Hệ thống luận điểm trong “Một thời đại trong thi ca”| Đại học Sư Phạm Hà Nội

Hệ thống luận điểm trong “Một thời đại trong thi ca”| Đại học Sư Phạm Hà Nội giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực

窗体顶端
Hệ thống luận điểm trong “Một thời đại
trong thi ca”
27/04/2020
Hệ thống luận điểm trong “ Một thời đại trong thi ca
(Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân)
Người trình bày: Nguyễn
Văn Thành
I. GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ THI NHÂN VIỆT NAM
Mười năm, một quãng thời gian ngắn ngủi của tiến trình văn
học, song đối với phong trào Thơ Mới, mười năm cả một thời
đại thi ca. Một thời đại được đánh dấu bằng bài thơ củaTình già
Phan Khôi đăng trên báo số 122 ngày 10 tháng 3Phụ nữ tân dân
năm 1932, một trào lưu văn học mới ra đời, sự giải phóng tình cảm
nhân, tự do thể hiện những điều thầm kín chừng như bị đè nén
hơn 10 thế kỷ của nền văn học trung đại đã tạo nên thành tựu lớn
trong lịch sử thi ca Việt Nam. của Hoài ThanhThi nhân Việt Nam
Hoài Chân bản tổng kết phong trào Thơ Mới, bảng xướng
danh để tôn vinh những tài năng thơ ca Việt Nam thế kỷ XX,
công trình phê bình lý luận văn học đáng trân trọng.
Thi nhân Việt Nam viết năm 1941, hoàn thành năm 1942, in
lần đầu năm 1942 tại nhà in nhân Nguyễn Đức Phiên, cho
đến nay cuốn sách đã được tái bản rất nhiều lần. Cuốn sách ra đời
vào thời kỳ đỉnh cao của Thơ Mới với hàng loạt các tên tuổi
những tập thơ hay lần lượt ra đời như : Chế Lan Viên Điêu tàn
(1937), Xuân Diệu (Đời nay, Hà Nội, 1938), Huy CậnThơ Thơ
Lửa thiêng Mấy vần thơ (1940), Thế Lữ - , tập mới (Đời Nay,
nội, 1941), Lưu Trọng Lư – (1939), Quách Tấn – Tiếng thu Mùa cổ
điển, Nguyễn Bính (Lê Cường, Nội,Lỡ bước sang ngang
1940), Vũ Hoàng Chương – Thơ say Thi nhân Việt (1940)… và sau
Nam, phong trào Thơ Mới đi vào bế tắc, nhường bước cho trào lưu
mới ra đời. Đặc biệt trong tác phẩm, chuyên luận Một thời đại
trong thi ca với cấu trúc tự nhiên chặt chẽ, với lý luận sắc bén,
vừa ý vị nhẹ nhàng trong nét bút tài hoa đã phản ánh những nét
bản, đặc trưng của phong trào từ lúc thơ mới ra đời, đấu tranh với
lối thơ cũ cho đến lúc thơ mới hoàn toàn chiến thắng.
II. HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM TRONG MỘT THỜI ĐẠI THI
CA
Một thời đại trong thi ca một bản tuyên ngôn, một bản
hùng ca khải hoàn, một công trình hoàn chỉnh nhất về diện mạo
của phong trào Thơ Mới trong 10 năm vinh quang. Trong khảo
luận này, tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân đã trình bày những luận
điểm về :
- Nguồn gốc thơ mới
- Cuộc tranh luận thơ mới-thơ cũ;
- Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới;
- Đặc điểm về hình thức và thể loại;
- Tinh thần cốt lõi của thơ mới;
1. Về nguồn gốc Thơ Mới:
Mở đầu trong , Hoài Thanh Hoài Chân đãMột thời đại thi ca
nhận định: Một hội suốt mấy ngàn năm kéo dài một cuộc sống
gần như không đổi, về hình thức cũng như về tinh thần. Triều đại
tuy bao lần hưng vong, giang san tuy bao lần đổi chủ, song mọi
cuộc biến cố về chính trị ít khi ba động đến cuộc sống nhân dân …
Nhưng nhất đán, một cơn gió mạnh bỗng từ xa thối đến. Cả nền
tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là
cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế
kỷ (Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh Hoài Chân, trang 9). Sự
ảnh hưởng của phương Tây đi vào đời sống tâm hồn con người
Việt Nam đã làm một cuộc đổi thay thần tốc Bao nhiêu cuộc thay
đổi trong khoảng năm sáu mươi năm mà như năm sáu mươi thế kỷ
(sđd, trang 10). Công cuộc Âu hóa đi qua các giai đoạn hình thức,
tưởng, thay đổi tập quán, cách sinh hoạt hàng ngày, đi tâm hồn
con người tạo cách nghĩ, tình cảm con người cũng thay đổi. Những
mực thước của nền giáo dục phong kiến đã bị một phen điên đảo,
những chuẩn mực hội đã thay đổi, tình cũng đổi mới, tất nhiên
cách thể hiện trong thơ cũng đổi mới. Hoài Thanh Hoài Chân đã
nhận định Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ cái khát vọng
nói những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành hiện
thực. Cái khát vọng khẩn thiết đến đau đớn” (sđd, trang 11).
