽ lên từng nét thực mượt mà, đầy sức gợi
trong bức tranh quê buổi sớm, trên nền nhàn nhạt ấm áp của nắng mới, hiện trên đó là
hàng cau thẳng tắp, xanh tươi giản dị chân quê. Hình ảnh “nắng hàng cau” là hình ảnh
mà Hàn Mặc Tử dành riêng cho Huế, bởi lẽ hàng cau là biểu tượng đặc trưng của
mảnh đất cố đô, luôn vươn cao mạnh mẽ trên nền trời xanh thẳm, đón những tia nắng
ấm áp đầu tiên trong ngày một cách thật trọn vẹn. Cảnh từng tán lá cau xanh mướt tắm
nắng vàng lấp lánh những sương mai ẩn hiện, làm cho lòng người thêm khoan khoái,
vui tươi, mở ra một bức tranh quê thực tinh khiết thơ mộng. “Nắng mới lên” là những từ
ngữ giản dị mà Hàn Mặc Tử viết về cảnh bình minh, đó là cái nắng ban mai mới mẻ,
êm dịu, không phải cái nắng nóng đổ lửa lúc ban trưa, mà đó là những tia nắng đầu tiên
sau một đêm dài, trong trẻo, ấm áp tràn đầy sức sống, là biểu tượng của sự khởi đầu
tươi mới. Nghĩ xa hơn hình ảnh “nắng mới lên” có lẽ chính là ẩn dụ cho tâm hồn người
nghệ sĩ khi cầm trên tay tấm bưu thiếp của cố nhân, một xúc cảm dịu dàng, đầy hy vọng.
Trong không gian tràn ngập nắng mới, là sự hiện diện của “vườn ai” một khu vườn
mang dáng vẻ trù phú, non tươi, mỡ màng trong từng góc cạnh thông qua hai từ “mướt
quá”, đầy gợi cảm. Bên cạnh đó liệu pháp so sánh “xanh như ngọc” cũng mang đến vẻ
đẹp thực thơ mộng cho bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ, khiến người đọc dễ dàng
tưởng tượng ra hình ảnh một khu vườn Huế xanh non, từng tán lá còn đọng hơi sương
tắm dưới cái nắng ban mai dìu dịu, mang đến cảm giác thực trong trẻo, ngọc ngà, tươi
mát làm sao. Đặc biệt với từ phiếm chỉ “ai” trong “vườn ai” đã gợi ra nhân vật trữ tình
ẩn hiện, làm tăng thêm sức sống, sự hòa hợp của con người với thiên nhiên tươi đẹp.
Đồng thời dẫn mở câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, gợi ra vẻ đẹp con người
xứ Huế chân thành, phúc hậu, ấm áp. Bút pháp “thi trung hữu họa”, lấy cái gầy guộc,
giản đơn của lá trúc để làm đậm lên những nét đẹp duyên dáng, hiền từ của khuôn mặt
người. Hàn Mặc Tử nhớ người Huế bằng những vẻ đẹp hiền hòa, đan xen trong đó là
những nỗi nhớ xa xôi về một người con gái Huế mang trong mình những phẩm chất nổi
bật, thủy chung, dịu dàng, khuôn mặt xinh xắn phúc hậu.