Một vấn đề cần nhìn nhận khi người Pháp lần lượt bỏ chế độ
khoa cử thì thể Đường luật cũng theo đó mất đi địa vị độc tôn,
những luật định nghiêm ngặt của Đường thi không thể hiện được
tâm cảm của con người. thơ mới ra đời trong cuộc đấu tranh
luận khốc liệt với thơ cũ.
2. Cuộc tranh luận thơ mới - thơ cũ
Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ trong Một thời đại thi
ca có thể lượt qua các sự kiện sau :
2.1 Cuộc tấn công của thơ mới ;
- Năm 1928, Phan Khôi công kích thơ trên Đông Pháp
thời báo
- Năm 1929, Trương Đình Ru công kích thơ trên Phụ Nữ
tân dân
- Năm 1932, trên Phụ Nữ tân dân số 122 đăng bài Một
lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” của Phan Khôi.
- Năm 1933, nữ Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại hội
Khuyến học Sài Gòn tán dương thơ mới.
- Năm 1934, Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Quy
Nhơn.
- Năm 1935, Nguyễn Thị Kiêm tranh luận với Nguyễn Văn
Hanh tại hội Khuyến học Sài Gòn, Đỗ Đình Vượng, Đình Liên
diễn thuyết tại hội Trí Tri Nam Định.
- Năm 1936, Trương Tửu diễn thuyết tại hội Khai Trí tiến
đức Hà Nội.
Đồng thời trên các báo cũng có nhiều bài bênh vực thơ mới.
2.2 Phản ứng của thơ cũ:
- Năm 1933, tác giả Tân Việt diễn thuyết bênh vực thơ cũ.
- Năm 1934, Tản Đà nói chuyện thơ mới, thơ trên Tiểu
thuyết thứ bảy.
- Năm 1935, Nguyễn Văn Hanh hai lần diễn thuyết tại hội
Khuyến học Sài Gòn.
- Năm 1937, Nguyễn Văn Hạnh diễn thuyết tại hội Quảng
Trị Huế.
Ngoài ra trên nhiều trang báo cũng đăng bài đả kích thơ
mới.
3. Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới
Hoài Thanh Hoài Chân, tác giả của đãThi nhân Việt Nam
ghi lại: Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao
giờ một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ
người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế
Lữ, màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê
mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... thiết tha, rạo
rực, băn khoăn như Xuân Diệu Thi nhân Việt Nam( , Nxb Nội
1988, trang 25). Mười năm (1932-1941), thơ mới đã đấu tranh với
thơ cũ và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang, cái cá nhân được giảitôi
phóng. Tác giả Hoài Thanh Hoài Chân đã chia ra từng giai đoạn
nhỏ:
- Những năm 1932 – 1935 : vai trò của Thế Lữ
- Những năm 1935- 1941 : vai trò của Xuân Diệu Huy
Cận; nhóm thơ tả chân; nhóm thơ tượng trưng.
4. Đặc điểm về hình thức và thể loại
Sự gặp gỡ nền văn minh phương Tây không làm mất đi bản
sắc dân tộc. Mặc dầu ảnh ởng nền văn học phương Tây nhưng
trong phong trào Thơ Mới vẫn mang đậm dấu ấn của nền văn học
truyền thống. Có thể chia thành 3 dòng chính như sau:
- Hồn thơ tiếp thu ảnh hưởng của văn học phương Tây
- Hồn thơ Đường trong phong trào Thơ Mới: Thái Can,
Quách Tấn …
- Dòng thơ tính cách Việt Nam: Lưu Trọng Lư, Nguyễn
Bính …
Về nh thức, phong trào Thơ Mới đã bỏ đi nhiều khuôn
phép xưa của thơ đồng thời tạo ra nhiều cách thể hiện mới như:
Thơ tự do, thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát.
5. Tinh thần cốt lõi của Thơ Mới
Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa hay thơ
thời nay hay thơ mới thể gom lại trong hai chữ tôi ta
Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn t
quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn nhân, cái bản sắc của nhân
chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển
cả.” (sđd, trang 43,44).
Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ Mới là ở chữ Đó là mộttôi.
nhận định chính xác, dứt khoát, tự tin, khoa học. Cái tuyệt đối,tôi
độc lập, trữ tình, tự khẳng định mình tách khỏi cái chung, riêngta
một cõi, một thế giới. Hoài Thanh Hoài Chân khẳng định Đời
chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu.
Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ,
ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu.
Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh,
say đắm vẫn vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận. Ngày (sđd, trang 45). Tác giả đã đưa ra bi kịch của cái tôi
nay lớp thành kiến phủ linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ
lên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng
hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều vẫn hơn trăm
nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ. (sđd, trang 46). Và bi kịch
ấy, họ gửi cả vào tiếng Việt để tạo nên phong trào Thơ Mới đặc sắc
nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.
III Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA CHUYÊN LUẬN
Tiến Dũng trong , KiếnHoài Thanh, tri âm của thi nhân
thức ngày nay số 1992, tháng 3.1992 đã nhận xét Để đạt được
thành công đó, trước hết phải nói đến tài năng cảm thụ văn học
của tác giả. Chính tài năng này đã khiến cho Hoài Thanh cảm thụ
được những cái hay nhất của Thơ mới. chính tài năng này đã
đưa ông trở thành tri âm của thi nhân, của thi ca. Sinh thời Hoài
Thanh rất ngại người ta gọi mình nhà phê bình… Trong cuộc
đời cũng như trong văn chương gặp được kẻ tri âm kể ra cũng khó.
May mắn cho phong trào Thơ Mới, ngay từ buổi đầu đã gặp người
tri âm, cho nên chỉ 10 năm sau khi xuất hiện đã được một cuốn
như Thi nhân Việt Nam.” (nguồn google.com)
lẽ trong văn học Việt Nam, chưa công trình nào tổng
kết một giai đoạn, một trào lưu văn học tài tình như cuốn Thi nhân
Việt Nam của Hoài Thanh Hoài Chân. Tác giả đã dày công
nghiên cứu, sưu tập để chọn trong hàng vạn bài thơ của khoảng
bốn ngàn người thơ đăng báo, in sách trong khoảng mười năm
phong trào Thơ mới (1932 - 1941) để chỉ giữ lại khoảng 168 bài
của 45 tác giả (không kể Tản Đà bài ) bìnhThề non nước
phẩm với trí tuệ uyên bác trong nét bút tài hoa cả sự cảm nhận
tinh tế trên nền kiến thức vững chãi.
Tiểu luận sự kết hợp hài hòaMột thời đại trong thi ca
giữa tính khoa học và tính nghệ thuật.
Về tính khoa học: một chuyên luậnMột thời đại thi ca
trong , công trình khảo cứu văn chương Thi Nhân Việt Nam
giá trị. Chuyên luận trình bày hệ thống luận điểm chuẩn xác,
mạch lạc, trình tự logic từ nguồn gốc thơ mới, cuộc đấu tranh
thơ mới thơ cũ, chặng đường phát triển … Dẫn chứng chọn lọc,
lập luận chặt chẽ uyển chuyển, đầy sức thuyết phục qua cách
nhìn tinh tế, am tường sâu sắc. Tác giả đã cách nhìn xuyên suốt
thời đại, từ quá khứ mấy ngàn năm đến với thời hiện đại bằng cách
nhìn khoa học, thấu đáo. Đồng thời để tăng tính thuyết phục, tác
giả đã sử dụng nhiều biện pháp đối chiếu, so sánh các cấp độ phù
hợp, hiệu quả đặc biệt. Mặc chuyên luận ít nhiều vẫn mang
tính chủ quan, song tác giả vẫn cố gắng thể hiện tích khách quan để
người đọc cảm nhận giá trị của thời đại thi ca như trong Nhỏ to
tác giả viết: Nếu bảo rằng tôi không ái ngại người này, không
khinh ghét người kia, thì e không thực. Nhưng ái ngại hay khinh
ghét, khi xem thơ, tôi chỉ biết thơ. Tôi không hề nghĩ đến danh
vọng của người hay của tôi. Danh vọng quý thật, nhưng điều
quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy: lòng ngay thẳng, ít nhất
cũng phải giữ trọn trong văn chương.” (sđd, trang 345). tác giả
cũng khẳng định “Cho nên gặp thơ hay tôi triền miên trong đó. Tôi
ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người (sđd,
trang 345).
Đó cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề tầm sâu rộng, tinh
tế, đa diện về nhân hội, thời đại, thi ca một cách lôgic
biện chứng, khách quan. một bằng chứng đểThi nhân Việt Nam
đảm bảo tên tuổi địa vị của các tác giả trên văn đàn những năm
1930-1945, bảng xướng danh một thời đại thi ca,lịch trích
ngang ngắn gọn mà đầy đủ như chân dung nhà thơ hiện đại Việt
Nam.