Sau những niềm rung cảm, lạc quan yêu đời từ bức tranh thiên nhiên rực rỡ, nhiều sức
sống, Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa độc giả về đến với bức tranh thiên nhiên buổi tối muộn,
với những cảnh thuyền, cảnh trăng, và dòng sông Hương êm đềm, lặng lẽ. Từ thực
cảnh tràn ngập ánh sáng của buổi bình minh, đến cảnh đêm đen người ta đã tinh tế
nhận ra được sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả từ những niềm vui ngập tràn trong
thân thể, đến nỗi băn khoăn, bất định, nhiều lo lắng, hoang mang trong cảnh thiên
nhiên lạnh lẽo, vắng vẻ.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hàn Mặc Tử viết về cảnh mây, cảnh gió, vốn là những thứ luôn song hành với nhau,
mây có dịch chuyển là bởi vì có gió đưa, dường như chúng luôn có một mối liên hệ gắn
bó thực chặt chẽ. Nhưng khi đọc câu thơ “Gió đi lối gió, mây đường mây” cũng là cảnh
gió, mây ấy thế nhưng chúng lại dường như tách biệt, ngược hướng, gợi ra sự chia ly,
tan vỡ, mà đối với Hàn Mặc Tử ấy là sự chia cắt của tác giả với nhân thế, là những dự
cảm đầy đau thương trước căn bệnh hiểm ác. Đặc biệt lối thơ tả cảnh đóng khung khi
tác giả lặp lại điệp từ “mây”, “gió” hai lần, cùng lối ngắt nhịp 4/3 làm gãy đôi câu thơ,
mang đến sự hụt hẫng, cô liêu khó tả. Con sông Hương vốn đã yên bình lặng lẽ suốt
mấy ngàn năm lịch sử, chứng kiến nhiều những biến cố đau thương của dân tộc, đã
không còn hay bất ngờ trước thế sự đổi thay, nhưng khi bước vào thơ của Hàn Mặc Tử
dòng sông lại dường như mang những xúc cảm bâng khuâng của thi nhân qua mấy
chữ “dòng nước buồn thiu”. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta tưởng chừng như tác giả đang
đứng trước bờ sông Hương, ánh mắt dõi trông xa xa, lòng buồn man mác một nỗi buồn
vô tận đang lan tràn khắp không gian, thực đúng với mấy câu “Cảnh nào cảnh chẳng
đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du. Bên cạnh đó hình ảnh
“hoa bắp lay” lại càng khiến người đọc thấm thía những nỗi lòng của thi nhân, hoa bắp
vốn vô sắc, vô hương, nhạt nhòa trong trời đất, là ẩn dụ sâu sắc cho cuộc đời cho số
phận buồn tẻ, lặng lẽ đang tồn tại như một cái bóng cô liêu, đơn độc giữa cuộc đời, chỉ
có thể mặc cho dòng đời đẩy đưa, nghĩ mà thật xót xa cho cuộc đời “hoa bắp”. Thêm
vào đó cả câu thơ “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” đã mở ra một không gian rộng
lớn vô tận, nhưng thiếu đi cái ấm áp, chỉ có sự lạnh lẽo, đìu hiu bao trùm, xóa tan hết
cái vẻ đẹp rực rỡ nhiều mộng tưởng mà tác giả gợi nhắc trong khổ thơ đầu.
Nhấn mạnh sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả giữa hai khổ thơ từ vui tươi, yêu đời
sang buồn thương, tuyệt vọng. Vì quá đau đớn, xót xa cho cuộc đời nhiều bất hạnh của
mình, Hàn Mặc Tử lại tìm về với trăng, người bạn tri kỷ tâm giao của thi sĩ, vẫn luôn
gắn bó với người trong nhiều vần thơ vừa trong trẻo vừa kỳ dị, liêu trai khó tả. Hình ảnh
trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ xuất hiện thực đẹp và hiền hòa ở câu “Thuyền ai chở bến
sông trăng đó”, ánh trăng vàng nhàn nhạt phủ lên con thuyền nan đang xuôi theo dòng
nước, và mặt sông dập dềnh lấp lánh những ánh trăng rực rỡ. Một khung cảnh thật
nhiều mộng ảo và tình tứ biết bao dường như đã phần nào xua đi được những nỗi
buồn thương trong tâm hồn tác giả. Thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn chẳng thể quên đi hết
những nỗi hoang mang, lo lắng cho cuộc đời mình trong câu thơ “Có chở trăng về kịp
tối nay?”, ấy là cảm xúc lo lắng không yên, dự cảm chẳng lành trước cuộc đời ngắn
ngủi sắp hết của mình. Ông sợ rằng bản thân không còn kịp được nhìn thấy ánh trăng
đẹp đẽ, không còn thấy được “bạch nguyệt quang” của cuộc đời – người con gái xứ
Huế, người mang lại cho ông những niềm vui sống, hy vọng về một tình yêu đẹp giữa
lúc sóng gió cuộc đời đang bủa vây thân xác héo gầy, dù rằng đó chỉ là một tấm bưu thiếp mà nàng gửi đi.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua
tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa
cảm Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi
và day dứt trong lòng người đọc. Cảnh sắc thiên nhiên và niềm tha thiết với cuộc sống
của thi nhân được thể hiện qua hai khổ thơ thật trong sáng, độc đáo và giàu sức biểu
cảm. Qua đó, ta thấy được một tâm hồn cuộc đời, tha thiết với cuộc sống mãnh liệt của
tác giả, từ đó biết trân quý cuộc sống, trân quý những phút giây của hiện tại đừng để hối tiếc.
Document Outline
- Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nh