Về tính nghệ thuật: Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh
quả một hồn thơ trong lĩnh vực phê bình, hay nói một cách
khác, ông một nhà thơ đặc biệt làm thơ bằng những trang bình
thơ vậy…” (Ngô Văn Phú, hanoi.vnn.vn). Nét thu hút người đọc
trong Thi nhân Việt Nam
Lời văn trong giàu cảm xúc, giọng điệuMột thời đại thi ca
thay đổi linh hoạt, trong âm điệu giãi bày, chia sẻ, đồng cảm. cách
sử dụng danh xưng tạo gần gũi như lời trần trình củata, chúng ta
người trong cuộc Thế rồi một hôm nàng đến tìm ta ta thấy
nàng khác hẳn. Vẫn khuôn mặt cân đối ấy, vẫn cái dáng đi nghiêm
chỉnh ấy, vẫn giọng nói nhỏ nhẹ ấy, nhưng mặn mà, nhưng đằm
thắm y như mấy trăm năm trước, hồi nàng còn thơ (sđd, trang
24). Nét đặc sắc của tác giả là trong từng câu chữ luôn tạo âm điệu
ngân vang, lúc nhặt lúc khoan, lúc nhẹ nhàng êm ái như dòng sông
xuôi nguồn ra biển lớn, lúc dào dạt du dương như lời ru giữa trưa
hè, lúc mạnh mẽ khẳng khái như khúc tráng ca cả những lúc
trầm lắng suy: “ Không, từ bao giờ đến bây giờ, từ Homère đến
Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh
liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những buồn vui của loài người và
nóp sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. (sđd, trang
35). Tác phẩm mang dáng dấp phê bình văn học lại không khô
khan bó. Nhiều hình ảnh cụ thể, gợi hình, gợi cảm, gợi liên
tưởng đã thể hiện cảm xúc thành thực, nồng nhiệt, sự đồng cảm sâu
sắc. Phải chắt lọc trong việc đãi cát tìm vàng, phải có tầm nhìn bao
quát và một tâm hồn vị tha đúng mực mới có được những dòng phê
bình sâu sắc, ý nhị đến thế. Đọc những dòng chữ trong Thi nhân
Việt Nam, người đọc tìm gặp vẻ lấp lánh của ngôn từ nghệ thuật, sự
đồng cảm của tâm hồn yêu thơ, nhân hậu bao dung.
Tháng 1 năm 2010
Nguyễn Văn Thành
TinhthầnthơmớitheoHoàiThanhbiểuhiệnrõnhấtởchữ
tôi.Trongthơcũlàchữta,còntrongthơmớilàchữtôi.Tuy
cóchỗgiốngnhaunhưngvẫncóchỗkhácnhau,đólàđiều
chúngtahãycầntìmhiểu.Cáitôilàbảnngãcủamỗicon
ngườimàaicũngcó,làsựtựýthứcvềmình.
NhậnxétvềphongtràoThơmới,HoàiThanhchorằng:Cácnhàthơphong
tràoThơmớiđã“dồntìnhyêuquêhươngtrongtìnhyêutiếngViệt”.Trong
hoàncảnhđấtnướclúcbấygiờ,cónhiềucáchbiểulộlòngyêunước….Các
nhàThơmớiđànhgửilòngyêunướcthươngnòicủamìnhvàotìnhyêutiếng
Việt.Vìhọnghĩrằng,tiếngViệtđãhứngvonghồndântộcnhữngthếhệqua.
VậnmệnhdântộcđãgắnbóvớivậnmệnhtiếngViệt.Họdùngtiếngnóicủa
dântộcđểsángtácthơ,duytrìtiếngnóivàcácthểthơmanghồncốtdân
tộc.Quathơ,họngợicathiênnhiênđấtnước,gửigắmnỗibuồnmấtnước.
Quathơ,cácnhàThơmớiđãpháttriển,đổimớingôntừ,làmchotiếngViệt
trởnênrấtphongphú,trongsáng,tinhtể,hiệnđại.Trongkhivănhọctrung
đạisángtácvănhọcbằngchữHán,chữNôm(ảnhhưởngchữHán)vàcác
thểthơchủyếulàĐườngluật;thìcácnhàThơmớilàmthơbằngtiếngViệt,
chữquốcngữ,tônvinhcácthểthơtruyềnthốngnhư:thơlụcbát,thơbốn
chữ,thơnămchữ…Họcoitiếngnóicủachaônglàlàhươnghỏaquýgiá,
manghồnthiêngdântộc,nênđãtrauchuốttừngữ,hìnhảnh.Tìnhyêutiếng
Việt,yêunghệthuậtthơca,yêubảnsắcvănhóadântộccủacácnhàThơ
mớirấtphongphúsâusắc.Đómộtbiểuhiệntinhtếcủatìnhyêuquêhương
đấtnước.
| 1/9

Preview text:

窗体顶端
Hệ thống luận điểm trong “Một thời đại trong thi ca” 27/04/2020
Hệ thống luận điểm trong “Một thời đại trong thi ca
(Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân)
Người trình bày: Nguyễn Văn Thành
I. GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ THI NHÂN VIỆT NAM
Mười năm, một quãng thời gian ngắn ngủi của tiến trình văn
học, song đối với phong trào Thơ Mới, mười năm là cả một thời
đại thi ca. Một thời đại được đánh dấu bằng bài thơ Tình già của
Phan Khôi đăng trên báo Phụ nữ tân dân số 122 ngày 10 tháng 3
năm 1932, một trào lưu văn học mới ra đời, sự giải phóng tình cảm
cá nhân, tự do thể hiện những điều thầm kín chừng như bị đè nén
hơn 10 thế kỷ của nền văn học trung đại đã tạo nên thành tựu lớn
trong lịch sử thi ca Việt Nam. Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh
– Hoài Chân là bản tổng kết phong trào Thơ Mới, là bảng xướng
danh để tôn vinh những tài năng thơ ca Việt Nam thế kỷ XX, là
công trình phê bình lý luận văn học đáng trân trọng.
Thi nhân Việt Nam viết năm 1941, hoàn thành năm 1942, in
lần đầu năm 1942 tại nhà in tư nhân Nguyễn Đức Phiên, và cho
đến nay cuốn sách đã được tái bản rất nhiều lần. Cuốn sách ra đời
vào thời kỳ đỉnh cao của Thơ Mới với hàng loạt các tên tuổi và
những tập thơ hay lần lượt ra đời như : Chế Lan Viên – Điêu tàn
(1937), Xuân Diệu – Thơ Thơ (Đời nay, Hà Nội, 1938), Huy Cận –
Lửa thiêng (1940), Thế Lữ - Mấy
vần thơ, tập mới (Đời Nay, Hà
nội, 1941), Lưu Trọng Lư – Tiếng thu (1939), Quách Tấn – Mùa cổ
điển
, Nguyễn Bính – Lỡ bước sang
ngang (Lê Cường, Hà Nội,
1940), Vũ Hoàng Chương – Thơ say (1940)… và sau Thi nhân Việt
Nam, phong trào Thơ Mới đi vào bế tắc, nhường bước cho trào lưu
mới ra đời. Đặc biệt trong tác phẩm, chuyên luận Một thời đại
trong thi ca
với cấu trúc tự nhiên mà chặt chẽ, với lý luận sắc bén,
vừa ý vị nhẹ nhàng trong nét bút tài hoa đã phản ánh những nét cơ
bản, đặc trưng của phong trào từ lúc thơ mới ra đời, đấu tranh với
lối thơ cũ cho đến lúc thơ mới hoàn toàn chiến thắng.
II. HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM TRONG MỘT THỜI ĐẠI THI CA
Một thời đại trong thi ca là một bản tuyên ngôn, một bản
hùng ca khải hoàn, là một công trình hoàn chỉnh nhất về diện mạo
của phong trào Thơ Mới trong 10 năm vinh quang. Trong khảo
luận này, tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân đã trình bày những luận điểm về : - Nguồn gốc thơ mới
- Cuộc tranh luận thơ mới-thơ cũ;
- Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới;
- Đặc điểm về hình thức và thể loại;
- Tinh thần cốt lõi của thơ mới;
1. Về nguồn gốc Thơ Mới:
Mở đầu trong Một thời đại thi ca, Hoài Thanh Hoài Chân đã
nhận định: “Một xã hội suốt mấy ngàn năm kéo dài một cuộc sống
gần như không đổi, về hình thức cũng như về tinh thần. Triều đại
tuy bao lần hưng vong, giang san tuy bao lần đổi chủ, song mọi
cuộc biến cố về chính trị ít khi ba động đến cuộc sống nhân dân …
Nhưng nhất đán, một cơn gió mạnh bỗng từ xa thối đến. Cả nền
tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là
cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế
kỷ
” (Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân, trang 9). Sự
ảnh hưởng của phương Tây đi vào đời sống tâm hồn con người
Việt Nam đã làm một cuộc đổi thay thần tốc “Bao nhiêu cuộc thay
đổi trong khoảng năm sáu mươi năm mà như năm sáu mươi thế kỷ

(sđd, trang 10). Công cuộc Âu hóa đi qua các giai đoạn hình thức,
tư tưởng, thay đổi tập quán, cách sinh hoạt hàng ngày, đi tâm hồn
con người tạo cách nghĩ, tình cảm con người cũng thay đổi. Những
mực thước của nền giáo dục phong kiến đã bị một phen điên đảo,
những chuẩn mực xã hội đã thay đổi, tình cũng đổi mới, tất nhiên
cách thể hiện trong thơ cũng đổi mới. Hoài Thanh – Hoài Chân đã
nhận định “Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng
nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành hiện
thực. Cái khát vọng khẩn thiết đến đau đớn
” (sđd, trang 11).
Một vấn đề cần nhìn nhận khi người Pháp lần lượt bỏ chế độ
khoa cử thì thể Đường luật cũng theo đó mất đi địa vị độc tôn,
những luật định nghiêm ngặt của Đường thi không thể hiện được
tâm cảm của con người. Và thơ mới ra đời trong cuộc đấu tranh
luận khốc liệt với thơ cũ.
2. Cuộc tranh luận thơ mới - thơ cũ
Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ trong Một thời đại thi
ca có thể lượt qua các sự kiện sau :
2.1 Cuộc tấn công của thơ mới ;
- Năm 1928, Phan Khôi công kích thơ cũ trên Đông Pháp thời báo
- Năm 1929, Trương Đình Ru công kích thơ cũ trên Phụ Nữ tân dân
- Năm 1932, trên Phụ Nữ tân dân số 122 có đăng bài “Một
lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” của Phan Khôi.
- Năm 1933, nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại hội
Khuyến học Sài Gòn tán dương thơ mới.
- Năm 1934, Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Quy Nhơn.
- Năm 1935, Nguyễn Thị Kiêm tranh luận với Nguyễn Văn
Hanh tại hội Khuyến học Sài Gòn, Đỗ Đình Vượng, Vũ Đình Liên
diễn thuyết tại hội Trí Tri Nam Định.
- Năm 1936, Trương Tửu diễn thuyết tại hội Khai Trí tiến đức Hà Nội.
Đồng thời trên các báo cũng có nhiều bài bênh vực thơ mới.
2.2 Phản ứng của thơ cũ:
- Năm 1933, tác giả Tân Việt diễn thuyết bênh vực thơ cũ.
- Năm 1934, Tản Đà nói chuyện thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.
- Năm 1935, Nguyễn Văn Hanh hai lần diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài Gòn.
- Năm 1937, Nguyễn Văn Hạnh diễn thuyết tại hội Quảng Trị Huế.
Ngoài ra trên nhiều trang báo cũng có đăng bài đả kích thơ mới.
3. Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới
Hoài Thanh – Hoài Chân, tác giả của Thi nhân Việt Nam đã
ghi lại: “ Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao
giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ
người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế
Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê
mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo
rực, băn khoăn như Xuân Diệu
” (Thi nhân Việt Nam, Nxb Hà Nội
1988, trang 25). Mười năm (1932-1941), thơ mới đã đấu tranh với
thơ cũ và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang, cái tôi cá nhân được giải
phóng. Tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân đã chia ra từng giai đoạn nhỏ:
- Những năm 1932 – 1935 : vai trò của Thế Lữ
- Những năm 1935- 1941 : vai trò của Xuân Diệu – Huy
Cận; nhóm thơ tả chân; nhóm thơ tượng trưng.
4. Đặc điểm về hình thức và thể loại
Sự gặp gỡ nền văn minh phương Tây không làm mất đi bản
sắc dân tộc. Mặc dầu ảnh hưởng nền văn học phương Tây nhưng
trong phong trào Thơ Mới vẫn mang đậm dấu ấn của nền văn học
truyền thống. Có thể chia thành 3 dòng chính như sau:
- Hồn thơ tiếp thu ảnh hưởng của văn học phương Tây
- Hồn thơ Đường trong phong trào Thơ Mới: Thái Can, Quách Tấn …
- Dòng thơ có tính cách Việt Nam: Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính …
Về hình thức, phong trào Thơ Mới đã bỏ đi nhiều khuôn
phép xưa của thơ cũ đồng thời tạo ra nhiều cách thể hiện mới như:
Thơ tự do, thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát.
5. Tinh thần cốt lõi của Thơ Mới
Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và
thời nay – hay thơ mới – có thể gom lại trong hai chữ tôita
Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì
quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân
chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển
cả.
” (sđd, trang 43,44).
Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ Mới là ở chữ tôi. Đó là một
nhận định chính xác, dứt khoát, tự tin, khoa học. Cái tôi tuyệt đối,
độc lập, trữ tình, tự khẳng định mình tách khỏi cái ta chung, riêng
một cõi, một thế giới. Hoài Thanh – Hoài Chân khẳng định “Đời
chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu.
Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ,

ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu.
Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh,
say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận.
” (sđd, trang 45). Tác giả đã đưa ra bi kịch của cái tôi Ngày
nay lớp thành kiến phủ linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ
lên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng
hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều vẫn hơn trăm
nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ.
” (sđd, trang 46). Và bi kịch
ấy, họ gửi cả vào tiếng Việt để tạo nên phong trào Thơ Mới đặc sắc
nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.
III Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA CHUYÊN LUẬN
Lê Tiến Dũng trong Hoài Thanh, tri âm của thi nhân, Kiến
thức ngày nay số 1992, tháng 3.1992 đã nhận xét “Để đạt được
thành công đó, trước hết phải nói đến tài năng cảm thụ văn học
của tác giả. Chính tài năng này đã khiến cho Hoài Thanh cảm thụ
được những cái hay nhất của Thơ mới. Và chính tài năng này đã
đưa ông trở thành tri âm của thi nhân, của thi ca. Sinh thời Hoài
Thanh rất ngại người ta gọi mình là nhà phê bình… Trong cuộc
đời cũng như trong văn chương gặp được kẻ tri âm kể ra cũng khó.
May mắn cho phong trào Thơ Mới, ngay từ buổi đầu đã gặp người
tri âm, cho nên chỉ 10 năm sau khi xuất hiện đã có được một cuốn
như Thi nhân Việt Nam.
” (nguồn google.com)
Có lẽ trong văn học Việt Nam, chưa có công trình nào tổng
kết một giai đoạn, một trào lưu văn học tài tình như cuốn Thi nhân
Việt Nam
của Hoài Thanh – Hoài Chân. Tác giả đã dày công
nghiên cứu, sưu tập để chọn trong hàng vạn bài thơ của khoảng
bốn ngàn người có thơ đăng báo, in sách trong khoảng mười năm
phong trào Thơ mới (1932 - 1941) để chỉ giữ lại khoảng 168 bài
của 45 tác giả (không kể Tản Đà và bài Thề non nước) và bình
phẩm với trí tuệ uyên bác trong nét bút tài hoa và cả sự cảm nhận
tinh tế trên nền kiến thức vững chãi.
Tiểu luận “Một thời đại trong thi ca” có sự kết hợp hài hòa
giữa tính khoa học và tính nghệ thuật.
Về tính khoa học: Một thời đại thi ca là một chuyên luận
trong Thi Nhân Việt Nam, là công trình khảo cứu văn chương có
giá trị. Chuyên luận trình bày có hệ thống luận điểm chuẩn xác,
mạch lạc, có trình tự logic từ nguồn gốc thơ mới, cuộc đấu tranh
thơ mới – thơ cũ, chặng đường phát triển … Dẫn chứng chọn lọc,
lập luận chặt chẽ mà uyển chuyển, đầy sức thuyết phục qua cách
nhìn tinh tế, am tường sâu sắc. Tác giả đã có cách nhìn xuyên suốt
thời đại, từ quá khứ mấy ngàn năm đến với thời hiện đại bằng cách
nhìn khoa học, thấu đáo. Đồng thời để tăng tính thuyết phục, tác
giả đã sử dụng nhiều biện pháp đối chiếu, so sánh các cấp độ phù
hợp, hiệu quả và đặc biệt. Mặc dù chuyên luận ít nhiều vẫn mang
tính chủ quan, song tác giả vẫn cố gắng thể hiện tích khách quan để
người đọc cảm nhận giá trị của thời đại thi ca như trong Nhỏ to
tác giả có viết: “Nếu bảo rằng tôi không ái ngại người này, không
khinh ghét người kia, thì e không thực. Nhưng ái ngại hay khinh
ghét, khi xem thơ, tôi chỉ biết có thơ. Tôi không hề nghĩ đến danh
vọng của người hay của tôi. Danh vọng quý thật, nhưng có điều
quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy: lòng ngay thẳng, mà ít nhất
cũng phải giữ trọn trong văn chương.
” (sđd, trang 345). Và tác giả
cũng khẳng định “Cho nên gặp thơ hay tôi triền miên trong đó. Tôi
ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người
” (sđd, trang 345).
Đó là cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề ở tầm sâu rộng, tinh
tế, đa diện về cá nhân và xã hội, thời đại, thi ca một cách lôgic và
biện chứng, khách quan. Thi nhân Việt Nam là một bằng chứng để
đảm bảo tên tuổi địa vị của các tác giả trên văn đàn những năm
1930-1945, là bảng xướng danh một thời đại thi ca, là lý lịch trích
ngang ngắn gọn mà đầy đủ như chân dung nhà thơ hiện đại Việt Nam.
Về tính nghệ thuật: “Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh
quả là có một hồn thơ trong lĩnh vực phê bình, hay nói một cách
khác, ông là một nhà thơ đặc biệt làm thơ bằng những trang bình
thơ vậy…”
(Ngô Văn Phú, hanoi.vnn.vn). Nét thu hút người đọc trong Thi nhân Việt Nam
Lời văn trong Một thời đại thi ca giàu cảm xúc, giọng điệu
thay đổi linh hoạt, trong âm điệu giãi bày, chia sẻ, đồng cảm. cách
sử dụng danh xưng ta, chúng ta tạo gần gũi như lời trần trình của
người trong cuộc “Thế rồi một hôm nàng đến tìm ta và ta thấy
nàng khác hẳn. Vẫn khuôn mặt cân đối ấy, vẫn cái dáng đi nghiêm
chỉnh ấy, vẫn giọng nói nhỏ nhẹ ấy, nhưng mặn mà, nhưng đằm
thắm y như mấy trăm năm trước, hồi nàng còn thơ …
” (sđd, trang
24). Nét đặc sắc của tác giả là trong từng câu chữ luôn tạo âm điệu
ngân vang, lúc nhặt lúc khoan, lúc nhẹ nhàng êm ái như dòng sông
xuôi nguồn ra biển lớn, lúc dào dạt du dương như lời ru giữa trưa
hè, lúc mạnh mẽ khẳng khái như khúc tráng ca và cả những lúc
trầm lắng suy tư : “ Không, từ bao giờ đến bây giờ, từ Homère đến
Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh
liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những buồn vui của loài người và
nóp sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.
” (sđd, trang
35). Tác phẩm mang dáng dấp phê bình văn học lại không khô
khan gò bó. Nhiều hình ảnh cụ thể, gợi hình, gợi cảm, gợi liên
tưởng đã thể hiện cảm xúc thành thực, nồng nhiệt, sự đồng cảm sâu
sắc. Phải chắt lọc trong việc đãi cát tìm vàng, phải có tầm nhìn bao
quát và một tâm hồn vị tha đúng mực mới có được những dòng phê
bình sâu sắc, ý nhị đến thế. Đọc những dòng chữ trong Thi nhân
Việt Nam
, người đọc tìm gặp vẻ lấp lánh của ngôn từ nghệ thuật, sự
đồng cảm của tâm hồn yêu thơ, nhân hậu bao dung. Tháng 1 năm 2010 Nguyễn Văn Thành
TinhthầnthơmớitheoHoàiThanhbiểuhiệnrõnhấtởchữ
tôi.Trongthơcũlàchữta,còntrongthơmớilàchữtôi.Tuy
cóchỗgiốngnhaunhưngvẫncóchỗkhácnhau,đólàđiều
chúngtahãycầntìmhiểu.Cáitôilàbảnngãcủamỗicon
ngườimàaicũngcó,làsựtựýthứcvềmình.
NhậnxétvềphongtràoThơmới,HoàiThanhchorằng:Cácnhàthơphong
tràoThơmớiđã“dồntìnhyêuquêhươngtrongtìnhyêutiếngViệt”.Trong
hoàncảnhđấtnướclúcbấygiờ,cónhiềucáchbiểulộlòngyêunước….Các
nhàThơmớiđànhgửilòngyêunướcthươngnòicủamìnhvàotìnhyêutiếng
Việt.Vìhọnghĩrằng,tiếngViệtđãhứngvonghồndântộcnhữngthếhệqua.
VậnmệnhdântộcđãgắnbóvớivậnmệnhtiếngViệt.Họdùngtiếngnóicủa
dântộcđểsángtácthơ,duytrìtiếngnóivàcácthểthơmanghồncốtdân
tộc.Quathơ,họngợicathiênnhiênđấtnước,gửigắmnỗibuồnmấtnước.
Quathơ,cácnhàThơmớiđãpháttriển,đổimớingôntừ,làmchotiếngViệt
trởnênrấtphongphú,trongsáng,tinhtể,hiệnđại.Trongkhivănhọctrung
đạisángtácvănhọcbằngchữHán,chữNôm(ảnhhưởngchữHán)vàcác
thểthơchủyếulàĐườngluật;thìcácnhàThơmớilàmthơbằngtiếngViệt,
chữquốcngữ,tônvinhcácthểthơtruyềnthốngnhư:thơlụcbát,thơbốn
chữ,thơnămchữ…Họcoitiếngnóicủachaônglàlàhươnghỏaquýgiá,
manghồnthiêngdântộc,nênđãtrauchuốttừngữ,hìnhảnh.Tìnhyêutiếng
Việt,yêunghệthuậtthơca,yêubảnsắcvănhóadântộccủacácnhàThơ
mớirấtphongphúsâusắc.Đómộtbiểuhiệntinhtếcủatìnhyêuquêhương đấtnước.